Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
Từ trường hợp bán TSĐB của các NH và
chuẩn bị bán đấu giá TSĐB của VAMC cho
thấy, Nghị quyết 42 đã thẩm thấu nhanh, các
đơn vị đã mạnh tay áp dụng để thu hồi nợ
xấu nhanh nhất. Từ đó, lãnh đạo một số
NHTM nhận định, hoán đổi nợ xấu thành cổ
phần tại các doanh nghiệp là giải pháp bất
đắc dĩ trước đây của các NH để thu hồi nợ,
và hiện nay càng không phải là giải pháp
phù hợp để lựa chọn khi các NH đang xử lý
nợ xấu theo Nghị quyết 42, thu hồi và bán
TSĐB để thu nợ nhanh nhất. Hơn nữa,
NHNN hiện nay quy định khắt khe về tỷ lệ an
toàn vốn, nên các NH chú trọng tìm nguồn
tăng vốn thay vì đầu tư ra bên ngoài.
Tin nổi bật
Phó thống đốc: "NH phải chịu trách nhiệm
về các lỗi gây mất tiền gửi do mình gây ra"
Chuyển nợ xấu thành vốn góp: Có còn phù
hợp?
ADB dự báo tăng trưởng GDP VN vượt 7%
Thủ tướng: Phấn đấu đạt tăng trưởng ít nhất
6,7% năm 2018
PMI tháng 3 của VN giảm xuống 51,6 điểm
Tỷ trọng của USD trong dự trữ tiền tệ giảm
4 quý liên tiếp
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 02/04)
VN - Index 1.196,61 1,89%
HNX - Index 135,40 2,22%
D.JONES CK Mỹ 23.644,19 1,90%
STOXX CK C.Âu 3.361,50 0,91%
CSI 300 CK TQ 3.886,92 0,30%
Vàng (SJC cập nhật 08h10 ngày 03/04)
SJC Ng.đ/L 36.860 0,11%
Quốc tế USD/Oz 1.342,10 1,46%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.442 0,03%
EUR/USD 1.2303 0,15%
Dầu
WTI USD/th 63,15 3,14%
Thứ Ba, ngày 03/04/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Phó thống đốc: "Ngân hàng phải
chịu trách nhiệm về các lỗi gây
mất tiền gửi do mình gây ra"
Liên tục các vụ việc sổ tiết kiệm của khách hàng "không cánh mà bay"
trong thời gian qua ảnh hưởng lớn đến niềm tin của người gửi tiền. Theo
Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, hoạt động nhận tiền gửi hay cho vay
đều là hoạt động của NH được NHNN ban hành quy định pháp luật đầy
đủ. "Các văn bản đã quy định rõ về quy trình, thủ tục nhận tiền gửi của
khách hàng, trong đó nêu rõ trách nhiệm các TCTD bao gồm công khai
minh bạch quy trình khi nhận tiền gửi; trả đầy đủ gốc và lãi khi đến hạn;
chịu trách nhiệm về lỗi vi phạm và hành vi lợi dụng làm mất tiền gửi của
khách hàng do chính tổ chức mình gây ra". NHNN luôn chỉ đạo hàng
năm và thường kỳ về việc tăng cường kiểm soát nội bộ để tăng cường
kiểm soát hoạt động trong đó có hoạt động gửi tiền. Đối với một số vụ
việc mất tiền, NHNN y/c các NH cần tích cực phối hợp khách hàng và
cơ quan chức năng khác đưa ra phương án xử lý để đảm bảo quyền lợi
và lợi ích hợp pháp. Đại diện NHNN cũng nhấn mạnh khi gửi tiền, các
khách hàng cần đến trụ sở của NH để thực hiện và thường xuyên tra
soát số dư tiền gửi. Khi có dấu hiệu bất thường, khách hàng báo ngay
để ngăn chặn hành vi lạm dụng chiếm đoạt tài sản của khách hàng.
