11

T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ

  • Upload
    others

  • View
    4

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ

SỐ ĐẶC BIỆT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP KHOA NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN (2007 – 2017)

Môc lôc Trang

TS. Lê Hồng Thắng - Bàn về dạy-học ngoại ngữ qua đề án dưới góc độ của giáo học pháp 3

Nguyễn Thị Như Nguyệt, Chu Thành Thúy - Đánh giá năng lực đầu ra tiếng Nga của sinh viên trình độ A2-B1 theo khung tham chiếu chung châu Âu tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên 7

Nguyễn Thùy Linh - Kiểm tra đánh giá trong giảng dạy các môn đề án ngôn ngữ - một số chia sẻ từ thực tế 13

Vũ Thị Thanh Huệ - Nhận thức của sinh viên đối với khóa đọc mở rộng trực tuyến với sự trợ giúp của mạng xã hội Edmodo 19

Mai Thị Thu Hân, Nguyễn Thị Liên, Hoàng Thị Tuyết, Dương Thị Ngọc Anh - Tăng cường tính tự học bằng dự án học tập - nghiên cứu tình huống tại trường Đại học Hoa Lư 25

Dương Đức Minh, Dương Lan Hương - Nghiên cứu về sự tương tác giữa người thuyết trình và khán giả khi học kỹ năng thuyết trình của sinh viên chuyên ngành tiếng Anh tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên 31

Phạm Thị Kim Uyên - Sử dụng nhật ký trong dạy biên dịch cho sinh viên chuyên ngữ Đại học Nha Trang 37

Lê Thị Hồng Phúc - Phản hồi của sinh viên về dự án TV show lấy điểm cuối kỳ trong khóa ngữ âm 43

Hán Thị Bích Ngọc - Dạy học ngoại ngữ bên ngoài lớp học - ứng dụng mạng xã hội facebook trong dạy và học tiếng Anh 49

Nguyễn Ngọc Lưu Ly, Quách Thị Nga - Vài nét về việc sử dụng truyền thông đa phương tiện trong giảng dạy tiếng Trung Quốc trình độ sơ cấp tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên 55

Lê Thị Hòa, Đậu Thị Mai Phương - Nâng cao kỹ năng thế kỷ 21 trong học tiếng Anh chuyên ngành thông qua dự án 61

Nguyễn Thị Bích Ngọc, Trần Minh Thành - Phương pháp gia tăng hiệu quả của đề án tạp chí tiếng Anh trong việc học viết cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên 67

Hoàng Thị Huyền Trang, Nguyễn Thị Ngọc Anh - Phát triển khả năng đọc hiểu tiếng Anh cho sinh viên ngoại ngữ thông qua các bài đọc có nội dung bao hàm yếu tố văn hóa phù hợp 73

Nguyễn Quốc Thủy, Nguyễn Thị Đoan Trang - Dạy - học ngoại ngữ qua đề án tạp chí tại trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 79

Nguyễn Tuấn Anh - Thiết kế tổ chức dạy học môn báo chí trực tuyến theo hướng học ngôn ngữ qua dự án như một cách đảm bảo tính đa ngành của chương trình đào tạo 85

Đỗ Thị Sơn, Đỗ Thị Phượng - Nghiên cứu phân tích lỗi sai của sinh viên Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên khi dịch trực tiếp từ Hán Việt sang tiếng Trung Quốc và giải pháp khắc phục 91

Trần Đình Bình - Ứng dụng phương pháp dạy học qua dự án trong dạy học ngoại ngữ ở Việt Nam 97

Lê Thị Khánh Linh, Lê Thị Thu Trang - Phương tiện biểu đạt thái độ của người kể chuyện trong các chương trình talk show của Mỹ và Việt Nam 103

Đỗ Thanh Mai, Phùng Thị Thu Trang - Ứng dụng Moodle trong dạy và học trực tuyến học phần tin học đại cương tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên 109

Mai Thị Ngọc Anh, Vi Thị Hoa, Phạm Hùng Thuyên - Vận dụng phương pháp dạy học theo dự án trong giảng dạy môn tiếng Trung du lịch tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên 117

Trần Thị Hạnh - Nhận thức của sinh viên về việc ứng dụng Edmodo như một công cụ phụ trợ trong học tập 123

Bùi Thị Ngọc Oanh - Cải thiện kỹ năng nói của sinh viên không chuyên trình độ A2 với dạy học qua đề án 129

Journal of Science and Technology

174(14)

N¨m 2017

Nguyễn Hạnh Đào, Đinh Nữ Hà My - Nghiên cứu tình huống về những khó khăn với người học và điều cần lưu ý khi giảng dạy môn tiếng Anh chuyên ngành áp dụng phương pháp học qua dự án 135

Nguyễn Thị Kim Oanh - Sử dụng đường hướng học tập theo dự án cho môn học tiếng Anh chuyên ngành tại Viện Ngoại ngữ, Đại học Bách Khoa Hà Nội: lợi ích, thách thức và đề xuất 141

