46
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU......................................... 1 CHƯỜNG I: LÝ LUẬN CHUNG................................................................. 3 1. Nợ công............................................................................................. 3 1.1 Khái niệm.......................................................................... 3 1.2. Phân loại.................................. 5 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công...........6 1.4. Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công. 7 1.5. Quản lý nợ công............................ 8 2. Khủng hoảng nợ công....................................................................... 9 2.1. Khủng hoảng nợ công là gì? ..................9 2.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công............11 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG........................11 1. Thực trạng nợ công ở một số nước trên thế giới............11 1.1. Khủng hoảng nợ công .........................11 1.2. Nguyên nhân khủng hoảng và hậu qu ......14 2. Thực trạng nợ công ở Việt Nam.........................15 2.1. Tình hình sử dụng nợ công ..................17 2.2. Tình hình trả nợ công ......................18 2.3. Đánh giá, phân tích tình hình nợ công ở Việt Nam .............................................18 2.3.2. Cơ cấu nợ ................................... 18 2.3.3. Hiệu quả sử dụng các khoản nợ công ..............20

dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/.../file_goc_772031.docx · Web viewTrên lý thuyết, mỗi vấn đề kinh tế nên có một khái niệm chung thống nhất

Embed Size (px)

Citation preview

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................1

CHƯỜNG I: LÝ LUẬN CHUNG.........................................................................3

1. Nợ công............................................................................................................3

1.1 Khái niệm............................................................................................3

1.2. Phân loại.............................................................................................5

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công.................................................6

1.4. Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công...................................7

1.5. Quản lý nợ công..................................................................................8

2. Khủng hoảng nợ công......................................................................................9

2.1. Khủng hoảng nợ công là gì?...............................................................92.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công..................................................11

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG........................................................111. Thực trạng nợ công ở một số nước trên thế giới...........................................11

1.1. Khủng hoảng nợ công .....................................................................111.2. Nguyên nhân khủng hoảng và hậu qu ả ...................................14

2. Thực trạng nợ công ở Việt Nam...................................................................15

2.1. Tình hình sử dụng nợ công..............................................................17

2.2. Tình hình trả nợ công.......................................................................18

2.3. Đánh giá, phân tích tình hình nợ công ở Việt Nam.......................18

2.3.2. Cơ cấu nợ........................................................................................18

2.3.3. Hiệu quả sử dụng các khoản nợ công...........................................20

3 Giải pháp và định hướng cho nợ công của Việt Nam....................................21

KẾT LUẬN.........................................................................................................25

TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................26

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

LỜI MỞ ĐẦU

----------------------------

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng được hoàn thiện cả về lượng và chất , kéo theo đó là xu thế tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu, tăng cường hợp tác hóa, chuyên môn hóa và phân công lao động như hiện nay, toàn cầu hóa với những thế mạnh của nó đang là một trong những mục tiêu chiến lược quan trọng cần được quan tâm và đề cao ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Không chỉ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung trên phạm vi toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội và hướng đi sáng lạn cho các thành phần kinh tế cá biệt, thúc đẩy phát huy nội lực và ngoại lực một cách có hiệu quả, quá trình “san phẳng thế giới” này đã thực sự trở thành “một sức mạnh mới” định hình lại thế giới trong khoảng thời gian trở lại đây.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, toàn cầu hóa cũng tiềm ẩn không ít rủi ro, khi mà dưới tác động mạnh mẽ của nó, một biến cố xảy đến với quốc gia này có thể là nguyên nhân làm lung lay pháo đài kinh tế của quốc gia khác trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng. Một trong những biểu hiện rõ nét và đặc trưng nhất của mặt hạn chế này, ta không thể không kể tới sức công phá và lan tỏa dữ dội của các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới – một tất yếu khách quan gây nhiễu động kinh tế toàn cầu.

Nếu như năm 2008 đánh dấu một mốc đen tối trong lịch sử kinh tế của hầu khắp các quốc gia trên thế giới với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng xuất phát từ “bong bóng thị trường bất động sản Mỹ” thì sang đến cuối năm 2009, hệ thống kinh tế toàn cầu lại một lần nữa chao đảo trước nguy cơ công phá mạnh mẽ của khủng hoảng nợ công châu Âu. Bùng nổ trước tiên ở Hy Lạp, hiệu ứng domino của khủng hoảng nợ công nhanh chóng lan rộng sang các quốc gia trong khối cộng đồng chung EU, tiếp đến là các nền kinh tế lớn nhỏ khác nhau trên thế giới, báo hiệu nguy cơ trở thành vấn nạn nhức nhối trong thời gian kéo dài.

Từ đầu năm 2010 đến nay, thế giới liên tục tiếp nhận vô vàn thông tin về tình hình nợ công của các nước châu Âu, những biện pháp đặc biệt được đưa ra, những gói

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 1

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

cứu trợ khẩn cấp từ nhiều tổ chức kinh tế khác nhau như IMF, ECB,…để giảm thiểu nguy cơ vỡ nợ của các Chính phủ. Thêm vào đó, song hành với tình trạng bất lực trước khủng hoảng của nhiều khu vực kinh tế hiện nay, khủng hoảng nợ công châu Âu còn biểu hiện nguy cơ lan truyền nhanh và khả năng biến tướng thành khủng hoảng nợ công toàn cầu.

Vấn đề nêu trên không chỉ tác động xấu đến nền kinh tế của các nước trong vòng xoáy nợ công, mà hơn thế nữa, còn đe dọa nghiêm trọng tới sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung và trở thành mối quan tâm lo ngại to lớn đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu về khủng hoảng nợ công và rút ra bài học kinh nghiệm trong quản lý nợ công ở Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách đối với nước ta trong thời điểm hiện tại.

Để làm rõ vấn đề này, bài tiểu luận của nhóm chúng em sẽ đi sâu phân tích cơ sở, thực trạng, nguyên nhân, tác động của khủng hoảng nợ công, phân tích và đánh giá sơ bộ diễn biến tiếp theo, từ đó đưa ra một số giải pháp và công cụ khắc phục hợp lý, hiệu quả nhằm giải quyết vấn đề này. Bài làm cũng tập trung liên hệ vấn đề khủng hoảng nợ công và thực trạng nợ công tại Việt Nam, nêu bật lên cơ cấu, nguyên nhân cùng những đặc trưng cá biệt của nợ công Việt Nam, tiến tới đề xuất một số hướng đi khả thi nhằm góp phần quản lý có hiệu quả nợ công trong nước.

Với nguồn tư liệu hạn chế và do tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, bài làm chắc chắn có nhiều thiếu sót cũng như còn nhiều vấn đề cần bổ sung, làm rõ. Nhóm thực hiện kính mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến hỗ trợ, phản hồi tích cực từ cô và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.

* *

*

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 2

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

CHƯỜNG I: LÝ LUẬN CHUNG

1. Nợ công:

1.1 Khái niệm:

Hiện nay, có thể thấy, trên thế giới xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác nhau về nợ công, tùy thuộc vào mục đích và phạm vi sử dụng của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia.

Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB), nợ công là toàn bộ những khoản nợ của Chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh. Trong đó:

- Nợ của Chính phủ: bao gồm nợ trong nước, nợ nước ngoài của Chính phủ và các đại lý của Chính phủ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc Chính phủ và các đại lý của các tổ chức này, các doanh nghiệp Nhà nước.