Chuyển nợ xấu thành vốn góp:
Có còn phù hợp?
Chuyển nợ xấu thành vốn góp là hình thức đã được một số TCTD áp
dụng để thu hồi nợ, và hiện đang là một trong các phương án nằm trong
giải pháp xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD. Nhưng chỉ với một vài
trường hợp thực hiện cho thấy đây chưa phải là phương án được ưa
chuộng. Hơn nữa, trong thời điểm Nghị quyết 42 thí điểm xử lý nợ xấu
của các TCTD, cho phép Công ty Quản lý tài sản các TCTD VN và các
NHTM được thu hồi, bán tài sản đảm bảo (TSĐB) đối với các khoản nợ
xấu, thì phương án hoán đổi nợ xấu thành vốn góp lại càng không phù
hợp. Chủ trương tái cơ cấu nợ xấu thông qua việc chuyển nợ thành vốn
chủ sở hữu cũng là một trong những giải pháp để xử lý nợ xấu nhưng
vấn đề là có thực hiện được giải pháp hay không. Vì giải pháp này đòi
hỏi các NH phải có năng lực tài chính rất lớn. Hơn nữa, nếu tình trạng
nợ lớn và quá xấu, NH không thể chuyển nợ xấu thành vốn góp cho DN
được vì cổ đông sẽ không đồng ý để NH đầu tư vào DN đó. Cụ thể, dự
Tài chính – Ngân hàng
3
thảo hướng dẫn việc góp vốn, mua cổ phần của các TCTD đã thiết kế
một mục riêng quy định về việc hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ
phần của các TCTD tại DN đối với nợ thuộc nhóm 5, hoặc nợ đã được
xử lý bằng dự phòng rủi ro; tổng mức góp vốn, mua cổ phần dưới mọi
hình thức không vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của NH.
Nhưng cho đến nay vẫn chưa có thông tin mới về hướng dẫn thực hiện
hoán đổi nợ thành vốn góp. Thế nhưng, trong các phương án xử lý nợ
xấu được nêu trong Đề án cơ cấu lại các TCTD và xử lý nợ xấu giai
đoạn 2016-2020: Đối với nợ xấu của DNNN, đại diện chủ sở hữu có
trách nhiệm xác định định hướng hoạt động của DN để có biện pháp xử
lý phù hợp, trong đó xử lý dứt điểm TSĐB của khoản nợ (nếu có); trường
hợp tiếp tục duy trì hoạt động thì cho phép TCTD chuyển nợ thành vốn
góp, hoặc bổ sung nguồn vốn cho DN để có nguồn trả nợ TCTD. Từ
trường hợp bán TSĐB của các NH và chuẩn bị bán đấu giá TSĐB của
VAMC cho thấy, Nghị quyết 42 đã thẩm thấu nhanh, các đơn vị đã
mạnh tay áp dụng để thu hồi nợ xấu nhanh nhất. Lãnh đạo một số
NHTM nhận định, hoán đổi nợ xấu thành cổ phần tại các DN là giải
pháp bất đắc dĩ trước đây của các NH để thu hồi nợ, và hiện nay càng
không phải là giải pháp phù hợp để lựa chọn khi các NH đang xử lý nợ
xấu theo Nghị quyết 42, thu hồi và bán TSĐB để thu nợ nhanh nhất.
Hơn nữa, NHNN hiện nay quy định khắt khe về tỷ lệ an toàn vốn, nên
các NH chú trọng tìm nguồn tăng vốn thay vì đầu tư ra bên ngoài. Theo
TS.Bùi Quang Tín, Trường Đại học NH TP.HCM nhận định, đối với việc
xử lý nợ xấu, mở rộng giải pháp là cần thiết, nhưng việc chuyển các
món nợ khó đòi của NH thành cổ phần tại DN đó vẫn là giải pháp khó
khả thi nhất. Bởi các NH đã tiến hành cho vay, khi vào tiếp quản thành
cổ đông của DN đó chưa chắc đủ khả năng quản lý, vì không đủ sức
am hiểu ngành hàng, từng lĩnh vực.