Vũ Thị Kim Liên - Phát triển năng lực ngữ dụng của sinh viên trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội 147

Đàm Minh Thủy - Tích hợp kỹ năng trong học ngoại ngữ thông qua dự án làm video “Tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa Pháp tại Việt Nam” 153

Nguyễn Thị Thu Hoài - Thực trạng thực tập giảng dạy tiếng Anh ở một số trường THPT tại thành phố Thái Nguyên và các đề xuất giải pháp 159

Nguyễn Thị Ngọc Anh, Hoàng Huyền Trang - Khảo sát lỗi sai của sinh viên Trung Quốc khi học tiếng Việt tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên và những đề xuất khắc phục 165

Quách Thị Nga, Đỗ Thị Thu Hiền - Những vấn đề tồn tại của giáo trình đối dịch Trung - Việt ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục (khảo sát tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên) 171

Phan Thanh Hải - Hướng tới một chương trình đào tạo cử nhân sư phạm tiếng Anh dựa trên các đề án học tập trong đào tạo đại học định hướng thực hành ứng dụng nghề nghiệp 177

Lê Vũ Quỳnh Nga, Lý Thị Hoàng Mến, Nguyễn Thị Thu Oanh - Nâng cao chất lượng bài dịch của sinh viên Khoa Ngoại ngữ - ĐHTN thông qua việc áp dụng phương pháp học tập hợp tác 183

Đoàn Thị Thu Phương - Phong cách học ngoại ngữ của học sinh lớp 11, Nam Định 189

Đinh Thị Liên, Nguyễn Thị Ngọc Anh - Hệ thống biểu tượng trong Then Tày 197

Bùi Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 174(14): 129-134

129

CẢI THIỆN KỸ NĂNG NÓI CỦA SINH VIÊN KHÔNG CHUYÊN TRÌNH ĐỘ A2 VỚI DẠY HỌC QUA ĐỀ ÁN

Bùi Thị Ngọc Oanh*

Khoa Ngoại ngữ - Trường Đại học Nha Trang

TÓM TẮT Sinh viên không chuyên Đại học Nha Trang phải đạt tiếng Anh A2 theo chuẩn Châu Âu cả bốn kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc, Viết. Tuy nhiên, sinh viên không thể nói một câu tiếng Anh hoàn chỉnh. Đối tượng nghiên cứu là 105 sinh viên không chuyên, TA2236, lớp truyền thống, và TAA2.2 học nói theo đề án. Sinh viên luyện nói theo cặp hay nhóm ngoài giờ học, làm hai video và một thuyết trình dựa trên các chủ đề trong sách Life. Kết quả kiểm tra nói cuối kỳ của 2 lớp được so sánh. Khảo sát online, và phỏng vấn cá nhân 12 người học để lấy ý kiến về phương pháp đề án. Dạy học theo đề án tạo cơ hội cho người học làm việc theo nhóm, luyện nói và nâng cao kỹ năng nói. Từ khóa: Dạy học theo đề án, kỹ năng nói, sinh viên không chuyên, trình độ A2, làm video.

GIỚI THIỆU *

Sinh viên không chuyên ngữ tại Đại học Nha

Trang phải đạt trình độ A2 theo khung tham

chiếu châu Âu (CEFR) trước khi tốt nghiệp.

Người học kiểm tra và thi cả bốn kỹ năng:

Nghe, Nói, Đọc, và Viết. Nói là một trong

bốn kỹ năng được đánh giá, tuy nhiên, kết quả

kiểm tra nói của sinh viên qua các năm đều

rất thấp. Sinh viên không thể hiểu câu hỏi

bằng tiếng Anh, không phát âm chuẩn và

không nói một câu hoàn chỉnh. Ngoài ra, khả

năng nghe nói của sinh viên rất yếu.

Thực tế, thời gian giáo viên dành để sửa kỹ

năng nói cho người học trên lớp là rất hạn chế,

đặc biệt là trong các lớp có trên 50 sinh viên,

sinh viên rất ít cơ hội để cải thiện kỹ năng nói.

Giáo viên không thể dành nhiều thời gian cho tất cả các em. Do đó, dạy học theo đề án được

áp dụng để khuyến khích người học luyện nói

theo cặp hay nhóm sau giờ học và nâng cao

kỹ năng nói.

Bài viết này nghiên cứu hiệu quả của phương

pháp dạy học theo đề án nhằm cải thiện kỹ

năng nói của sinh viên không chuyên năm

nhất tại Đại học Nha Trang. Học viên tham

gia là 105 sinh viên tiếng Anh không chuyên

của 2 lớp TAA2.2 và TA2236. Lớp TAA2.2

gồm 52 sinh viên luyện nói theo đề án sau giờ

học và nhóm TA2236 gồm 53 sinh viên luyện

* Tel: 0903544668; Email: [email protected]

nói trong lớp và kiểm tra theo kiểu truyền

thống. Giả thiết trong nghiên cứu này là “Dạy

học theo đề án cải thiện kỹ năng nói của sinh

viên không chuyên” và nghiên cứu này để trả

lời hai câu hỏi cụ thể sau:

1. Dạy học theo đề án cải thiện kỹ năng nói

của người học như thế nào?