- Nợ của Chính phủ bảo lãnh: gồm những khoản nợ trong nước và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân do Chính phủ đứng ra bảo lãnh.

Theo quan điểm của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công được hiểu là nợ của khu vực tài chính công và nợ của khu vực phi tài chính công. Trong đó:

- Khu vực tài chính công gồm: Các tổ chức tiền tệ (Ngân hàng trung ương, các tổ chức tín dụng Nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng không cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển)

- Khu vực phi tài chính công gồm: Chính phủ, tỉnh thành phố, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính Nhà nước.

Theo quan điểm của Luật quản lý nợ công Việt Nam: Nợ công bao gồm: nợ chính phủ; nợ được Chính phủ bảo lãnh; nợ chính quyền địa phương.

Như vậy, xét theo khái niệm này, cần lưu ý là không tồn tại sự đồng nhất giữa: “Nợ chính phủ” và “nợ công”. Nợ chính phủ trong trường hợp này chỉ là một trong ba yếu tố cấu thành nên nợ công.

Đối với ba cách định nghĩa trên, tuy mỗi cách mang tính đặc thù riêng và thích hợp để sử dụng trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau song chúng đều có

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 3

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

chung một số đặc điểm như: là khoản tiền nợ liên quan đến chính phủ và hoạt động của chính phủ, mục đích là để tài trợ bù đắp cho thâm hụt ngân sách... Do đó, để đơn giản hóa cách thức tiếp vận vấn đề và đảm bảo tính logic khi phân tích, nghiên cứu khủng hoảng nợ công ở các phần tiếp theo, có thể hiểu khái quát về nợ công thông qua khái niệm sau:

Nợ công, còn gọi là Nợ chính phủ hay Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách.

Sử dụng cách định nghĩa này, ta cần quan tâm tới một số lưu ý sau đây:

- Khái niệm đưa ra đã đồng nhất Nợ chính phủ với Nợ công và Nợ quốc gia.

- Định nghĩa này được áp dụng tại phần lớn các quốc gia trên thế giới, những nước đi theo hướng kinh tế thị trường thực chất, không tồn tại thành phần doanh nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo kiểm soát trực tiếp của Nhà nước

- Thâm hụt Ngân sách Nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách Nhà nước, là tình trạng khi tổng chi tiêu của Ngân sách Nhà nước vượt quá các khoản thu trong cân đối (thu "không mang tính hoàn trả") của Ngân sách Nhà nước.

Như vậy, một cách chung nhất, có thể hiểu nợ công là hậu quả của vấn đề chi tiêu công bất hợp lý. Bởi lẽ mỗi quốc gia đều phải cân đối mức thu chi nên khi thu không đủ chi, Nhà nước phải đi vay dẫn đến hình thành nợ công. Cũng theo cách tiếp cận này, nợ công có thể được tính bằng thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó.

Ví dụ:

NămThâm hụt Ngân

sáchNợ công

1 1 triệu USD 1 triệu USD

2 1.2 triệu USD2.2 triệu

USD

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 4

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

3 1.3 triệu USD3.5 triệu

USD

Trên lý thuyết, mỗi vấn đề kinh tế nên có một khái niệm chung thống nhất để đảm bảo tính chặt chẽ trong phân tích, Tuy nhiên, thực tế chỉ ra rằng có nhiều luồng tư tưởng và quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế về cùng một hiện tượng, sự việc. Trong trường hợp này, mỗi khu vực, quốc gia có một góc độ đánh giá khác nhau về tình hình nợ công. Căn cứ vào cơ cấu nợ công của mỗi quốc gia, ta sẽ nhận dạng: quốc gia này sử dụng định nghĩa nào đối với vấn đề nợ công của mình.

1.2. Phân loại:

Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau, nợ công có thể được chia thành nhiều bộ phận riêng biệt, có mối quan hệ tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Sau đây là ba trong số những các phân loại chủ yếu được sử dụng đối với các khoản nợ công của mỗi quốc gia, phục vụ trực tiếp cho nhu cầu: của quốc gia đó.

Phân loại theo nguồn vay nợ:

- Nợ trong nước: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư trong nước

- Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài.

Trong thực tế, khi tiến hành thống kê và tính toán giá trị nợ công ở một số nước, trong đó có Việt Nam, người ta thường chỉ quan tâm đến khoản nợ nước ngoài mà mặc nhiên bỏ qua các khoản nợ trong nước. Đây là một hạn chế cần sửa đổi; bởi lẽ, thiếu sót này nhiều khi đưa đến kết quả không chính xác cho giá trị nợ công của một quốc gia, gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc nhận thức kịp thời và đúng đắn tình trạng nợ của đất nước mình để hoạch định các chính sách ứng phó kịp thời và hợp lý.

Phân loại theo chủ thể nợ:

- Nợ của Chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 5

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

định của pháp luật; không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.

- Nợ của chính quyền địa phương: là các khoản nợ do ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.

- Nợ được chính phủ bảo lãnh (áp dụng đối với khái niệm Nợ công bao gồm khoản nợ chính phủ bảo lãnh): là các khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước mà chính phủ đứng ra bảo lãnh.

Phân loại dựa vào thời hạn nợ:

- Nợ ngắn hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm trở xuống.

- Nợ trung hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm đến 10 năm.

- Nợ dài hạn: các khoản nợ có thời hạn từ trên 10 năm.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công

Một yêu cầu tối quan trong đối với các Chính phủ là đảm bảo tỷ lệ nợ công so với GDP là ổn định, qua đó tăng hiệu quả quản lý nợ, quản lý thâm hụt ngân sách và làm tốt các công tác dự báo, lập kế hoạch Ngân sách Nhà nước, góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô. Để làm được điều đó, ta cần phải nắm rõ các nhận tố ảnh hưởng đến nợ công, nhận biết các tác động, ngăn chặn từ đầu, phòng tránh và giải quyết kịp thời các tác động có khả năng gây bất ổn tới tỉ lệ này.

Thứ nhất, nợ công phụ thuộc chặt chẽ vào cân bằng ngân sách cơ bản. Từ bản chất nợ công đã phân tích ở trên, có thể nhận thấy mức thâm hụt ngân sách phản ảnh giá trị tuyệt đối của nợ công chính phủ. Điều đó đồng nghĩa với việc, khi khoảng cách thâm hụt nhỏ, những khoản vay bù đắp giảm đi, làm cho nợ công được hạn chế.

Thứ hai, lãi suất thực tế có tác động đến các khoản nợ vay của chính phủ, quyết định xem các khỏan nợ này sẽ đắt hơn (khi lãi suất tăng lên) hay giảm đi (khi lãi suất giảm đi). Mặt khác, việc lãi suất tăng sẽ làm cho các khoản vay của chính phủ khó khăn hơn, không đảm bảo được cho vay nợ đúng hạn.

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 6

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

Thứ ba, tốc độ tăng trưởng thực tế ảnh hưởng đến nợ công theo hai cơ chế. Một là, nền kinh tế phát triển hơn thì chính phủ dễ dàng vay tiền hơn, dẫn đến khả năng nợ công tăng lên. Hai là, tăng trưởng nhanh thường đi kèm với lạm phát, dẫn đến việc cấp bù lạm phát cho các khoản nợ đã đến hạn thanh toán.