Chốt Q.I/2018, tỷ giá USD/VND
ổn định
Trong Q.I/2018, tỷ giá USD/VND có đợt biến động đáng chú ý từ cuối
tháng 2 đến nay. Mức tăng của giá bán USD trên biểu niêm yết của các
NHTM ghi nhận từ 100-120 VND, dồn vào cuối tháng 3. Đến 30/3, giá
USD bán ra của NH Ngoại thương (Vietcombank) đã giảm xuống còn
22.820 VND, 30 VND so với đầu tuần. Mức cao nhất gần 22.880 VND
trong đợt tăng vừa qua tại một số NHTM hiện cũng đã điều chỉnh xuống
còn 22.830 - 22.840 VND. Với điều chỉnh trên, tỷ giá USD/VND theo
4
biểu niêm yết của các NHTM tiếp tục ổn định trong Q.I/2018, gần với
mức 22.770 - 22.780 VND cùng kỳ 2017 và mức 22.750 VND cuối
2017. Hướng điều chỉnh cũng thể hiện trên thị trường LNH và trên thị
trường tự do. Mức giảm khá tương đồng 10-15 VND có ở trên hai thị
trường này so với đầu tuần. Trong Q.I/2018, tỷ giá USD/VND gắn với
nguồn cung ngoại tệ lớn và NHNN liên tục mua vào tăng dự trữ ngoại
tệ. Ở cân đối vĩ mô, số liệu Tổng cục Thống kê vừa công bố, cán cân
thương mại hàng hóa tính chung Q.I/2018 xuất siêu 1,3 tỷ USD, tiếp tục
là yếu tố thuận lợi cho ổn định tỷ giá. Tuy nhiên, trên thị trường LNH,
đến cuối quý này chênh lệch LS VND với USD tiếp tục doãng rộng.
Tính đến phiên 29/3, LS chào BQ LNH VND vẫn tiếp tục 0,01-0,03
điểm % ở tất cả các kỳ hạn so với phiên trước đó. LS chào BQ LNH
VND qua đêm chốt phiên 29/3 ở 0,82%/năm, 1 tuần 0,96%/năm, 2 tuần
1,20%/năm, 1 tháng 1,70%/năm. Trong khi LS chào BQ USD qua đêm
ở mức 1,76%/năm, 1 tuần 1,89%, 2 tuần 1,97%, 1 tháng 2,21%/năm.
Q.I/2018: Khối ngoại mua ròng
11.000 tỷ trên HOSE, tập trung
gom VRE và VIC
TTCK VN trải qua 1/4 chặng đường năm 2018 với những diễn biến rất
tích cực. Kết thúc phiên giao dịch cuối cùng của tháng 3, VN-Index đạt
1.174,46 điểm, #190,22 điểm (19,33%) so với cuối năm 2017 - đây
cũng là mức điểm đóng cửa cao nhất lịch sử của chỉ số này. HNX-Index
cũng 15,6 điểm (13,35%) lên 132,46 điểm. Việc TTCK bứt phá mạnh
trong thời gian này cũng có một phần đóng góp đến từ giao dịch của
khối ngoại. Trong 3th/2018, khối ngoại vẫn giao dịch rất sôi động, họ
mua vào hơn 1,6 tỷ cổ phiếu, trong khi bán ra hơn 1,35 tỷ cổ phiếu, với
tổng giá trị mua vào đạt 76.527 tỷ đồng, còn giá trị bán ra đạt khoảng
66.103,7 tỷ đồng. Tổng khối lượng mua ròng đạt 268,8 triệu cổ phiếu,
tương ứng giá trị mua ròng là 10.424 tỷ đồng. Tuy nhiên, khác với quý
trước, khối ngoại chỉ tập trung mua ròng tại sàn HOSE trong khi bán
ròng khá mạnh ở HNX. Cụ thể, trên sàn HOSE, khối ngoại đã có quý
mua ròng thứ 5 liên tiếp kể từ đầu năm 2017, với giá trị 9,3% so với
Q.IV/2017 nhưng vẫn ở mức cao, đạt trên 11.078,7 tỷ đồng, tương ứng
khối lượng mua ròng là 292,5 triệu cổ phiếu. Như vậy, tính từ đầu năm
2017, khối ngoại đã mua ròng 37.289,6 tỷ đồng tại sàn HOSE. Trong
khi đó, diễn biến giao dịch của khối ngoại tại sàn HNX trái ngược hoàn
toàn so với HOSE. Theo đó, khối ngoại trên HNX bán ròng hơn 654,8 tỷ
đồng, tương ứng khối lượng bán ròng là 23,6 triệu cổ phiếu.