2. Người học nghĩ gì về dạy học theo đề án

để cải thiện kỹ năng nói?

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO ĐỀ ÁN

Cơ sở lý luận

Theo Smith & Dodds (1997) [8], dạy học theo

đề án vận dụng lý thuyết vào những bài tập

dùng các tình huống thực tế trong một thời

gian định sẵn của dự án để đạt được các mục

tiêu kết quả bắt buộc và làm cho việc học tập

cá nhân và học theo nhóm dễ dàng hơn.

Theo ArchForKids LLC (2015) [3], dạy học

theo đề án là một phương pháp học đổi mới

có hệ thống thúc đẩy người học nghiên cứu

sâu vào những câu hỏi phức tạp, vận dụng

nhiều chiến thuật quan trọng cho thành công

trong thế kỷ thứ 21, là mô hình lớp học

chuyển từ lớp học lấy giáo viên làm trung tâm

sang lớp học lấy người học làm trung tâm.

Sinh viên đạt được mục tiêu học tập của mình

thông qua tìm tòi, hợp tác làm việc để nghiên

cứu và tạo ra đề án phản ảnh kiến thức của

họ. Người học cũng được kết nối với cuộc

sống bên ngoài lớp học và tiếp cận với những

Bùi Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 174(14): 129-134

130

vấn đề thực tế, và xây dựng mối quan hệ với

các bạn trong nhóm, và rộng hơn nữa là xây

dựng mối quan hệ với cộng đồng. Họ cũng

đạt được nhiều lợi ích từ việc học hỏi các kỹ

năng mới, công nghệ thông tin, trở thành

người giao tiếp giỏi và giải quyết vấn đề

thành thạo.

Nghiên cứu của Maulany (2013) [7] cho thấy kết quả môn nói của học sinh lớp 4 trường tiểu học Bandung đã có tiến bộ qua phương pháp dạy học theo đề án, nhất là kỹ năng nghe hiểu và từ vựng. Những khía cạnh khác như ngữ pháp, sự lưu loát và phát âm cũng được cải thiện, tuy nhiên tiến bộ về mặt nghe hiểu và từ vựng nhiều hơn.

Theo Agustina (2012) [2], luyện nói bốn lần bằng cách báo cáo các bài đọc cho giáo viên, với bạn bè của mình hay với khán giả sau khi đọc các tài liệu đã cải thiện kỹ năng nói của sinh viên chuyên ngành kế toán và họ thấy tự tin hơn khi nói. Sự tự tin đã làm cho kỹ năng nói của họ tốt hơn vì họ không còn sợ mắc lỗi khi nói. Ngoài ra, dạy học theo đề án đã đào tạo người học trở nên độc lập, biết tư duy và thúc đẩy việc học suốt đời.

Kết quả nghiên cứu của Anyahong (2015) [1] cho thấy phương pháp dạy học theo đề án nâng cao khả năng nói tiếng Anh của sinh viên của Viện Công nghệ Thai-Nichi, Thái Lan rất nhiều, và mức độ hài lòng của người học về phương pháp này và sinh viên cảm thấy rất thỏa mãn cho dự án thứ 1, thỏa mãn hơn cho dự án thứ 2 và thỏa mãn cao nhất cho dự án thứ 3 bởi vì họ có quyết tâm cao để hoàn thành dự án. Sinh viên luyện tập theo nhóm trước khi thuyết trình, do đó họ cảm thấy tự tin vào thuyết trình nhóm. Ngoài ra, sinh viên được hỗ trợ luyện tập ngôn ngữ với sự tự do lựa chọn dự án mà họ thích.

Những lợi ích của dạy học theo đề án

Fragoulis (2009) [5] và Bell (2010) [4] cho rằng có nhiều lợi ích của dạy học theo đề án khi dạy tiếng Anh như sau:

- Tạo ra môi trường tối ưu và cơ hội cho luyện nói tiếng Anh và cải thiện kỹ năng ngôn ngữ.

- Người học chủ động thực hiện nhiệm vụ

trong đề án.

- Thúc đẩy kỹ năng cộng tác trong nhóm.

- Thúc đẩy động cơ học tập, sự vui thích và

sự tham gia tích cực vào việc học.

Theo ArchForKids LLC (2015) [3], dạy học

theo đề án khắc phục tình trạng người học đôi

lúc cảm thấy buồn chán, chủ động tham gia

vào bài học và khuyến khích sự sáng tạo. Do

đó, người học sẽ nhớ bài lâu hơn.