Thứ tư, lãi suất ngoại tệ có liên quan đến các khoản vay nước ngoài của chính phủ. Cơ chế tác động của nhân tố này tương tự như lãi suất thực tế, chỉ khác nhau đề đối tượng hưởng lãi.

Thứ năm, tỷ giá cũng có tác động tới việc vay nợ nước ngoài. Sự biến động của tỉ giá ảnh hưởng đến chi phí của khoản nợ công: có thể tăng lên (khi tỉ giá tăng) hoặc giảm đi (khi tỉ giá giảm).

1.4. Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công

Dựa vào đặc điểm và điều kiện cho vay của các khoản vay nợ, các hình thức vay nợ được chia vào hai nhóm chính là: vay nợ gián tiếp (chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu) và vay nợ trực tiếp từ trong và ngoài nước. Mỗi cách vay nợ có ưu, nhược điểm riêng, thích hợp sử dụng cho những hoàn cảnh riêng, trong điều kiện xếp hạng tín dụng và vị thế nhất định của mỗi quốc gia.

Vay nợ gián tiếp:

Chính phủ các nước có thể tiến hành vay nợ gián tiếp từ các tổ chức, cá nhân để bù đắp thâm hụt ngân sách thông qua việc phát hành các công cụ nợ như: tín phiếu, trái phiếu, hình thức chứng chỉ... Trái phiếu trong trường hợp này được hiểu theo nghĩa rộng, gồm có: trái phiếu (T-bonds), trái phiếu chính quyền địa phương (Municipal Bonds), trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng tổ quốc và trái phiếu công trình. ; trong đó, trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán.

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 7

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

Vay trực tiếp

Ngoài cách phát hành giấy vay nợ như một tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ của mình, Chính phủ các nước còn một lựa chọn khác để tài trợ cho các khoản thâm hụt đáng kể thông qua con đường vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á,…). Các nguồn vay này tồn tại dưới một số hình thức phổ biến như: Vay viện trợ phát triển chính thức, vay có tính chất thương mại hay vay ưu đãi. Thông thường, các hình thức trực tiếp này được Chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì những nước này khó có khả năng vay nợ bằng phát hành trái phiếu chính phủ.

Trong số các khoản vay trực tiếp đã liệt kê, nguồn vay ODA là nguồn vốn bổ sung đều đặn nhất và có tầm quan trọng lớn đối với các nước đang phát triển. Nguồn vay này có thể nhận được dưới các thể thức: viện trợ song phương, viện trợ đa phương, viện trợ không hoàn lại hay viện trợ của tổ chức phi chính phủ.

.1.5. Quản lý nợ công:

Nhìn lại lịch sử nền kinh tế thế giới từ trước tới nay, có thể thấy nợ công là một bộ phận thường trực trong các kế hoạch phát triển kinh tế và chưa bao giờ vắng bóng trong dự toán ngân sách Nhà nước của bất cứ quốc gia, châu lục nào. Do tính chất cần thiết khách quan và không thể thay thế được của nó, nhiệm vụ quản lý nợ công đang trở nên ngày càng quan trọng. Thứ nhất, quản lý nợ công, cụ thể là đưa ra cấu trúc các khoản nợ giúp ngăn chặn lây lan sự bất ổn kinh tế. Thứ hai, chính sách quản lý nợ công thận trọng giúp giảm thiểu những cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ bắt nguồn từ khâu quản lý nợ yếu kém. Thứ ba, một cơ chế quản lý tốt sẽ giúp chính phủ xác định được: vay nợ bao nhiêu là hợp lý để vừa đảm bảo nhu cầu của chính phủ, vừa vay được với chi phí thấp và giảm thiểu rủi ro. Thực tế chỉ ra rằng, không phải mọi khoản nợ công đều mang tính tiêu cực. Do đó, vấn đề đặt ra trước hết là phải quản lý nợ công như thế nào cho hiệu quả.

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 8

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

Hướng dẫn quản lý nợ công của IMF/WB-2001 chỉ rõ: “mục tiêu của quản lý nợ công là đảm bảo nhu cầu tài chính của chính phủ được đáp ứng với chi phí thấp nhất trong trung và dài hạn phù hợp với mức độ rủi ro”. Thông qua chính sách và kế hoạch phát triển riêng của từng quốc gia, mục tiêu này đã được cụ thể hóa, thể hiện thông qua các nội dung chủ yếu trong quản lý nợ công, bao gồm:

- Bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với vấn đề cơ cấu, quy mô và sử dụng nợ công.

- Nâng cao và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về nợ công

- Xây dựng các chiến lược quản lý nợ cụ thể và hiệu quả.

- Xây dựng các mô mình quản lý rủi ro trong hoạt động quản lý nợ.

- Đề xuất và thực thi phát triển thị trường chứng khoán Chính phủ

2. Khủng hoảng nợ công

2.1. Khủng hoảng nợ công là gì?

Cũng giống như tình trạng đa khái niệm của nợ công, tùy thuộc vào từng góc độ nhìn nhận và đánh giá sự kiện, khủng hoảng nợ công được cắt nghĩa theo các cơ sở khác nhau. Hiểu một cách khái quát nhất, khủng hoảng nợ xảy ra khi thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó vượt quá khả năng kiểm soát, điều tiết và trả nợ của chính phủ, dẫn đến suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng.

Trải qua thời gian dài vận động phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung, khái niệm về vấn đề khủng hoảng nợ công cũng được thay đổi nhiều lần và riêng rẽ đối với từng tổ chức, khu vực độc lập.

Theo cách tiếp cận từ các khoản nợ khất lại , Detragiache và Spilimbergo (2001) xác định rằng cuộc khủng hoảng nợ sẽ xảy ra nếu một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau đây xảy ra:

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 9

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

-  Có những khoản nợ gốc hoặc lãi chưa hoàn trả hoặc đang trả dở dang song phải xin khất lại nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ (ngân hàng, tổ chức sở hữu trái phiếu) chiếm trên 5% tổng dư nợ.

-  Có một thỏa thuận gia hạn hoặc tái cơ cấu nợ với chủ nợ được liệt kê trong Báo cáo Phát triển Tài chính Toàn cầu (GDF) của Ngân hàng Thế giới (WB).

Nhìn nhận khủng hoảng nợ công tương đương với tình trạng “tiền phá sản”, Sy(2004) đưa ra lập luận: giống như việc mất khả năng thanh toán những khoản nợ trong khu vực tài chính doanh nghiệp, khủng hoảng nợ công là biểu hiện “tiền phá sản” của trái phiếu chính phủ. Theo định nghĩa đó, Sy đã chỉ ra từ năm 1994 đến năm 2002, trên thế giới xảy ra 140 sự kiện “tiền phá sản”, làm giảm uy tín và năng lực của thị trường trái phiếu Chính phủ.

Trong thời điểm hiện nay, định nghĩa về nợ công của tổ chức Standard and Poor’s, quỹ tiền tệ thế giới IMF và Ngân hàng thế giới WB là một số cách giải thích được ưa thích trích dẫn và sử dụng nhiều hơn cả.