5
6
[Infographic] Gần 150 triệu USD
đầu tư ra nước ngoài của doanh
nghiệp Việt quý I
Theo Tổng cục Thống kê, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào VN có sự
tăng trưởng mạnh mẽ. Con số này đã 2,2 lần và đạt 1.890 triệu USD.
Dù nguồn vốn này đã tăng đáng kể nhưng vốn góp mới và vốn bổ sung
43% so với cùng kỳ 2017, tổng vốn đăng ký trong 3th/2018 xấp xỉ
5.800 triệu USD, 25% cùng kỳ. Tuy nhiên, tổng vốn thực hiện Q.I vẫn
cao hơn cùng kỳ hơn 7%, đạt 3.880 triệu USD. Trên TTCK, khối ngoại
mua ròng 547 triệu USD. Tuy nhiên, bóc tách kỹ khoản tiền này, giá trị
mua ròng giảm chủ yếu do NĐTNN giảm mua trái phiếu trong khi tăng
mua ròng cổ phiếu gấp hơn 3 lần cùng kỳ. Trong khi đó, dòng vốn đầu
tư ra nước ngoài của VN Q.I lại khá khiêm tốn, đạt gần 150 triệu USD.
Cuối 2016, tổng vốn đầu tư ra nước ngoài lũy kế của các DN VN
khoảng 21,4 tỷ USD, nhưng thực hiện chỉ khoảng 7 tỷ USD.
Kinh tế Việt Nam
7
ADB dự báo tăng trưởng GDP
Việt Nam vượt 7%
NH Phát triển châu Á (ADB) vừa đưa ra dự báo tăng trưởng KT VN sẽ
vượt 7% trong 2018, với động lực là tăng trưởng XK nhanh, tăng tiêu
dùng nội địa, và hoạt động đầu tư mạnh mẽ từ nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Ngoài ra, lạm phát được dự báo vào khoảng 3,5%
trong năm nay, do mức giá lương thực và chi phí vận tải trong nước
tương đối ổn định làm giảm tác động của việc tăng mạnh cầu nội địa và
cho vay NH lên lạm phát. Theo Chủ tịch ADB Takehiko Nakao, VN đã
theo đuổi các chính sách KTVM lành mạnh và giảm thâm hụt ngân
sách trong năm 2017, nhờ đó giảm tỷ lệ nợ công trên GDP. “Điều quan
trọng là cần tiếp tục tiến hành cải tổ cơ cấu để nâng cao năng suất và
tính cạnh tranh của nền KT. Hệ thống NH cần được tăng cường bằng
việc xử lý nợ xấu và thắt chặt giám sát. Hoạt động thoái vốn DN nhà
nước cần được đẩy nhanh, song song với tăng cường quản trị DN”. Ông
cũng tái khẳng định cam kết của ADB hỗ trợ VN đạt được tăng trưởng
đồng đều và bền vững hơn về môi trường, vốn là mục tiêu trọng tâm
trong Chiến lược Đối tác quốc gia (CPS) của ADB với VN trong giai đoạn
2016-2020. ADB đang phối hợp chặt chẽ với Chính phủ nhằm bảo đảm
VN sẽ tận dụng tối ưu nguồn tài trợ ưu đãi trị giá 613 triệu USD của
ADB mà VN vẫn có thể tiếp cận trong năm 2018, trước khi chấm dứt
quyền tiếp cận nguồn tài trợ ưu đãi từ ngày 01/1/2019. Theo ông
Nakao, sau khi VN chuyển đổi sang các nguồn vốn dựa trên thị trường
nhiều hơn của ADB (thay vì nguồn vốn hỗn hợp gồm cả tài trợ ưu đãi), ADB