Những thách thức khi dạy học theo đề án

Giáo viên phải tự xây dựng tiêu chí chấm

điểm cho đề án vì các đề án khác nhau về

mục tiêu học tập, nội dung, mức độ kiến

thức, chủ đề, thời gian thực hiện đề án và các

hoạt động.

Giáo viên cũng cần chú ý sự năng động nhóm

vì một số thành viên của nhóm không tích cực

tham gia hay không thân thiện trong nhóm.

Do vậy, giáo viên cần chủ động giám sát sự

đóng góp và thực hiện công việc giữa các

thành viên trong nhóm hay phân chia công

việc cho từng thành viên trong nhóm [3].

Marx, Blumenfeld, Krajcik & Soloway

(1997) [6] cho rằng thách thức là độ dài của

khóa học và áp lực từ việc dạy học tất cả các

nội dung trong chương trình vì dạy học theo

đề án mất nhiều thời gian hơn là lớp học lấy

giáo viên làm trung tâm. Giáo viên cũng cần

kỹ năng quản lý nhiều hoạt động đa dạng, và

cả kỹ năng công nghệ thông tin trong trường

hợp người học cần nghiên cứu Internet, hợp

tác làm việc qua mạng của những sinh viên ở

xa, không thể trực tiếp làm nhóm.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Người tham gia

Người tham gia bao gồm 105 sinh viên không

chuyên lớp tiếng Anh A2.2 của trường Đại

học Nha Trang của 2 lớp TAA2.2 và TA236,

và có độ tuổi từ 19 đến 21 tuổi. Người học

phải học 60 tiết trong 3 tháng từ ngày

27/02/2017 đến ngày 27/05/2017 và học 4 tiết

một tuần. Cả hai nhóm đều được giáo viên

Bùi Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 174(14): 129-134

131

kiểm tra kỹ năng nói qua bài giới thiệu bản

thân ở buổi đầu tiên của khóa học.

Các bước tiến hành

Lớp truyền thống, lớp TA2236

Lớp học truyền thống luyện nói trên lớp theo

những chủ đề nói trong sách Life. Lớp kiểm

tra theo cách thông thường theo quy định của

khoa Ngoại ngữ gồm hai phần: thứ nhất là

người học miêu tả bất cứ một bức tranh nào

trong giáo trình Life, và phần hai là giáo viên

sẽ hỏi các câu hỏi và sinh viên trả lời.

Lớp thử nghiệm, TA A2.2

Tuần thứ nhất: Giáo viên giới thiệu chương

trình, tài liệu học và cách kiểm tra kỹ năng

nói theo nhóm. Giáo viên cũng thông báo thời

hạn nộp bài, cách làm dàn ý cho bài nói và

tiêu chí chấm điểm cho từng thành viên của

nhóm. Điểm nói là điểm trung bình cộng của điểm các video và điểm thuyết trình. Tuy làm

theo nhóm nhưng từng thành viên có điểm nói

riêng, tùy theo khả năng phát âm, độ lưu loát

và trả lời câu hỏi.

Tiêu chí chấm 2 video gồm đánh giá về dàn ý

bài nói, quay video ngoại cảnh, phát âm, độ

lưu loát, âm thanh và hình ảnh và độ dài của

video. Sinh viên cũng được giới thiệu trang

web để xem các video mẫu từ sinh viên các

trường khác thi Olympic tiếng Anh toàn quốc

từ trang https://www.facebook.com/olympic

tatoanquoc/?fref=ts

Tiêu chí chấm thuyết trình gồm làm và nộp

dàn ý bài thuyết trình, power point slides,

phát âm, độ lưu loát và trả lời câu hỏi.

Tuần thứ 2: Người học tự chia nhóm nhỏ từ 3

– 4 người hay theo cặp với những thành viên

do họ tự lựa chọn.

Tuần thứ 3 – 4: Người học chọn 3 chủ đề để

làm 2 video và 1 thuyết trình. Các chủ đề

được lấy từ sách Life A1-A2 như nói về

trường đại học Nha Trang, một ngày quan

trọng, một điểm đến du lịch, một ngày

nghỉ… Người học gửi email cho giáo viên

tên nhóm và tên chủ đề thuyết trình và chủ

đề làm video.

Tuần thứ 5 – 8: Các nhóm làm dàn ý chi tiết

cả hai bài thuyết trình và bài video và gửi

email cho giáo viên xem và nhận xét. Nếu dàn

ý sơ sài, các nhóm được yêu cầu làm lại.

Tuần thứ 9 – 11: Người học quay video ngoại

cảnh và chuẩn bị Power point thuyết trình.

Tuần thứ 12: Người học gửi video lên trang

Edmodo của giáo viên, ở đường link

https://www.edmodo.com/home#/group?id=2

2682061.

Tuần thứ 13: Giáo viên nhận xét và cho điểm

video các nhóm.