Theo Quỹ tiền tệ thế giới IMF, một quốc gia được xác nhận lâm vào khủng hoảng nợ nếu nó được tổ chức Standard & Poor’s liệt vào danh sách các nước không có khả năng hoàn trả nợ hoặc phải xin vay từ IMF một khoản lớn (vượt quá 100% hạn mức tín dụng đề ra) để tài trợ cho khoản nợ nói trên. Ở đây, tiêu chuẩn được đưa ra để Standard and Poor’s xác định một quốc gia là không có khả năng hoàn trả nợ là việc chính phủ của quốc gia đó không thể thanh toán đủ gốc hoặc tiền lãi cho các khoản nợ nước ngoài vào ngày đáo hạn hoặc trong thời gian ân hạn quy định (bao gồm các khoản phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán nợ bằng hối phiếu, nghiệp vụ SWAPs tài sản nợ, …). Như vậy, tình hình vay nợ bất thường với quy mô lớn tại Quỹ tiền tệ quốc tế IMF là một trong những dấu hiệu báo trước cho những bất ổn trong tình trạng nợ công của một quốc gia, có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng nhanh chóng.

Dù các khái niệm nêu trên diễn đạt khủng hoảng nợ công theo các cách khác nhau, có thể thấy rõ rằng mọi định nghĩa đều bao chứa những nội dung cơ bản

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 10

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

tương đồng. Đó là: Khủng hoảng nợ công xảy ra khi chính phủ một quốc gia không thể trả được nợ và buộc phải tìm kiếm, cầu viện đến các sự trợ giúp khác.

2.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công

Dựa vào những định nghĩa nêu trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng quan trọng mang tính bản chất đối với các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới.

Một là, khủng hoảng nợ công mang bản chất là khủng hoảng kinh tế, làm suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế.

Hai là, khủng hoảng nợ công không phân biệt quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Điều này có nghĩa là, bên cạnh vấn đề thiếu nợ thường xuyên tái diễn ở các quốc gia thuộc “Thế giới thứ ba”, khủng hoảng nợ hoàn toàn có khả năng xảy ra ở những nước phát triển, nơi nền kinh tế tăng trưởng một cách tương đối cao và ổn định.

Ba là, khủng hoảng nợ công một khi đã diễn ra thường kéo dài trong một thời gian, kéo theo nhiều hệ lụy không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trong chính trị - văn hóa - xã hội.

Bốn là, khủng hoảng nợ công gắn liền với mức độ tín nhiệm của chính phủ quốc gia xảy ra sự kiện. Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức chuyên đánh giá tín nhiệm công ty và quốc gia, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay; khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG1. Thực trạng nợ công ở một số nước trên thế giới

1.1. Khủng hoảng nợ công.

Trong lịch sử phát triển tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến trong các nước phát triển và các nước kinh tế chậm phát

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 11

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

triển. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nền kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể.

Từ đó tới nay, thế giới nhiều lần chứng kiến các cuộc khủng hoảng nợ công riêng lẻ như khủng hoảng nợ công Tunisia (1991), Argentina (1995); Brazil (2002);… Tùy thuộc vào chế độ quản lý nợ công và chu kỳ kinh tế, hoàn cảnh lịch sử riêng của từng quốc gia, nợ công xuất phát từ các nguyên nhân khác nhau, dẫn đến việc được giải quyết bằng các biện pháp vụ thể riêng biệt. Các quốc gia mắc phải khủng hoảng nợ này chủ yếu là các nước đang phát triển, nền kinh tế còn nhiều lỗ hổng và thiếu sót, nhu cầu vốn cho đầu tư lớn,…

Năm 2009, khủng hoảng nợ công vẫn tiếp diễn, song lần này, nó lan rộng với tốc độ chóng mặt trên một phạm vi rộng lớn với đối tượng là các nước đang phát triển thuộc phương Tây giàu có. Khủng hoảng nợ công Hy Lạp 2009 mau chóng được xác nhận dưới phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều là: nợ công châu Âu 2010 và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến nợ công toàn cầu nếu không có những biện pháp kịp thời và hợp lý.

+ Năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công chủ yếu xảy ra ở Hy Lạp khi chi phí cho các khoản nợ Chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể lợi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3.47% vào tháng 01/2010, lên 9.73% tháng 07/2010, và nhảy vọt lên 26.65%/năm ở tháng 07/2011.

Hơn một năm sau khi nhận được khoản hỗ trợ 110 tỉ euro, Hy Lạp vẫn tiếp tục ở trong nguy cơ vỡ nợ. Gần đây Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF ước tính nợ quốc gia của Hy Lạp có thể lên đến 172% GDP (so với mức khoảng 120% lúc bắt đầu rơi vào khủng hoảng nợ) trong khi thâm hụt ngân sách của nước này cao hơn dự kiến và nước này đang cần một khoản hỗ trợ mới.

Và cho dù Hy Lạp có nhận được tiền tài trợ mới, được giãn nợ thì cũng không có nghĩa là Hy Lạp có thể tránh được chuyện bị các tổ chức xếp hạng tín nhiệm dán nhãn “vỡ nợ”. Điều đó đồng nghĩa với việc mối lo khủng hoảng nợ sẽ tiếp tục có thể tác động xấu đến thị trường cổ phiếu, nhất là các cổ phiếu ngân hàng, và trái phiếu.

Thật khó dự đoán được điều gì sẽ xảy ra nếu Hy Lạp bị xếp hạng vỡ nợ và do đó, nhiều nhà đầu tư lại quay sang mua vàng và bán đi các trái phiếu

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 12

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

chính phủ có vấn đề khác như Ý. Điều này không những chỉ đẩy giá vàng tăng mà còn đang tạo ra một hiệu ứng lây lan có thể khiến Ý trở thành nạn nhân mới của cuộc khủng hoảng nợ.+ Sau Hy Lạp, Ý cũng trở thành mối quan tâm của thị trường tài chính cũng như báo chí. Trước hết, lãi suất trái phiếu chính phủ của Ý đột nhiên được thị trường đẩy lên quá nhanh. Cụ thể là đợt đấu giá 1,25 tỉ euro trái phiếu thời hạn năm năm gần đây của Ý đã có lợi suất trung bình là 4,93%, cao hơn nhiều so với mức 3,9% của tháng trước. Điều này cho thấy thị trường đang đánh giá rủi ro vỡ nợ của Ý đã tăng lên đáng kể.

Thực tế không thể phủ nhận là Ý có mức nợ công cao, tăng trưởng chậm và có một chính phủ bị xem là thiếu hiệu quả và không minh bạch. Trường hợp nếu Ý thực sự thiếu tiền trả các khoản nợ ngắn hạn sẽ gây nhiều lo ngại lớn Ý là nền kinh tế lớn thứ ba trong khu vực sử dụng đồng euro và quy mô khoản nợ của nước này cũng lớn tương ứng trong khi tăng trưởng của nước này vốn dĩ là chậm chạp còn dân số Ý thì thuộc nhóm dân số già.+ Cuộc khủng hoảng nợ công của Ireland không phải là điều bất ngờ như trường hợp Hy Lạp. Nhưng những dấu hiệu báo trước đã xuất hiện khá sớm.Trước tiên, đó là một thị trường bất động sản bong bong.Trong một thập niên tính đến năm 2007, giá nhà tại Ireland tăng gần gấp 4 lần, thậm chí còn đắt hơn cả những thành phố vẫn được mệnh danh là đắt đỏ trên thế giới như Los Angeles.