có thể cung cấp ít nhất 1 tỷ USD/năm trong năm 2019 và 2020 thông
qua các hoạt động do Chính phủ bảo lãnh. ADB cho biết, sẽ tăng
cường hỗ trợ cho phát triển KV tư nhân tại VN, sử dụng cả nguồn tài trợ
có và không có sự bảo lãnh của Chính phủ. VN là một trong những
thành viên sáng lập của ADB vào năm 1966. Từ khi khôi phục hoạt
động tại VN vào năm 1993, hỗ trợ của ADB cho VN đã đạt con số 15,4
tỷ USD vốn vay, 310,6 triệu USD hỗ trợ kỹ thuật, và 329,5 triệu USD
viện trợ không hoàn lại.
Thủ tướng: Phấn đấu đạt tăng
trưởng ít nhất 6,7% năm 2018
Theo Thủ tướng, một số chỉ số cơ bản đạt kết quả tốt như GDP Q.I đạt
mức tăng cao nhất trong nhiều năm qua, đạt 7,38%, trong đó, lĩnh vực
nông nghiệp tăng trưởng mạnh, hơn 4%, gấp đôi cùng kỳ 2017. Ngành
công nghiệp và XD 9,7% (cùng kỳ 4,48%), đặc biệt là ngành chế biến
chế tạo tăng rất mạnh, đạt gần 14%. Lạm phát được kiểm soát tốt. CPI
8
tháng 3/2018 0,27% so với tháng trước. CPI BQ Q.I/2018 2,66% so
với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu DV tiêu dùng
9,9% (cùng kỳ 6,4%)… Thành lập mới DN tăng chậm lại. Số lượng
DNTN gặp khó khăn còn cao. “Cần phân tích, làm rõ nguyên nhân, đề
ra các giải pháp để tiếp tục thúc đẩy phát triển DN, nhất là những DN
đổi mới sáng tạo, từ đó xem cần cải cách gì về cơ chế chính sách như
thuế, phí, tín dụng, đất đai, môi trường kinh doanh để tạo điều kiện tốt
hơn cho DN…”. Bên cạnh đó, mặc dù CPI tháng 3 giảm và Q.I tăng
thấp nhưng lạm phát vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng, cần cảnh giác vấn đề
này. Nguyên nhân là giá dầu thô, giá hàng hóa cơ bản của TG có xu
hướng tăng, một số hàng hóa, DV trong nước tiếp tục thực hiện lộ trình
giá thị trường. Các bộ, ngành cần tập trung phân tích, đề xuất giải pháp
phù hợp để kiểm soát lạm phát, ổn định KTVM, không thể chủ quan vấn
đề lạm phát. Thủ tướng cũng đề cập 2 vấn đề nổi lên trong tháng 3 là
an toàn giao thông và cháy nổ diễn biến phức tạp, nhiều vụ việc
nghiêm trọng. Đã xảy ra hơn 1.000 vụ cháy nổ, làm 33 người chết, 66
người bị thương, trong đó có vụ đặc biệt nghiêm trọng như vụ cháy
Carina Plaza. Nhấn mạnh việc khắc phục những tồn tại, yếu kém trong
Q.I, Thủ tướng đề nghị các thành viên Chính phủ đóng góp về các kịch
bản tăng trưởng năm 2018. “Quốc hội giao chỉ tiêu tăng trưởng từ 6,5-
6,7% năm 2018 thì hôm nay là hết Q.I, chúng ta phấn đấu đạt ít nhất
6,7%, từ đó đưa ra các số liệu cụ thể cho các cấp, các ngành liên quan
để đóng góp vào tăng trưởng”, Thủ tướng nêu rõ.