Tuần thứ 14: Người học thuyết trình trong lớp,

các nhóm khác và giáo viên lắng nghe và đặt

câu hỏi. Sau đó, giáo viên đưa ra nhận xét cho

các nhóm. Cuối cùng, giáo viên chấm điểm

nói cho sinh viên dựa trên tiêu chí chấm điểm

được giới thiệu ngay từ tuần đầu tiên.

Phương pháp thu thập dữ liệu

Nghiên cứu này dựa trên kết quả kỹ năng nói

của 2 videos và một thuyết trình của các

nhóm vào gần cuối khóa học. Cuối khóa, sinh

viên lớp TAA2.2 được yêu cầu trả lời bảng

hỏi gồm 10 câu hỏi trên Surveymonkey ở

đường link: https://www.surveymonkey.com/

r/6HJQ2PH. Để đảm bảo độ tin cậy của dữ

liệu, 12 sinh viên được phỏng vấn cá nhân để

kiểm tra và so sánh tất cả các kết quả thu

được. Ý kiến của sinh viên được ghi lại và

phân tích một cách kỹ càng.

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

Kết quả kiểm tra nói của lớp thử nghiệm

TAA2.2 lấy trung bình cộng từ điểm làm 2

video và một thuyết trình. Kết quả kiểm tra nói

của lớp truyền thống TA236 chỉ có một điểm

kiểm tra vào tuần cuối cùng của khóa học.

Để đảm bảo các giá trị của dữ liệu là đáng tin

cậy, t-test được thực hiện giữa 2 nhóm và cho

ra kết quả số liệu như bảng 1.

Từ bảng 1 chúng ta thấy có sự khác nhau giữa

giá trị trung bình của điểm nói của 2 nhóm là

0,74 (5,47 – 4,73), cho thấy lớp TAA2.2 có

sự tiến bộ trong môn nói hơn nhóm truyền

thống, TA236. Điều này nghĩa là sinh viên

Bùi Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 174(14): 129-134

132

làm theo đề án cho kết quả tốt hơn. Do đó, giả

thiết đưa ra ban đầu là đúng, nghĩa là “Dạy

học theo đề án cải thiện kỹ năng nói của sinh

viên không chuyên”. Kết quả này hoàn toàn

trùng khớp với những nghiên cứu trước đây

của Maulany (1997) [7], Anyahong (2015) [1]

và Agustina (2012) [2] được nêu ở trên.

Bảng 1. Kết quả t-test giữa 2 nhóm

Mean Standard Deviation

p-value The effect

size

Lớp TAA2.2

5,47 1,55

0,012 0,49 Lớp TA2236

4,73 1,52

Với giá trị p=0,012, nhỏ hơn nhiều so với giá

trị alpha 0.5, điều này có nghĩa có sự khác

biệt lớn giữa lớp thử nghiệm và lớp truyền

thống. Sự khác biệt này cho thấy kết quả từ

phân tích dữ liệu không thể xảy ra một cách

ngẫu nhiên mà do kết quả của làm việc theo

đề án đã cải thiện kỹ năng nói của sinh viên.

Để đo lường độ hiệu quả (effect size), độ lệch

chuẩn (standard deviation) cần được tính toán

để giúp xác định độ hiệu quả của phương

pháp làm việc theo đề án. Công thức tính độ

lệch chuẩn của Jacob Cohen (Effect Size

Calculator for T-Test) đã được dùng trong các

nghiên cứu giáo dục như sau:

Cohen’s d = (Mean 2 – Mean 1)/ Standard

Deviation

Cohen’s d = (5,47 – 4,73) / 1,52 0,49

Theo tỷ lệ Cohen, độ hiệu quả được sắp xếp

từ nhỏ đến lớn. Hiệu quả ít là từ 0,00 đến 0,20,

hiệu quả trung bình là từ 0,20 đến 0,50 và

hiệu quả cao là 0,50 hay cao hơn. Do đó, độ

hiệu quả 0,49 là hiệu quả trung bình. Điều

này chứng tỏ luyện nói theo đề án mang lại

hiệu quả trung bình trong phát triển kỹ năng

nói của sinh viên. Đó chính là câu trả lời cho

câu hỏi đầu tiên của bài nghiên cứu là “Dạy

học theo đề án cải thiện kỹ năng nói của

người học như thế nào?”

Trả lời câu hỏi thứ hai là “Người học nghĩ gì

về dạy học theo đề án để cải thiện kỹ năng

nói?” chính là phân tích trả lời khảo sát của

52 sinh viên từ trang web https://www.survey

monkey.com/analyze/nf3EV2dFHB7U6IxJTe

sMIZLQm2vY_2BvAgn7s2e2Jh3ZY_3D và

câu trả lời phỏng vấn cá nhân của 12 sinh

viên lựa chọn ngẫu nhiên. Trước khi tham gia

dạy học theo đề án, người học tự đánh giá về

kỹ năng nói của mình như bảng sau:

Không nói được gì Nói được Nói khá

41,82% 47,27% 12,73%

Gần 50% sinh viên cảm thấy mình nói được, tuy nhiên gần 42% sinh viên không nói được

một câu hoàn chỉnh.