Khi bong bóng bất động sản vỡ tung đã kéo theo sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Và khi chính phủ ra tay cứu trợ ngân hàng – nợ công trở thành ghánh nặng cho ngân khố quốc gia.

Ireland đã trở thành quốc gia thứ hai sau Hy Lạp buộc phải thực hiện các biện pháp kinh tế khắc khổ để đổi lấy khoản cứu trợ khẩn cấp từ IMF và EU, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng nợ công tồi tệ như giảm ít nhất 10% mưc lương tối thiểu, tăng thuế giá trị gia tăng, cắt giảm 25.000 biên chế trong các cơ quan nhà nước…+ Bồ Đào Nha thừa nhận thâm hụt ngân sách 2010 của quốc gia này ở mức 8,6 % GDP, cao hơn nhiều so với mục tiêu 7,3% đặt ra trước đó. Khoản nợ công của Bồ Đào Nha năm 2010 lên tới 84% GDP.Nghiêm trọng hơn, 70% các khoản nợ của Bồ Đào Nha là nợ nước ngoài.Điều này đòng nghĩa với việc quốc gia này khó có thể xoay xở hay trì hoãn khi nợ đáo hạn.

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 13

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

+ Tây Ban nha có thể là nạn nhân tiếp theo của cuộc khủng hoảng nợ công với bong bong nhà đất khổng lồ và các vấn đề lien quan đến các khoản nợ tăng lên với mức đọ chóng mặt. Hợp đồng bảo hiểm khả năng vỡ nợ (CDS) kỳ hạn 10 năm của trái phiếu chính phủ Tây Ban Nha đã lên tới mức 312 điểm phần trăm, cao chưa từng có từ trước đến nay. Như vậy cứ 10 triệu euro nợ dài hạn của Tây Ban Nha sẽ mất 312.000 euro phí bảo lãnh.

1.2. Nguyên nhân khủng hoảng và hậu quả:

* Nguyên nhân:

- Do những khoản nợ nước ngoài khổng lồ ngày càng gia tăng. Trong khủng hoảng, các khoản nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ công.

- Một điều bất cập là, một quốc gia có nợ nước ngoài cao, trong khi cư dân của họ cũng nắm giữ một lượng tài sản lớn của nước ngoài. Trong trường hợp này, Chính phủ phải đối mặt với trường hợp, quốc gia có thể vỡ nợ trong khi người dân của mình vẫn có thể hưởng lợi nhuận từ tài sản nước ngoài.Ngay cả khi điều này xảy ra, Chính phủ có thể giải quyết bằng cách, kêu gọi người dân bán tài sản nước ngoài và mua trái phiếu Chính phủ trong nước thay thế.

- Tiết kiệm trong nước thấp, vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công

- Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng năm 2008 làm trầm trọng thêm vấn đề.

- trong suốt thời gian dài Chính phủ Hy Lạp đã phải ngụy tạo các báo cáo về tình hình kinh tế trong nước, sắp xếp lại các giao dịch nhằm che dấu mức vay thực tế, nhằm phù hợp với các quy định gia nhập, giám sát của EU và có thể chi tiêu cao hơn.

* Hậu quả:

- Các thị trường ngày càng mất tin tưởng nhau. các ngân hàng không tin tưởng nhau, thành ra ngày càng ít cho mượn tiền nhau. Vừa lo ngại về khủng hoảng nợ kéo dài, các thị trường chứng khoán châu Âu còn sợ là kinh tế Mỹ

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 14

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

sẽ lại lâm vào suy thoái, nhất là sau khi ngày thứ sáu vừa qua, các số liệu về việc làm ở Mỹ không lấy gì là khả quan.

- Khủng hoảng nợ công tại châu Âu ngày càng trầm trọng, Một đợt tháo chạy với quy mô lớn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu các ngân hàng khu vực châu Âu là hoàn toàn có thể và gây hiệu ứng sụp đổ hàng loạt ở các nền kinh tế khác.

- Tình hình trên các thị trường tài chính đã trở nên căng thẳng, khủng hoảng nợ công sẽ gây ra thiệt hại lớn cho các ngân hàng châu Âu và từ đó sẽ lan ra toàn cầu.

- vấn đề nợ công nghiêm trọng tại phương Tây giống như một hành tinh có quỹ đạo bay hướng thẳng về Trái Đất. Hành tinh đó quá to để có thể né tránh, cũng như quá khó để xác định chính xác mức độ thiệt hại sau cú va chạm, trong đó không thể nào không kể đến Châu Á. Tình trạng trên đã tác động mạnh đến nền kinh tế châu Á, giá chứng khoán tại các thị trường đều giảm.

2. Thực trạng nợ công ở Việt Nam.

- Nợ công của Việt Nam tăng liên tục từ 36% GDP trong năm 2001 lên 56.7% GDP vào năm 2010. Quy định nợ công ở mức an toàn là 50% nhưng liên tiếp 2 năm 2009 và 2010 tỷ lện này đã vượt ngưỡng an toàn đề ra đây là vấn đề hết sức nghiêm trọng mà việt nam cần phải giải quyết trong thời giàn tới.

- Với tỷ lệ nợ công này và năm 2009 là 52,6% , thì tỷ lệ nợ công việt nam đã đứng thứ 44 trên thế giới và đứng thứ 2 đông nam á sau phillipine. Cao hơn rất nhiều so với các nước mới nổi và đang phát triển trong khu vức

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 15

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

- Một xu thế rất đáng lo ngại là cũng trong giai đoạn 2001-2010, thâm hụt ngân sách (cả trong và ngoài dự toán) tăng từ 2,8% GDP lên tới 6,2% GDP . chúng ta có thể thấy rằng, trong khi nợ công tăng liên tục thì ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững, đó là nợ công ngày hôm nay phải được tài trợ bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Hơn thế, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt qua ngưỡng “báo động đỏ” 5% theo thông lệ quốc tế, khiến tính bền vững của nợ công càng bị giảm sút. Theo báo cáo của Bộ Tài Chính, ước tính đến ngày 31.12.2010 nợ công là 56,7% GDP; trong khi Ngân hàng Thế giới đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP.

- Tuy nhiên, các khoản vay nước ngoài phần lớn đều là vay dài hạn, với lãi suất ưu đãi, hiện tại nợ công không gây sức ép cho ngân sách nhà nước về nghĩa vụ trả nợ đến hạn.

Việt Nam là một nước đang phát triển nên rất cần nguồn vốn để đầu tư phát triển thì nợ công vẫn là nguồn tài chính quan trọng cho việc chi đầu tư phát triển và bù đắp thâm hụt ngân sách.

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 16

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

- Nợ công vẫn đang trong giới hạn an toàn, phần lớn các khoản vay nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất cố định và ưu đãi. Hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng và linh hoạt.Thể chế chính sách dần được hoàn thiện, công tác quản lý nợ ngày càng tốt hơn, dần tiếp cận thông lệ quốc tế.