PMI tháng 3 của Việt Nam giảm
xuống 51,6 điểm
Sản lượng và việc làm chỉ tăng khiêm tốn trong tháng, trong khi số
lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng mạnh nhờ XK tăng. Tốc độ tăng
chi phí đầu vào đã chậm lại với giá cả đầu ra cũng tăng chậm hơn trong
tháng 3. Chỉ số Nhà quản trị Mua hàng (PMI) toàn phần lĩnh vực SX VN
của Nikkei – một chỉ số tổng hợp đo lường kết quả hoạt động của
ngành SX - đã giảm xuống 51,6 điểm trong tháng 3 so với 53,5 điểm
trong tháng 2 mà từng là mức cao của 10 tháng. Kết quả chỉ số cho
thấy sức khỏe của lĩnh vực SX đã cải thiện ở mức vừa phải, và đây là
mức cải thiện yếu nhất kể từ tháng 11/2017. Các điều kiện KD đã cải
thiện hơn trong suốt 28 tháng qua. Dữ liệu khảo sát trong tháng 3 cho
thấy sản lượng ngành SX đã tăng nhẹ, và là một trong những mức tăng
chậm nhất trong thời kỳ tăng trưởng kéo dài 4 tháng hiện nay. Ở những
9
nơi sản lượng tăng, nguyên nhân chủ yếu là do số lượng đơn đặt hàng
mới tăng. Tốc độ tăng số lượng đơn đặt hàng mới đã chậm lại, nhưng
vẫn còn mạnh khi có các báo cáo cho thấy nhu cầu khách hàng đã cải
thiện. Tổng số lượng đơn đặt hàng mới tăng nhờ số lượng đơn đặt hàng
mới từ nước ngoài tăng nhanh hơn, và đây là mức tăng đáng kể nhất kể
từ tháng 10/2017. Theo Andrew Harker, PGĐ tại IHS Markit, công ty thu
thập kết quả khảo sát: “Mặc dù vẫn còn tăng trưởng trong tháng 3, lĩnh
vực SX của VN có các chỉ tiêu tăng trưởng yếu hơn, đặc biệt là về sản
lượng. Số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng mạnh nhờ lĩnh vực XK,
từ đó dẫn đến tình trạng lạc quan về triển vọng tăng sản lượng trong
tương lai gần. Các công ty cũng bớt lo lắng về lạm phát hơn khi chi phí
đầu vào tăng chậm hơn nhiều so với tháng 2. Do đó, áp lực lạm phát có
vẻ như đã đạt đỉnh ở thời điểm chuyển giao giữa năm cũ và năm mới”.