Khi làm việc trong nhóm, sinh viên cảm thấy

những khó khăn sau:

Sắp xếp thời gian

Luyện nói

Ngôn ngữ, phát âm

Nhóm bất đồng ý

kiến 60% 32,73% 5,45% 5,45%

Khó khăn nhiều nhất đối với sinh viên là sắp xếp thời gian vì sinh viên không chuyên đến

từ tất cả các ngành học khác nhau và thời

gian học các môn học chuyên ngành cũng rất

khác nhau.

Sau khi tham gia đề án cải thiện môn nói, đa

số sinh viên cảm thấy khả năng nói của mình

được cải thiện. Cụ thể như sau:

Không được cải thiện

Cải thiện ít Cải thiện

nhiều 13, 21% 47,17% 37,74%

Làm việc theo đề án sau giờ học giúp người

học có thời gian luyện nói nhiều hơn, do đó

có 47,17% sinh viên cảm thấy kỹ năng nói

của họ được cải thiện ít. Điều đó đúng với kết

quả so sánh kết quả môn nói của hai lớp học

như trên.

Những kỹ năng sinh viên được cải thiện:

Phát âm

Nghe

– hiểu

Trình bày vấn đề

Trả lời câu hỏi

42,59% 31,48% 12,96% 12,96%

Bùi Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 174(14): 129-134

133

Sự tiến bộ về kỹ năng nghe hiểu và phát âm

sau khi làm việc theo đề án giống kết quả

nghiên cứu của Maulany (2013) [7]. Tuy

nhiên, khác với nghiên cứu cùa Maulany

(2013) [7], sinh viên có sự tiến bộ về phát âm nhiều hơn so với kỹ năng nghe hiểu.

Kết quả về sự tự tin của sinh viên sau khi làm

việc theo đề án như sau:

Chưa tự tin Khá tự tin Tự tin

42,31% 23,08% 34,63%

Hơn 50% sinh viên cảm thấy khá tự tin và tự

tin về kỹ năng nói của mình, tuy vẫn có

42,31% chưa tự tin. Kết quả về sự tự tin của

người học giống với kết quả của Agustina

(2012) [2].

Tương tự như kết quả về sự tự tin khi trình

bày một vấn đề, kết quả sự hài lòng của sinh viên về kỹ năng nói như sau:

Không hài lòng Khá hài lòng Hài lòng

41,51% 18,87% 33,96%

Kết quả về sự hài lòng của người học về kỹ năng nói giống với kết quả nghiên cứu của

Anyahong (2015) [1] là mức độ hài lòng của

người học tăng lên qua từng dự án.

Cuối cùng là những kiến nghị của người học

cho việc dạy học theo đề án trong tương lai.

Sinh viên đã có một số kiến nghị khá thú vị

như nên có thêm các câu lạc bộ sẵn sàng trợ

giúp cho các nhóm trong khi làm việc, chỉnh

sửa và giúp cho nhóm những mẹo nhỏ khi nói

và giao tiếp. Một ý kiến cho rằng giáo trình

cần nhiều tranh ảnh hơn và sinh viên được

giao lưu tham gia các chương trình tiếng Anh.

Thậm chí, người học đề xuất là cần có người

nước ngoài nói chuyện để biết cách phát âm tốt hơn.

Kết quả phỏng vấn cá nhân của 12 sinh viên

lớp TAA2.2 cho thấy khi làm việc theo nhóm,

người học có ít mâu thuẫn trong quá trình làm

nhóm chiếm 61%. Khi có mâu thuẫn, đa số

các bạn đồng ý rằng nhóm ngồi lại, cùng nói

chuyện, suy nghĩ, phân tích kỹ hơn về vấn đề

cần thảo luận và tìm ra biện pháp đúng đắn

cho vấn đề. Có 9 bạn cho rằng để giải quyết

mâu thuẫn trong nhóm thì phải tôn trọng ý

kiến của nhau, tìm hiểu, lắng nghe ý kiến của

mọi thành viên và chọn ra giải pháp tốt nhất

hay lấy ý kiến số đông để giải quyết vấn đề.

Ngoài ra, sinh viên còn cho rằng các nhóm

cần làm việc nhóm nhiều hơn, tương tác trong

nhóm nhiều hơn và giáo viên cho các nhóm

thường xuyên lên nói trước lớp hơn. Một ý

kiến khác cho rằng, mỗi nhóm sẽ tạo tình

huống giao tiếp bằng tiếng Anh theo bài và

lên trước lớp để trình bày tình huống có cả

Power Point để lớp hiểu. Người học cảm thấy

học theo nhóm có động lực, hiểu hơn, đạt

được nhiều kỹ năng và kích thích sự học hỏi

của sinh viên hơn, tuy nhiên trong nhóm nên

có bạn phát âm chuẩn, ngữ pháp tốt để sửa lỗi

khi nói cho mỗi thành viên.