- Tuy vậy, việc gia tăng nợ công vẫn tạo ra những nguy cơ rủi ro cho nền kinh tế vĩ mô. Ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, thâm hụt ngân sách thường được tài trợ bằng cách vay trong nước và vay nước ngoài. Việc quản lý và chất lượng sử dụng nguồn vốn vay của Việt Nam hiện nay rất yếu kém. ), Vì đầu tư không thể tăng mãi nên đến một lúc nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ phải giảm không đủ bù đắp thâm hụt ngân sách, trả các khoản nợ vay tới hạn làm ảnh hưởng rất nhiều đến tính bền vững của nợ công .

Các chỉ tiêu nợ trong tầm kiểm soát nhưng một số rủi ro thị trường cần được tính toán đo lường chính xác hơn; rủi ro tín dụng chưa được phản ánh trong phí cho vay lại và phí bảo lãnh của Chính phủ. Cơ chế cảnh báo sớm còn hạn chế và quyền hạn quản lý của các cơ quan còn chồng chéo; năng lực cán bộ cần được cải thiện.

- Cạnh đó còn những tồn tại cơ bản là thị trường trái phiếu trong nước phát triển còn hạn chế. Công tác huy động vốn ODA còn thụ động, nhiều khoản vay ODA còn gắn với những ràng buộc làm tăng chi phí đầu vào.

2.1. Tình hình sử dụng nợ công

Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn diễn ra khá thường xuyên. Theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước, hết tháng 10/2009, mới giải ngân được 26.586 trong số 64.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ, bằng 47,5% kế hoạch năm. Tình trạng dự án, công trình thi công dở dang, chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến độ vẫn chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các tập đoàn lớn, dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư. Việc phân bổ vốn vay còn dàn trải; chủ trương huy động và sử dụng vốn

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 17

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

cần gắn kết hơn với ngưỡng an toàn nợ. Hiệu quả sử dụng vốn vay chưa cao, chưa được quản lý giám sát chặt chẽ.

Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR. Năm 2009, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 5,2%. Chỉ số ICOR năm 2009 đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Điều này có nghĩa là, nếu năm 2001 Việt Nam cần 5,24 đồng vốn để tạo ra được 1 đồng sản lượng, thì giờ đây cần phải đầu tư thêm gần 3 đồng vốn nữa.

2.2. Tình hình trả nợ công

Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định và hầu như không có sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng năm Việt Nam dành ra trên 3,5% GDP để chi trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm dần qua các năm, từ 9,09% năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2010. Trong khi đó, quy mô của các khoản nợ công ngày càng tăng lên với tốc độ chóng mặt với gần 20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam còn đang tồn tại nhiều bất cập như chậm trễ trong giải ngân và sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn vay vào các dự án đầu tư. Vì đầu tư không thể tăng mãi nên đến một lúc nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ phải giảm không đủ bù đắp thâm hụt ngân sách, trả các khoản nợ vay tới hạn làm ảnh hưởng rất nhiều đến tính bền vững của nợ công.

Điều này tác động tiêu cực tới khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai.

2.3. Đánh giá, phân tích tình hình nợ công ở Việt Nam

Sau khi nghiên cứu về thực trạng của nợ công Việt Nam, chúng ta thấy nổi cộm lên các vấn đề như sau :

2.3.1. Số liệu thống kê.

Chúng ta có thể thấy rằng có 1 sự khác biệt lớn về số liệu nợ mà việt nam cung cấp so với số liệu mà các tổ chức thế giới (như WB…) đã đưa ra, điều này xuất phát từ 3 yếu tố chính sau:

Việc nhìn nhận về nợ công: Nước ta bóc tách nợ công thành 2 bộ phận gồm khu vực Nhà nước (trung ương, địa phương), khu vực kinh tế công (có sự

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 18

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

góp vốn, góp mặt của Nhà nước)… đưa ra vấn đề này để thấy rằng có nhiều công ty quốc doanh trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn, nhưng khi công ty bị phá sản, Nhà nước không thể phủi tay về trách nhiệm nợ của các công ty ấy. Do đó, nợ công là một “đặc sản” của Việt Nam, không thể tìm thấy ở Thái Lan, Philippin… và rất nhiều nước trên thế giới. Và số liệu nợ mà Bộ Tài chính Việt Nam công bố hiện nay là nợ Nhà nước chứ không phải là nợ công.Nợ công thực tế chắc sẽ lớn hơn nhiều. Thống kê tài chính Việt Nam hiện nay vẫn chỉ tập trung vào nợ Nhà nước, nên cũng khó lòng cho thấy toàn cảnh vấn đề tài chính công vì khu vực doanh nghiệp Nhà nước rất lớn và Nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm nợ nần với khu vực này. Đây không phải là vấn đề của nhiều nước châu Á khác, do đó việc so sánh giữa Việt Nam với Thái Lan hoặc Malaysia chẳng hạn là không đúng trên thực tế về mặt nợ công

Sự thiếu minh bạch, công khai trong vấn đề nợ công của nhà nước: Bài học lớn mà chúng ta nhận được từ hi lạp đó là vấn đề niềm tin và sự minh bạch. Có thể thấy tình trạng tồi tệ mà hy lạp gặp phải là hậu quả của việc thiếu minh bạch, chính các hành vi dối trá trong thống kê của Hy Lạp đã làm giới đầu tư quốc tế mất niềm tin, dân chúng trong nước bất hợp tác đã đẩy Hy Lạp rơi vào vòng xoáy bất ổn kinh tế. Mức thâm hụt ngân sách năm 2008 được Hy Lạp công bố là 5%, nhưng đến nay phát hiện lên đến 14%. Bi kịch Hy Lạp là bài học nhỡn tiền của chủ trương đặt tham vọng chính trị lên trên thực lực kinh tế.và ở việt nam chúng ta vẫn thấy quá nhiều cái bí và mật bên trong số liệu ma nhà nước công bố. và câu hỏi chúng ta đặt ra là vậy con số nợ thực tế của VN là bao nhiêu, nếu nhà nước vẫn để câu hỏi này bỏ ngò thì vấn đề của việt nam cũng sẽ là không nhỏ trong tương lai gần.

Những hạn chế trong phương pháp tính nợ: Trong nợ công còn có 1 bộ phận là phần quỹ hưu trí – đây là cách tính nợ công tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc, vấn đề này hiện nay bị bỏ lơ khi tính nợ công ở Việt Nam. Cách tính nợ công của Việt Nam chưa phản ánh chân thực một phần quan trọng: Đó là nợ phải trả trong tương lai khi công chức về hưu. Phần này có thể rất lớn (ở Singapore chiếm tới 50% GDP). Theo nguyên tắc tính nợ theo tiêu chuẩn quốc tế, thì mỗi khi một công chức nhận lương, họ phải đóng vào quỹ về hưu, còn một phần khác, có thể bằng hoặc gấp đôi, Chính phủ phải đóng vào

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 19

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

quỹ này. Nhiều nước, không thiết lập ra quỹ này, mà đem chi hết, nên Nhà nước hàng năm lấy tiền ngân sách ra chi trả mà quên đi quỹ kia, chứng tỏ theo cách tính này thì những nước như việt nam đang tính thiếu phần nợ công trong nước. Hiện nay, hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Canada, Úc, Nhật và các nước trong khối Liên hiệp châu Âu (EU) đã tính nợ theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Ở EU, việc tính này đã thành luật. Đó là lý do các nước này đều có tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn 50% nhiều. Tỷ lệ trên 100% đối với các nước này là bắt đầu vượt ngưỡng an toàn. Còn đối với các nước đang phát triển, khi không tính nợ hưu trí thì có lẽ là 50% (tất nhiên là tùy từng nước, tùy theo nước đó có chính sách hưu trí cho công chức không và tỷ lệ nằm trong diện công chức lớn như thế nào). Ở các nước phát triển, tỷ lệ nợ công có thể bằng hoặc gần bằng với tỷ lệ nợ Nhà nước vì khu vực quốc doanh không đáng kể, do đó họ vẫn chỉ tập trung vào nợ Nhà nước. Qua những phân tích trên ta thấy rằng còn rất nhiều vấn đề trong số

liêu nợ công của VN đòi hỏi các cấp ban ngành cần có sự xem xét lại cũng như có những điều chỉnh hợp lí.