Yêu cầu giữ lạm phát cơ bản ở
mức 1,6 - 1,8%
Theo Văn phòng Chính phủ, 3th/2018, CPI biến động theo quy luật tiêu
dùng hàng năm theo đúng kịch bản đã được dự báo trước: tăng cao
trong 2 tháng Tết và giảm trở lại sau Tết. CPI tháng 3/2018 0,97% so
với tháng 12/2017, CPI BQ Q.I/2018 2,82% so với cùng kỳ 2017. Lạm
phát cơ bản BQ 3th/2018 so với cùng kỳ 1,34%. Đây là mức tăng sát
với kịch bản dự báo và trong tầm kiểm soát của Chính phủ trong việc
thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát BQ năm 2018 ở mức 4%. Dự
báo trong 9th còn lại của năm 2018, mặt bằng giá thị trường chịu tác
động đan xen của các yếu tố làm tăng áp lực và các yếu tố kiềm chế
tốc độ tăng giá. Rủi ro về áp lực tăng giá chủ yếu đến từ yếu tố thị
trường như xu hướng phục hồi của giá xăng dầu và một số nguyên liệu
chính trên thị trường TG, gắn với đó là việc tiếp tục thực hiện lộ trình giá
thị trường đối với một số DV công như DV y tế, giáo dục, DV sự nghiệp
công sử dụng NSNN... Bên cạnh đó, cũng có nhiều yếu tố tác động sẽ
giúp kiềm chế tốc độ tăng CPI như cung cầu hàng hóa được cân đối,
nguồn cung hàng hóa dồi dào, giá một số nhóm mặt hàng có xu hướng
giảm khi áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ… Phó thủ tướng giao
NHNN điều hành CSTT linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài
khóa đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, trung hòa nguồn ngoại tệ
thu được từ nguồn đầu tư nước ngoài. Tiếp tục thực hiện các biện pháp
ổn định tỷ giá và mặt bằng LS; phấn đấu kiểm soát lạm phát cơ bản
trong mức 1,6-1,8%.
10
Mỹ cáo buộc Trung Quốc đang
bóp méo thị trường toàn cầu
Ngày 2/4, Nhà Trắng lên tiếng cáo buộc TQ đang bóp méo thị trường
toàn cầu: “Hành vi trợ giá của TQ cũng như tình trạng cung thường
xuyên vượt cầu là những nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng
hoảng thép. Thay vì tấn công các mặt hàng XK của Mỹ được buôn bán
1 cách công bằng, TQ cần phải dừng các tập quán thương mại gây ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia của Mỹ và bóp méo thị trường thế giới”.
Động thái trên đưa ra sau khi TQ tăng mức thuế đối với 128 mặt hàng
NK từ Mỹ, đáp trả lại việc Mỹ áp thuế đối với nhôm và thép NK.
Tỷ trọng của USD trong dự trữ
tiền tệ giảm 4 quý liên tiếp
Theo IMF, trong Q.IV/2017, dự trữ USD ở mức 6.280 tỷ USD, #62,7%
dự trữ tiền tệ toàn cầu, thấp nhất kể từ mức 61,24% trong Q.IV/2013.
Tỷ trọng của USD trong dự trữ tiền tệ 4 quý liên tiếp do tốc độ tăng
trưởng bên ngoài Mỹ có xu hướng mạnh lên, cũng như nhận định của
nhiều thị trường rằng NHTW lớn sẽ cân nhắc giảm chương trình kích
thích KT. Hiện USD vẫn duy trì vị thế là đồng tiền dự trữ lớn nhất. Tỷ
trọng EUR trong dự trữ tiền tệ quốc tế tăng từ 20,05% trong Q.III lên
20,15%, mức cao nhất 3 năm. Tỷ trọng của JPY tăng lên 4,89% trong
Q.IV, mức cao nhất kể từ Q.IV/2002. Tỷ trọng của CNY tăng từ 1,12%
lên 1,23%. Dự trữ tiền tệ toàn cầu tăng từ 11.297 tỷ USD trong Q.III lên
11.425 tỷ USD trong Q.IV/2017, mức cao nhất kể từ Q.II/2015
JPY tăng giá khiến doanh nghiệp
Nhật bi quan nhất 2 năm
Reuters dẫn kết quả cuộc khảo sát hàng quý do NHTW Nhật (BoJ) thực
hiện cho thấy chỉ số niềm tin của DN SX lớn ở nước này 2 điểm trong
Q.I/2018 còn 24 điểm, sv mức 25 điểm mà các nhà dự báo đưa ra trước
đó. Chỉ số này ở mức dương đồng nghĩa với việc số DN lạc quan nhiều
hơn số DN bi quan và ngược lại. Ngoài JPY tăng giá, nỗi lo về nguy cơ
xảy ra một cuộc chiến tranh thương mại sau khi Tổng thống Mỹ tuyên
bố đánh thuế hàng TQ cũng là 1 mối bận tâm của các công ty Nhật vào
thời điểm hiện nay. Đối với DN thuộc lĩnh vực phi SX của Nhật, chỉ số
lạc quan cũng 2 điểm trong Q.I, đánh dấu lần giảm đầu tiên trong 6
quý, còn dương 23 điểm, sv mức dự áo dương 24 điểm. Các DN, thuộc
cả ngành SX và phi SX, đều dự báo điều kiện KD sẽ xấu đi trong 3
tháng tới - kết quả khảo sát được BoJ công bố ngày 2/4.