KẾT LUẬN

Áp dụng dạy học theo đề án có cải thiện kỹ

năng nói của sinh viên không chuyên tại

trường Đại học Nha Trang. Các chủ đề nói

trong thực tế, gần gũi với người học đã

khuyến khích, thử thách sinh viên tìm tòi suy

nghĩ để phát triển bài nói thuyết trình, làm các

video và đề án tạo cơ hội cho người học nâng

cao tinh thần trách nhiệm cho việc học của

mình, cộng tác, làm việc theo nhóm hiệu quả

ngoài lớp học. Xây dựng tiêu chí đánh giá cụ

thể, phù hợp khuyến khích người học luyện

nói. Giáo viên dành nhiều thời gian sửa dàn ý

chi tiết của bài nói, và đánh giá kỹ năng nói

qua các video và bài thuyết trình. Tuy nhiên,

khi thực hiện đề án cũng còn một số khó khăn

vướng mắc như các vấn đề kỹ thuật về cách

làm video, định dạng video, gửi video lên

mạng, cách chia nhóm… đòi hỏi có sự hợp

tác, trao đổi thông tin thường xuyên giữa giáo

viên và sinh viên. Hơn nữa, dạy học theo đề

án cần được tiếp tục nghiên cứu ở các khóa

học tiếp theo vì sự tiến bộ của người học là

trong một quá trình dài, không chỉ kéo dài

trong một khóa học.

Bùi Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 174(14): 129-134

134

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Anyahong, B. (2015), Using Project-Based Approach to Enhance English Speaking Ability of Thai-Nichi Institute of Technology Students. ICLEP, 18. Retrieved June 29, 20017 from http://icsai.org/procarch/1iclep/1iclep-18.pdf 2. Agustina, L. (2012). Improving Reading and Speaking Skills through Project-Based Learning for EFL Students in the form of Student-Made Magazine. Retrieved June 28, 2017 from http://jlt-polinema.org/?p=85 3. ArchForKids LLC (2015), What is Project-Based Learning? Retrieved July 1st, 2017 from https://www.noodle.com/articles/what-is-project-based-learning 4. Bell, S. (2010), Project-based Learning for the 21th Century: Skill for the Future. The Clearning House, 83, pp. 39-43.

5. Fragoulis, L. (2009), Project-Based Learning in Teaching of English as a Foreign Language in Greek Primary School: from Theory to Practice. English Language Teaching, 2(3), pp.113-119. 6. Marx, R.W., Blumenfeld, P. C., Krajcik, J. S., & Soloway, E. (1997). Enacting project-based science: Challenges for practice and policy. Elementary School Journals, 97(4), pp. 341-358. 7. Maulany, D. B. (2013), The Use of Project-Based Learning in Improving the Students’ peaking Skills, Journal of English and Education, 1(1), pp. 30 – 42. 8. Smith, B. & Dodds, R. (1997), Developing Managers through Project-based Learning. Aldershot/ Vermont: Gower.

SUMMARY USING PROJECT-BASED LEARNING TO IMPROVE ENGLISH SPEAKING SKILLS OF NON-ENGLISH MAJOR STUDENTS OF LEVEL A2

Bui Thi Ngoc Oanh* Faculty of Foreign Languages - Nha Trang University

Non-English major students of Nha Trang University have to achieve English level A2 (CEFR), including Listening, Speaking, Reading and Writing. However, students cannot speak a complete sentence. Participants were 105 students including TAA2.2, an experiment class, and TA236, a traditional class. Experiment students worked in pairs or groups, practised and made 2 videos and 1 presentation. Results of oral tests of two classes were compared. An online survey and interview of 12 students were to take students opinions of the project. Project-based learning creates opportunities for students to practise speaking English outside the class and helps to improve their speaking skills. Keywords: Project-based learning, Speaking skills, non-English major students, level A2, making videos

Ngày nhận bài: 15/10/2017; Ngày phản biện: 10/11/2017; Ngày duyệt đăng: 13/12/2017

* Tel: 0903544668; Email: [email protected]

oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ

THE SPECIAL ISSUE FOR THE 10th FOUNDATION ANNIVERSARY SCHOOL OF FOREIGN LANGUAGES - TNU (2007-2017)

Content Page Le Hong Thang – Discussion on Project-Based Learning Approach 3

Nguyen Thi Nhu Nguyet, Chu Thanh Thuy - Students’ Output Competency Assessment in Using Russian Language at Level A2-B1 on the Basis of Common European Framework of Reference at School of Foreign Languages, Thai Nguyen University 7

Nguyen Thuy Linh - Evaluation and Assessment in Project-Based Learning - Some Practical Suggestions 13

Vu Thi Thanh Hue - Students’ Perception about an Online Extensive Reading Course with the Help of Edmodo 19

Mai Thi Thu Han, Nguyen Thi Lien, Hoang Thi Tuyet, Duong Thi Ngoc Anh - Fostering Learners’ Autonomy through Project Work in an ESP Class at Hoa Lu University: A Case Study 25

Duong Duc Minh, Duong Lan Huong - A Study on the Interaction between the Presenter and Audience in the Presentation Skill for English Major Students at School of Foreign Languages - Thai Nguyen University 31

Pham Thi Kim Uyen - Use of Journals in Teaching Translation for English Major Students of Nha Trang University 37

Le Thi Hong Phuc - Students’ Responses to the TV Show Project as the End-of-Term Assessment in the Pronunciation Course 43

Han Thi Bich Ngoc - Teaching Outside the Classroom - Integrating Social Media into Innovative Language Teaching: The Case of Facebook 49

Nguyen Ngoc Luu Ly, Quach Thi Nga - Some Features in Applying Multimedia Tools into Teaching Elementary Chinese in School of Foreign Languages - Thai Nguyen University 55

Le Thi Hoa, Dau Thi Mai Phuong - Fostering the 21st Century Skills in Project-Based ESP Learning 61

Nguyen Thi Bich Ngoc, Tran Minh Thanh - Methods to Increase the English Magazine Project Power in the Study of the English Written Language for English Major Students at School of Foreign Languages - Thai Nguyen University 67

Hoang Thi Huyen Trang, Nguyen Thi Ngoc Anh - Developing English Language Reading Comprehension amongst EFL/ESL Learners through Culturally Relevant Texts 73

Nguyen Quoc Thuy, Nguyen Thi Doan Trang - Teaching Foreign Languages through Magazine Project at Thai Nguyen University of Education 79

Nguyen Tuan Anh - PBLL Course Development as a Way of Ensuring a Multidisciplinary Program 85

Do Thi Son, Do Thi Phuong - An Analysis of Students’ Errors at School of Foreign Languages, Thai Nguyen University in Directly Translating from Sino-Vietnamese Words to Chinese and Solutions 91

Tran Dinh Binh - Application of Project-Based Learning in Language Teaching in Vietnam 97

Le Thi Khanh Linh, Le Thi Thu Trang- Evaluative Devices in Personal Narratives from American and Vietnamese Talk Shows 103

Do Thanh Mai, Phung Thi Thu Trang - The Application of Moodle in E-Learning and Teaching Informatics at School of Foreign Languages – Thai Nguyen University 109

Mai Thi Ngoc Anh, Vi Thi Hoa, Pham Hung Thuyen - Application of Project-Based Learning to the Teaching of Chinese Excursion at School of Foreign Languages – Thai Nguyen University 117

Tran Thi Hanh - Students’ Perceptions on the Use of Edmodo as a Supplementary Tool in Learning 123

Bui Thi Ngoc Oanh - Using Project-Based Learning to Improve English Speaking Skills of Non-English Major Students of Level A2 129

Journal of Science and Technology

174(14)

N¨m 2017

Nguyen Hanh Dao, Dinh Nu Ha My - A Participatory Case Study into Learners’ Difficulties and Pedagogical Implications of Doing Project-Based Learning ESP Course 135

Nguyen Thi Kim Oanh - Project-Based Language Learning Adopted for an ESP Module in School of Foreign Languages, Hanoi University of Science and Technology: Benefits, Challenges and Recommendations 141

Vu Thi Kim Lien - Enhancing Pragmatic Competence of Students at University of Languages and International Studies, VNU 147

Dam Minh Thuy - Integrated Skills in Foreign Language Learning via Video Project "Study of the Cultural Influences of France in Vietnam" 153

Nguyen Thi Thu Hoai - Situation of Intern Teaching Program of English Subject at Some Selected High Schools in Thai Nguyen City and Suggested Sollutions 159

Nguyen Thi Ngoc Anh, Hoang Huyen Trang - Language Errors of Chinese Students Studying Vietnamese Language at School of Foreign Languages, Thai Nguyen University and Proposals for Correction 165

Quach Thi Nga, Do Thi Thu Hien - Problems and Suggestions for Chinese - Vietnamese Translation Textbooks in Vietnam (Investigate in School of Foreign Languages - TNU) 171

Phan Thanh Hai - Toward a Project Based Learning Curriculum for TEFL B.A Program within Profession Oriented Higher Education 177

Le Vu Quynh Nga, Ly Thi Hoang Men, Nguyen Thi Thu Oanh - Enhancing Students’ Translation Performance in School of Foreign Languages: An Application of Cooperative Learning 183

Doan Thi Thu Phuong - Language Learning Style Preferences of Grade 11 Students at a High School, Nam Dinh 189

Dinh Thi Lien, Nguyen Thi Ngoc Anh - The System of Symbols in Then Songs of Tay People 197