2.3.2. Cơ cấu nợ:

Trong cơ cấu nợ công Việt Nam, nợ nước ngoài có vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng cao nhất. Mặc dù nợ công khác với nợ nước ngoài, nhưng hiện nay ở Việt Nam, thông tin chi tiết về nợ công chưa đầy đủ; do vậy, các nhà kinh tế thường sử dụng chỉ số nợ nước ngoài để hình dung quy mô và mức độ nghiêm trọng của nợ công của quốc gia.

Các điều khoản ưu đãi của ODA đã giúp Việt Nam giảm bớt được áp lực nợ công; tuy nhiên, tỷ trọng nợ nước ngoài cao tăng nguy cơ rủi ro về cơ cấu nợ trong tương lai. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng nợ trong lịch sử cho thấy, khi tỷ trọng nợ nước ngoài quá cao, Chính phủ mất đi tính chủ động khi ứng phó với các biến động kinh tế thế giới và khó kiểm soát các món nợ vay phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái và tâm lý của nhà đầu tư quốc tế.

2.3.3. Hiệu quả sử dụng các khoản nợ công

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 20

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

Việt Nam sử dụng nợ công không mấy hiệu quả. Vì thực tế thì nguồn tiền có được chúng ta đã và đang sử dụng dàn trải thiếu trọng tâm trọng điểm và mang lại hiệu quả thấp có những trường hợp còn không mang lại hiệu quả. Đề thấy rõ hơn chúng ta tìm hiểu 1 chút về hệ số ICOR-(Incremental Capital – Output Rate), đo lường về hiệu quả đầu tư. ICOR càng cao thì chứng tỏ hiệu quả đầu tư càng thấp:

ICOR = (Kt-Kt-1) / (Yt-Yt-1)

Trong đó: (k: vốn đầu tư, y: sản lượng)

Chỉ số ICOR năm 2010 của VN là 6,9, nói đơn giản là phải bỏ ra 6,9 đồng vốn đầu tư mới được 1 đồng tăng trưởng

Đối với một nước đang phát triển, chỉ số ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh với tiêu chuẩn đưa ra thì VN đầu tư không hiệu quả và so sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi có nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nửa.

Vì thế vấn đề ở đây là nếu số tiền được đầu tư hiệu quả thì càng cần phải khuyến khích vay nợ thêm để chính phủ có thể tạo ra nhiều tài sản và lợi ích cho xã hội hơn, đồng thời số tiền thu được từ nguồn lợi đầu tư của Chính phủ có thể trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn trong tương lai. Nhưng, một khi đầu tư không hiệu quả thì cần phải cân nhắc kĩ về việc vay nợ.

3 Giải pháp và định hướng cho nợ công của Việt Nam. Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý nợ, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nợ nước ngoài. Nghiên cứu đề xuất mô hình đổi mới tổ chức quản lý nợ theo hướng hiện đại và từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Tiếp tục điều chỉnh và sắp xếp lại một cách hợp lý cơ cấu tổ chức quản lý nợ trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao, đảm bảo sự phân công đúng người, đúng việc, tránh chồng chéo, trùng lặp. Để đưa ra một mô hình quản lý nợ công hợp lý cho Việt Nam hiện nay chúng ta không chỉ dựa vào Luật quản lý nợ công; mà còn phải rút kinh nghiệm thực tiễn từ cách quản lý nợ

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 21

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

công trên thế giới để tránh đi vào vết xe đổ khủng hoảng nợ công của các nước. Cung cấp đầy đủ trang thiết bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng hệ thống thông tin, hiện đại hóa quy trình thu thập, tổng hợp, phân tích cơ cấu nợ để đáp ứng yêu cầu quản lý nợ tiên tiến. Thủ tướng đã chỉ định Bộ tài chính với sự hổ trợ của Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước xây dựng những cơ chế phối hợp trong việc quản lý thông tin nợ quốc gia, tăng cường đầu tư cung cấp đầy đủ những phương tiện, thiết bị nhằm phục vụ cho đội ngũ cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, thường xuyên cập nhật các phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tích cơ cấu nợ một cách tiên tiến mang tính chính xác cao cũng như phù hợp với điều kiện đất nước để có thể đưa ra những con số phản ánh đúng thực trạng của nợ nước ngoài cho các cấp lãnh đạo có thể có những quyết định đúng đắn.

Đẩy mạnh công tác đào tạo, tăng cường phổ biến kiến thức về quản lý nợ nước ngoài cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các ban quản lý dự án và đơn vị sử dụng vốn vay nước ngoài. Thủ tướng đã chỉ định Bộ tài chính với sự hổ trợ của Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước xây dựng đề án đào tạo cán bộ, tăng cường phổ biến kiến thức cho các đối tượng có liên quan. Từ đó hình thành một đội ngủ cán bộ có đầy đủ trách nhiệm và chuyên môn góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nợ công.

Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ quản lý. Cần có một chế tài nghiêm khắc với những cán bộ quản lý nợ công khi họ mắc những sai phạm. Tổ chức kiểm điểm và xử lý nghiêm túc các sai phạm của tập thể và cá nhân có liên quan để tránh trường hợp như Vinashin, khi vụ việc vỡ lỡ thì trách nhiệm bị đùn đẩy. Tổ chức huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công đúng mục đích, hiệu quả, bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.

Nâng cao khả năng quản lý vốn vay. Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng và hiệu quả sử dụng nợ công, trên cơ sở kiểm soát thâm hụt ngân sách hợp lý và có chiến lược cụ thể về huy động và sử dụng hiệu quả. Tiếp tục nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Tránh việc vay nợ quá nhiều, đầu tư công quá lớn và quá dàn trải. Do vậy, đối với các dự án đầu tư dài hạn bằng vốn vay ODA

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 22

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

ở Việt Nam cần được giám sát chặt chẽ về điều kiện vay nợ, hiệu quả đầu tư, khả năng trả nợ.

Duy trì giới hạn nợ ở mức an toàn: Tổ chức thực hiện thanh toán trả nợ nước ngoài, đảm bảo trả nợ đầy đủ, đúng hạn, không để phát sinh nợ quá hạn làm ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế. Vận dụng linh hoạt các biện pháp mua lại nợ, chuyển đổi nợ tay ba, giảm nợ đặc biệt trên cơ sở nghiên cứu thận trọng các cơ chế quốc tế phù hợp có khả năng cho phép bằng cách thay đổi cơ cấu nợ để đạt được danh mục nợ tối ưu. Có chính sách điều hành tốt kinh tế vĩ mô để tăng thu ngân sách nhà nước, tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, tăng cường dự trữ ngoại tệ để cải thiện chỉ số nợ nước ngoài và các cân đối lớn của nền kinh tế.

Thành lập Quỹ tích lũy trả nợ :Quỹ này được hình thành nhằm đảm bảo khả năng thanh toán nghĩa vụ nợ của các khoản vay nước ngoài của Chính phủ về cho vay lại hoặc nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà nước phát sinh từ các khoản bảo lãnh của Chính phủ. Cùng với quyết nghị thành lập Quỹ này, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính thực hiện quản lý Quỹ tích lũy trả nợ với nguyên tắc bảo toàn và phát triển nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của Quỹ, sử dụng nguồn vốn của Quỹ đúng mục đích, bảo đảm tập trung đầy đủ, kịp thời các nguồn thu của Quỹ nợ công.

Giám sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ, quản lý nợ công, quản lý rủi ro tài khoá, bảo đảm an toàn nợ và an ninh tài chính quốc gia.

Tăng cường giám sát hiệu quả của việc sử dụng vốn: giám sát các dự án được đầu tư bằng nguồn vốn chính phủ cũng như hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước thông qua cơ quan kiểm tra - thanh tra độc lập.

Tăng cường quản lý rủi ro và giám sát nợ công: tất cả các cơ quan, các tổ chức cơ quan nhà nước có liên quan đều có quyền và trách nhiệm trong việc quản lý nợ công.

Phải minh bạch, công khai rộng rãi các thông tin về nợ công: vốn vay trong nước, vay nước ngoài, trả nợ gốc, trả nợ lãi trong quyết toán NSNN,

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 23

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

cung cấp thông tin về tình hình vay, trả nợ trong nước và nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh; vay, trả nợ nước ngoài của quốc gia, nợ của chính quyền địa phương theo quy định thông qua hình thức phát hành Bản tin về nợ công.

Thanh tra, kiểm toán việc tuân thủ pháp luật trong quản lý nợ công. Hiện, chúng ta đã có cơ sở pháp lý về quản lý nợ công và đây là nội dung quan trọng mà KTNN phải thực hiện. Kiểm toán nợ công không phải là kiểm toán từng khoản nợ, vay thế nào, trả thế nào, sử dụng ra sao, mà còn phải kiểm toán hoạt động nói chung, đánh giá tính kinh tế trong quản lý nợ công. Đối tượng kiểm toán gồm cả các cơ quan quản lý nợ công chứ không phải chỉ là từng khoản nợ công trên báo cáo tài chính. Hiện nay ta mới kiểm toán nợ công có mức độ trong phạm vi được giao kiểm toán. Trong thời gian tới cần mở rộng kiểm toán theo chuyên đề đối với quản lý sử dụng nợ công của từng niên khóa, từng thời kì để tăng tính minh bạch trong quản lý nợ công.

Tăng cường hợp tác quốc tế, tạo lợi thế để tiếp cận nguồn vốn quốc tế và học tập cách thức quản lý tiên tiến của thế giới trong vấn đề quản lý nợ công. Thay đổi cơ cấu nợ công Như chúng ta đã biết tìêm năng trong nước là rất lớn nhưng làm cách nào để có thể huy đông được nó mà khong phải tìm đến các nguồn nước ngoài.Việt Nam thực sự nên thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong nước nhiều hơn nữa. Để thay đổi cơ cấu nợ công, Chính phủ Việt Nam nên phát hành trái phiếu chính phủ trong nước nhiều hơn nữa. Để nâng cao chất lượng các đợt đấu thầu mua trái phiếu chính phủ, chính phủ nên đưa ra một mức lãi suất phù hợp hơn với lãi suất thị trường và yêu cầu của nhà đầu tư.bên cạnh đó cũng cần phải phát triển thị trường chứng khoán vì đây là thị trường hỗ trợ tốt cho việc huy động nguồn vốn trong nước của Chính phủ. Xây dựng môi trường tài chính hiệu quả

Sử dụng hiệu quả nợ công Chi tiêu công phải minh bạch, hợp lý. Vay nợ công phải được chi cho đầu tư phát triển thay vì chi tiêu dùng chính phủ. Chỉ những dự án thực sự đem lại hiệu quả kinh tế mới được xét duyệt và đầu tư thực hiện. Tăng

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 24

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

cường thanh tra, giám sát quá trình thực hiện dự án đầu tư; tránh tình trạng tham nhũng, quan liêu.

Đấu thầu các dự án một cách công khai, minh bạch nhằm chọn lựa được những nhà thầu có năng lực nhất. Để doanh nghiệp ngoài quốc doanh chịu trách nhiệm thầu các dự án đầu tư nhiều hơn, thay cho các doanh nghiệp Nhà nước. Tập huấn và nâng cao trình độ quản lý cũng như trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước.

KẾT LUẬN

Từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu, đặc biệt là nguy cơ vỡ nợ ở Hy Lạp một lần nữa cho chúng ta thấy kinh tế Việt Nam vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu tư từ bên ngoài. Tình trạng của Việt Nam cũng giống Hy Lạp ở một số yếu tố như: thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài, yếu kém trong quan lý chi tiêu công… Chỉ có tái cấu trúc nền kinh tế và cải thiện chất lượng tăng trưởng mới giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm sắp tới.

Nợ công của Việt Nam đã đáng báo động chưa? Với số liệu thống kê chưa đầy đủ như hiện nay thì nợ công Việt Nam vẫn tiềm ẩn rủi ro. Đặc biệt, đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, khi mà nhu cầu đầu tư cho cơ sở hạ tầng rất lớn, hoặc khi nền kinh tế cần những gói kích thích để chống lại chu kỳ suy thoái do những cú sốc bên ngoài, sẽ khiến nợ công tăng cao có nguy cơ gây ra khủng hoảng nợ. Như vậy, ngay từ lúc này, Việt Nam cần phải quản lý nợ công một cách chặt chẽ.

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 25

**LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM**

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. N. Gregory Mankiw, Giáo trình Kinh Tế Vĩ Mô, NXB Thống Kê

2. TS. Phạm Thế Anh, Chi tiêu Chính Phủ và tăng trưởng kinh tế: Lý luận tổng quan, Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Sách Và Kinh Tế.

3. Hoàng Thị Chinh Thon, Phạm Thị Hương, Phạm Thị Thủy, Tác động của chi tiêu công tới tăng trưởng kinh tế ở các địa phương của Việt Nam, Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Sách Và Kinh Tế

4. TS. Vương Đình Huệ, Nợ công và quản lý nợ công, http://daibieunhan-dan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=205619

5. TS. Phạm Văn Hà Nhóm Tư vấn chính sách - Bộ Tài chính, “Chính sách tài chính giai đoạn hậu khủng hoảng” ngày 7/9/2010http://www.tapchitaichinh.vn/tabid/56/Key/ViewArticleContent/ArticleId/2479/Default.aspx .

6. Số liệu từ: Bộ Tài Chính, Tổng Cục Thống Kê Vnexpress.net và Vneconomy.vn.

7. Và một số tài liệu thuộc nguồn: http://updatebook.vn.

TRẦN THỊ NGỌC NHUNG – K105041626 NGUYỄN VÕ THANH THẢO – K105041645 Page 26