Kinh tế Quốc tế
11
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://cafef.vn/pho-thong-doc-ngan-hang-phai-chiu-trach-nhiem-ve-cac-loi-gay-mat-tien-gui-do-
minh-gay-ra-20180402220122321.chn
http://cafef.vn/chuyen-no-xau-thanh-von-gop-co-con-phu-hop-20180402085312728.chn
http://ndh.vn/quy-i-2018-khoi-ngoai-mua-rong-11-000-ty-tren-hose-tap-trung-gom-vre-va-vic-
20180402105912784p4c146.news
https://vietstock.vn/2018/03/chot-quy-12018-ty-gia-usdvnd-on-dinh-757-591988.htm
Tin KT vĩ mô http://ndh.vn/infographic-gan-150-trieu-usd-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-cua-doanh-nghiep-viet-quy-i-
20180402112643995p145c151.news
http://bizlive.vn/kinh-te-dau-tu/adb-du-bao-tang-truong-gdp-viet-nam-vuot-7-3442738.html
http://cafef.vn/thu-tuong-phan-dau-dat-tang-truong-it-nhat-67-nam-2018-20180402103433603.chn
http://nhipcaudautu.vn/thi-truong/kinh-te/pmi-thang-3-cua-viet-nam-giam-xuong-516-diem-
3323340/
http://ndh.vn/yeu-cau-giu-lam-phat-co-ban-o-muc-1-6-1-8--20180331034818998p145c151.news
Tin KT Quốc tế http://cafef.vn/my-cao-buoc-trung-quoc-dang-bop-meo-thi-truong-toan-cau-
20180403072809652.chn
http://cafef.vn/dong-yen-tang-gia-khien-doanh-nghiep-nhat-bi-quan-nhat-2-nam-
20180402153006384.chn
https://vietnambiz.vn/ty-trong-cua-dong-usd-trong-du-tru-tien-te-giam-bon-quy-lien-tiep-50067.html
12
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bất động sản BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng Nhà nước NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
Doanh nghiệp Nhà nước DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách Nhà nước NSNN
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Ngân sách trung ương NSTW
Dự án DA Nhập khẩu NK
Dự trữ bắt buộc DTBB Sản xuất kinh doanh SXKD
Đăng ký Kinh doanh ĐKKD Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổ chức tín dụng TCTD
Giấy chứng nhận GCN Tổng tài sản TTS
Giá trị gia tăng GTGT Tổng SP quốc nội GDP
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trung Quốc TQ
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng cá nhân KHCN Trái phiếu Doanh nghiệp TPDN
Kinh tế vĩ mô KTVM Thị trường chứng khoán TTCK
Kho bạc Nhà nước KBNN VN VN
Khu vực KV Vốn điều lệ VĐL
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Vốn tự có VTC
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Xã hội XH
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Xuất khẩu XK
Ngân hàng thế giới World Bank Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Hiệp hội Thép VN VSA
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
Liên minh châu Âu EU Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO