8
Cơ Tạo hóa Thiên Đình sắp định, Bu Càn Khôn xoay chuyn lập Đời. Thay bu Trời Đất đổi Đời, Ccây tiêu sạch loài người còn chi! Cơ tận dit huyn linh sắp định, Tạo cơ đồ chn chnh hùng binh. MNga chng chi thinh thinh, Đài cao pháp giỏi cương kình trên không. Ôi nhân loi ngc hình trn kh, Chu pháp mu vô snga nghiêng. Thi hôi chật đất bn min, Dit bằng cơ khí của đời to ra. Khnguơn lánh xa đạo đức, Tin tưởng rằng cơ khí là hơn. Rồi đây tiêu diệt chng còn, Tạo thành cơ khí diệt người là ai? Kim Hồng Linh đầu thai nước M, Hồng Định Quang ský nước Nga. Hai tay đồ đệ ca TA, Thế loài nguyên tdit tà thế gian... (trích Tam Nhật Đàn, Đàn cơ ngày 16 tháng giêng năm Ất Hợi 1935 ở Hà Tiên, theo bản Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống 1000 quyển năm 2000 do Huynh Tám tiệm vàng Mỹ Tín Cabramatta tài trợ). Tam Nhựt Đàn Hà Tiên năm 1935, gợi tôi nhli Thánh Nguyn An Ninh cũng ứng cơ cho tôi ba đêm nhà cha tôi ti Cu Rch Ông năm 1967. Tôi hỏi : « - Xin Ngài cho biết trn chiến này sđi đến kết qunhư thế nào ? ». Thánh Nguyễn An Ninh đáp : « - Quân ngoi bang sthua rút chy. » Tôi li hi : « -Ngài cho biết ai sthng trong cuc chiến này ? » Ngài đáp : « - Dân tc Vit Nam sthng». nghĩa là do sđoàn kết ca ctoàn dân đánh thắng gic ngoi xâm. Tôi hi : « -Hin nay tôi là phi công quân đội Vit Nam Cng Hòa phi ng phó thế nào trong tình hình này ? ». Ngài đáp : « - Quay trvdân tc. ». Trong năm 1967, tôi đang cộng tác viết cho báo nguyt san Tin Văn. Nhân cơ hội này tôi liên lạc được tchc trí vn ca Mt Trn Gii Phóng, và tôi hp tác tchc Trí Vận cho ra đời đặc san Người Vit vn động trí thức đô thành trong cuộc tng công kích tết Mậu Thân 1968. Khi cơ sở bl, tôi phi đến Cu Ông Thìn nhông thy giáo cũ là ông Sáu Sâm cu hiu trưởng trường Kinh Nước Mn liên lc du kích Cn Giuc đưa tôi vào chiến khu rng miền Đông cục R, tôi công tác cơ quan Binh Vận Trung Ương, viết bài cho đài phát thanh Giải Phóng và Hà Nội. Cũng cần nói thêm, sau đàn cơ, Thánh Nguyễn An Ninh nhtôi mang mt thơ {thơ lục bát} đến cho người bạn cũ của Ngài là hc giHHữu Tường. Khi tôi Đàn cơ ba ngày {đêm} t16 tháng giêng năm Ất Hi 1935 Hà Tiên báo trước quân ngoi bang Tây Mthua chy, Vit Nam thng nhứt, và đặc biệt cũng báo trước Thế Chiến ThBa Tn Thế do 2 siêu cường Nga Mtranh hùng ngôi vtrùm thiên h. Nguyn An Ninh

y { m}Lần đầu diện kiến Đức Cậu ... Sa vào cạm bẫy lại với chông gai, ... Từ đây nguyện thấu ở lịnh Thiên Vương Thấy khổ nhiều đường

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Cơ Tạo hóa Thiên Đình sắp định,

Bầu Càn Khôn xoay chuyển lập Đời.

Thay bầu Trời Đất đổi Đời,

Cỏ cây tiêu sạch loài người còn chi!

Cơ tận diệt huyền linh sắp định,

Tạo cơ đồ chấn chỉnh hùng binh.

Mỹ Nga chống chọi thinh thinh,

Đài cao pháp giỏi cương kình trên không.

Ôi nhân loại ngục hình trần khổ,

Chịu pháp mầu vô số ngửa nghiêng.

Thối hôi chật đất bốn miền,

Diệt bằng cơ khí của đời tạo ra.

Kẻ hạ nguơn lánh xa đạo đức,

Tin tưởng rằng cơ khí là hơn.

Rồi đây tiêu diệt chẳng còn,

Tạo thành cơ khí diệt người là ai?

Kim Hồng Linh đầu thai nước Mỹ,

Hồng Định Quang sử ký nước Nga.

Hai tay đồ đệ của TA,

Thế loài nguyên tử diệt tà thế gian... (trích Tam Nhật Đàn, Đàn cơ ngày 16 tháng giêng năm Ất Hợi 1935 ở Hà Tiên, theo bản Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống 1000 quyển năm 2000 do Huynh Tám tiệm vàng Mỹ Tín Cabramatta tài trợ).

Tam Nhựt Đàn Hà Tiên năm 1935, gợi tôi nhớ lại Thánh Nguyễn An

Ninh cũng ứng cơ cho tôi ba đêm ở nhà cha tôi tại Cầu Rạch Ông

năm 1967. Tôi hỏi : « - Xin Ngài cho biết trận chiến này sẽ đi đến kết

quả như thế nào ? ». Thánh Nguyễn An Ninh đáp : « - Quân ngoại

bang sẽ thua rút chạy. » Tôi lại hỏi : « -Ngài cho biết ai sẽ thắng trong

cuộc chiến này ? » Ngài đáp : « - Dân tộc Việt Nam sẽ thắng». Có

nghĩa là do sự đoàn kết của cả toàn dân đánh thắng giặc ngoại xâm.

Tôi hỏi : « -Hiện nay tôi là phi công quân đội Việt Nam Cộng Hòa

phải ứng phó thế nào trong tình hình này ? ». Ngài đáp : « - Quay trở

về dân tộc. ». Trong năm 1967, tôi đang cộng tác viết cho báo nguyệt

san Tin Văn. Nhân cơ hội này tôi liên lạc được tổ chức trí vận của Mặt

Trận Giải Phóng, và tôi hợp tác tổ chức Trí Vận cho ra đời đặc san Người Việt vận

động trí thức đô thành trong cuộc tổng công kích tết Mậu Thân 1968. Khi cơ sở bị lộ,

tôi phải đến Cầu Ông Thìn nhờ ông thầy giáo cũ là ông Sáu Sâm cựu hiệu trưởng trường

Kinh Nước Mặn liên lạc du kích Cần Giuộc đưa tôi vào chiến khu rừng miền Đông cục

R, tôi công tác ở cơ quan Binh Vận Trung Ương, viết bài cho đài phát thanh Giải Phóng

và Hà Nội. Cũng cần nói thêm, sau đàn cơ, Thánh Nguyễn An Ninh nhờ tôi mang một

lá thơ {thơ lục bát} đến cho người bạn cũ của Ngài là học giả Hồ Hữu Tường. Khi tôi

Đàn cơ ba ngày {đêm} từ

16 tháng giêng năm Ất Hợi

1935 ở Hà Tiên báo trước

quân ngoại bang Tây Mỹ

thua chạy, Việt Nam thống

nhứt, và đặc biệt cũng báo

trước Thế Chiến Thứ Ba

Tận Thế do 2 siêu cường

Nga Mỹ tranh hùng ngôi vị

trùm thiên hạ.

Nguyễn An Ninh

mang thơ tới tận nhà ông Tường, ông Tường tỏ ra rất kính mến nhà cách mạng Nguyễn

An Ninh. Nhân dịp này, tôi cho ông Tường biết Ngài Nguyễn An Ninh đã đắc quả vị

Thánh, vì trong đàn cơ, tôi hỏi : « - Xin Ngài cho biết ngôi vị ». Ngài đáp : « – Thánh ».

Năm 1996, tôi về Việt Nam. Lần đầu diện kiến Đức Cậu

Bần Sĩ Vô Danh, được Ngài đặc ân cho tôi dự ba đêm thuyết pháp tại nhà Bà Tư Phú Lâm; tôi đã kết tập 3 băng ấy

in thành quyển sấm giảng Cứu Nguy Tận Thế do Thiền Tịnh

Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1996. Cuộc Tận Thế do 2 siêu

cường Mỹ Nga tranh hùng đã được Đức Cậu Bần Sĩ báo

bằng những câu sấm như sau :

Lớp thì thác đổ phong ba,

Lớp thì anh MỸ anh NGA giựt giành.

Hạt nhân xạ phóng tan tành,

Khắp miền thế giới, Nam thành an bang. ………………………………………….

Hết MỸ rồi lại tới NGA,

Từ đây sắp đến đem ra đấu tài.

Đờn kêu các nước ngoại lai,

Sắp mưu sắp kế ai hoài biết đâu..

Làm cho rã quả địa cầu… ***Tận Thế

(Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết thập niên 80, Sấm Giảng Đạo Khùng tr. 25 & 99, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002)

Cần nói thêm trong Chuyện Bên Thầy, Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết: “Thế Chiến Ba

chắc chắn khởi từ Trung Đông, khi cuộc chiến Trung Đông tạm ngưng, sẽ tới vùng Á

Đông”.

Những sự kiện trên đây nhắc tôi nhớ chuyện Trương Lương ngày xưa. Để phục thù

cho nước Hàn, Trương Lương quyết chí tầm Thầy học binh pháp. Một hôm Lương lang

thang trên cầu Hạ Bì, có một ông lão ăn mặc trông nghèo khổ đi đến chỗ Lương, và làm

rớt chiếc giày dưới gầm cầu. Bỗng ông lão trố mắt nhìn Lương, bảo: “- Xuống nhặt giày

cho ta!” Lúc đầu Lương tức muốn đánh, nhưng thấy lão ông già cả nên cố nhịn, chạy

xuống gầm cầu nhặt giày. Ông lão bảo: “- Hãy xỏ giày vào chân cho ta!” Sẵn giày đã

nhặt, Lương xỏ giày vào chân. Ông lão cho chân vào giày, cười, rồi bỏ đi, không một

tiếng cám ơn. Lương kinh ngạc nhìn theo. Ông lão đi chừng một dặm thì quay trở lại

nói: “- Chú bé này dạy được! Năm hôm nữa sáng sớm trở lại gặp ta ở đây!” Lương

lấy làm lạ quỳ xuống thưa: “- Xin vâng.” Sáng sớm ngày thứ năm, Lương đến nơi hẹn,

ông lão đã có mặt ở đấy rồi. Ông lão tỏ vẻ giận nói: “-Hẹn với người già cả mà lại đến

sau là nghĩa lí gì?” Rồi bỏ đi và nói tiếp: “- Năm ngày nữa gặp sớm!”. Sáng ngày thứ

năm lần này Lương đến từ lúc gà gáy, ông lão lại đã ở đấy rồi, và lại giận nói: “-Vẫn đến

sau là nghĩa làm sao?” Rồi bỏ đi, bảo: “-Năm ngày nữa đến sớm hơn!” Năm ngày sau

chưa nửa đêm, Lương đã ra đi đến nơi hẹn một lát thì ông lão cũng tới. Ông lão mừng,

bảo: “Phải vậy mới được!” và đưa ra một cuốn sách bảo: “- Đọc hết cuốn sách này thì

làm thầy được các bậc đế vương…”. Đó là cuốn Thái Công Binh Pháp. Quả là ứng

Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh* 1996

nghiệm nhiệm mầu, sau nhờ nội dung cuốn sách chỉ bảo, Lương giúp Hán Cao Tổ diệt

Tần phá Sở cứu an trăm họ.

Qua chuyện này, ông lão cũng lại hẹn Trương Lương ba lần ba đêm. Phải chăng là

để thử thách đệ tử, chư vị thiêng liêng không hẹn một lần {thay vì hẹn một lần cho khỏi

phải mất công}, mà là phải hẹn ba lần? Khi hẹn phải đúng giờ, ví như hẹn ngày thì phải

tới đúng 12 giờ khuya như trường hợp ngày xưa ông lão hẹn Trương Lương trên cầu Hạ

Bì, hay năm 1967 ở cầu Rạch Ông, Thánh Nguyễn An Ninh giao ước tôi phải giữ đúng

hẹn 12 giờ khuya mới ban cho cơ ứng nghiệm.

Cũng vậy, Cơ Tạo Hóa cũng hẹn loài người con số 3, nghĩa là Cơ Tạo Hóa rèn luyện

loài người 3 lần trải qua 3 cuộc Thế Chiến ; đó là Thế Chiến Thứ Nhứt 1914-1918,

Thế Chiến Thứ Nhì 1939-1945, và Thế Chiến Thứ Ba….

Phu lục 1: Lô tô ra Con Số 3

Trong đêm Cậu giảng trút cạn đôi lời,

Chúc hết mọi nơi vẹn bề thanh tịnh.

Từ đây đừng dính bụi bám chi nhiều,

Đất nước hoang liêu buổi chiều sương tuyết

Đời đà quá kiệt dân biết không dân,

Nói xa nói gần nói tần nói tảo.

Nói cho người đạo trí thức được nghe,

Xuân hết tới Hè ra tre mà ở.

Về đi trả nợ ráng nhớ đừng buồn,

Bần Sĩ điên cuồng đêm nay mới nói.

Bạc mo bạc gói ỉa ói hết trơn,

Ráng giữ đừng sờn keo sơn chặt chẽ.

Tâm lòng mát mẻ vui vẻ mới tồn,

Bao sự dập dồn từ đây sắp tới.

Hoàn cầu thế giới bốn biển năm châu,

Nó cũng đau sầu từ đây sẽ thấy.

Sa vào cạm bẫy lại với chông gai,

Thanh tịnh ra bài lô tô Cậu gởi.

Cậu chờ Cậu đợi biết mấy đông xông,

Chúc hết chị ông Mây Rồng Phật mở.

Nếu ai thiếu nợ ráng trả cho rồi,

Nứt nắp bể nồi chạy dài hết ráo. *

Cậu về Cậu cáo với lịnh Ngọc Hoàng,

Mau xuống hạ san phạt đàn ma quỷ.

Để chi thế kỷ báo quá hiền lương,

Dày dạn gió sương trăm đường chi xiết.

Từ đây ráo riết tát cạn biển khơi,

Cậu nói mà chơi không lời không vốn.

* Câu sấm: “Nứt nắp bể nồi chạy dài hết

ráo”, ám chỉ khi người lãnh tụ nước Tàu gây

chiến Biển Đông chết (bể nồi), thì cũng là

ngày tận thế đến. Tất cả đều thua: …chạy dài

hết ráo (Tận Thế).

Khi nào thấy xảy ra sự cố “Bể Nồi”, bá gia

biết đó là điềm Tận Thế. Hãy tu mau kẻo trễ!

Không thua không tốn nguy khốn cận kề

Nói chút Cậu về Cậu đâu có ở.

Lấy ai nâng đỡ dạy dỗ cho trò,

Tu hành không lo bòn tro đãi trấu.

Từ đây nguyện thấu ở lịnh Thiên Vương

Thấy khổ nhiều đường đau thương gấp mấy.

Sang năm rồi thấy anh chị em ơi,

Cậu chẳng nói chơi đôi lời nói thiệt.

Nói ra đời kiệt rồi với đời tàn,

Nói xóm nói làng nói sa nói ngã.

Nợ kia phải trả đạm chớ có vay,

Đêm vắn ngày dài từ đây rốt ráo.

Ai người có đạo Phật chở Trời che,

Cậu thấy sợ e đồng bào chết đói.

Ba mo bảy gói Cậu thấy cũng tàn,

Đổi xóm đổi làng đổi quan đổi chức.

Đổi ơi cho khuất đừng có mà còn,

Đổi núi đổi non bà con đổi hết.

Chắc rằng phải chết cho hết Hạ Nguơn,

Tu tịnh đừng sờn keo sơn ráng giữ.

Bền lòng hai chữ thi cử đắc thân,

Nói xa nói gần nói Tần mới đến.

Gởi cùng cảm mến anh chị đông xông,

Ráng nhớ mà trông một lòng mới được.

Thuyền trời nước ngược đạo sĩ ráng bơi,

Chẳng được lả lơi kêu Trời giậm đất.

Từ đây sắp mất của cải vàng muôn,

Mắt lệ sắp tuôn ngồi buồn thê thảm.

Cậu đâu có dám bụi bám làm sao,

Tiếng nói Cậu rao đồng bào xa lạ.

Ráng tu đừng ngả trôi chả mất rồi,

Đổi núi đổi đồi giang sơn biển hải.

Nghe rồi đừng cãi van vái mau lên,

Gặp Phật dựng nền gặp Vua gặp Chúa.

Từ đây tài của sự sản cũng tan,

Hết MỸ tới Nga hết Tàu tới Thổ. *

Nó tìm đủ chỗ nó đến Việt Nam,

Nó luận nó đàm nó đua nó lấn.

Nếu ta tinh tấn chẳng sợ đâu đâu,

Có Phật ngôi lầu chứng minh tất cả.

Từ đây phải rã phải trả đất đai,

Hãy cố mà hay ra bài chặt chẽ.

Chúc cầu mát mẻ cô bác chỗ này,

Cậu chẳng phải Thầy ở đây luận giảng.

Sắp tới đây, khi Mỹ đánh bằng vũ khí

nguyên tử phủ đầu nước Tàu, thủ đô Bắc

Kinh bị xóa sổ, cả nước Tàu rối loạn, đói

khát tràn lan, giặc giã nổi dậy khắp nơi.

Chừng đó, các chủng tộc như Tây Tạng,

Tân Cương... đứng lên đòi chủ quyền độc

lập tách ra khỏi sự cai trị dân tộc Hán.

Nước Tàu bùng nổ cuộc nội chiến máu

chảy thành sông, xương phơi đầy đồng.

Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết trong

quyển Khuyên Người Đời Tu Niệm viết

năm 1939 : Nói chuyện bên Tàu máu đổ

tuôn rơi!

Sau khi Mỹ dùng vũ khí nguyên tử đánh

phủ đầu xoá sổ Bắc Kinh, thì Nga lợi dụng

tình thế nước Tàu rối loạn ở vùng biên

giới, Nga đưa người và vũ khí đến Tây

Tạng, Tân Cương… giúp các sắc dân này

chống lại dân tộc Hán (Tàu), chiến tranh

dữ dội giữa các sắc tộc, loạn lạc khắp nơi,

máu chảy thành sông, xương phơi đầy

đồng. Khi Nga bình định được các nước

Tây Tạng, Tân Cương… thành lập chánh

phủ các nước này thân Nga, thì chừng đó

Mỹ Nga tranh hùng đánh nhau giành giựt

nước Tàu. Chiến tranh nguyên tử bùng nổ,

đưa thế giới đến ngày Tận Thế.

Trút thơ thăm bạn biệt dạng bớ trò,

Đói khổ đừng lo giàu to sợ lắm.

Từ đây mua sắm Cậu thấy uổng công,

Nó bắt cạo lông của đồng cũng giựt.

Thấy rồi nồng nực các bực anh tài,

Cố gắng một ngày mau mau sắp tới.

Người tu vì bởi nghiệp quả oan khiên,

Ráng nhớ Cậu điên Cậu buồn Cậu điếc.

Cậu cho mà biết đời tiệt hoang vu,

Kêu hết người tu từ đây sắp đến.

Gởi cùng đạo mến ăn ở phương xa,

Nói Cậu về nhà kính thăm đồng đạo.

Tay thơ bút thảo Cậu nói lô tô,

Nước MỸ sắp vô nước Miên sắp đánh.*

Nếu ai có tánh hãy hiểu cực kỳ,

Khắc khổ ai bi li bì xiêu ngả.

Giành thôi cha chả chẳng biết làm sao,

Giựt Chúa giựt trào giựt nào bửu bối.

Chắc rằng thắng thối sống mới tường tri,

Cậu nói làm chi việc gì của đó.

Nhưng mà sáng tỏ đặng biết thiên cơ,

Nói ngu nói khờ nói bờ nói bụi.

Đánh nhau hè hụi một buổi sẽ thành,

Nó giựt nó giành đài châu bửu báu.

Nhưng mà xốc xảo người đạo hưởng ân,

Nói xa nói gần nói Tần gần bước.

Nói thôi cho được mấy lượt đăng san,

Giàu khổ cơ hàn đói cơm khát nước.

Nghèo ta làm phước sau được ấm no,

Trời Phật ban cho có đò qua biển.

Đủ tài trình diện Phật hiện lưới trần,

Đủ các toàn phần đua chen đấu pháp.

Mưa ngâu gió táp Cậu thấy rõ ràng,

Các nước lân bang từ đây sắp tới.

Hoàn cầu thế giới Cậu thấy đảo điên,

Thấy rõ chẳng yên thấy hiền thấy dữ.

Bảo trò thi cử hai chữ từ bi,

Đừng nói nữa chi hãy đi tu sửa.

Chắc rằng binh lửa thiêu đốt địa cầu,

Bốn biển năm châu co đầu hết trọi.

Cậu làm tôi mọi tất cả quần sinh,

Nấu sử sôi kinh tâm tình cốt nhục.

Đêm nay nói chút mai mốt Cậu hồi,

Sự đến đây rồi sự tồi sự bại.

Ai khôn ở trại ai dại ở nhà,

Sự tới kia cà dân đâu có rõ.

Người nào kheo mỏ rồi đến múa môi,

Chắc lẽ phải trôi bẩn tồi thiêu hủy.

Thấy rồi niên kỷ Cậu chỉ cho tường,

Đốt phố cháy phường đoạn trường ghê gớm.

Đánh làng đánh xóm ghê gớm thiết tha,

Giết mẹ giết cha giết anh giết chị.

Từ đây chắc bị trả quả lộn nhau,

Tu tịnh một màu ôi thôi một sắc.

Giờ này Cậu bắc cho được nhịp cầu,

Cậu chứng canh thâu từng câu cầu nguyện.

Ráng đi thực hiện cứu vớt người lành,

Tâm dạ an thanh từ bi sẽ hiểu.

Đôi lời Cậu biểu dân chúng tường tri,

Nói rồi Cậu đi ở nơi chỗ khác.

Tự tha tự giác mới thấy nhiệm mầu,

Bốn biển năm châu co đầu hết ráo.

Cậu về Cậu cáo với lịnh Phật Vương,

Thấy vậy mà thương nhiều đường lắt léo.

Có tròn có méo có khéo cũng tan,

Có bạc có vàng từ đây cũng mất.

Có tài có vật Cậu thấy cũng trôi,

Có chức có ngôi từ đây cũng rã.

Nói cho cha chả không biết nói gì,

Điên dại từ khi từ đây Cậu dặn.

Nơi miền lội lặn thăm kính đồng bào,

Cậu chẳng sợ hao thân tàn cốt hủy.

Ở trong niên kỷ Cậu mới ra bài,

Kính thăm quý Ngài chỗ này vĩnh viễn.

Ráng cầu Phật hiện độ hết trần gia,

Là con số 3.

(Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết thập niên 80, kết tập sách Sấm Giảng Đạo Khùng tr. 89-94, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002) .

Phụ lục 2:

…Kỳ này thi cử đấu chiến thứ ba,

Lấp biển giang hà đem ra tranh đấu.

Ai gìn chốt mấu mới sẽ tồn lai,

Tranh pháp tranh tài mấy ai có thấy.

Từ rày lừng lẫy ơi hỡi đông phương,

Cậu thấy tận tường dọn đường cho Phật.

Chắc là không trật đấu phép tranh tài,

Thử coi ai hay thắng không hay bại.

Ai khôn ở trại ai dại ở nhà,

Nó tới kia cà người đâu có rõ.

Cứ xài múa mõ lại với khua môi,

Chợ Lớn hết vôi Cậu rồi về trển.

Bây giờ khổ sở Cậu ở khuyên lơn,

Anh chị thua hơn có hờn cũng vậy.

Người đâu có thấy cạm bẫy gai chông,

Đánh bạc đánh đồng đánh trong chút nữa.

Đánh cho khói lửa nghiêng ngửa địa cầu,

Đánh cồn đánh dâu nó đâu có để. * Đánh để giành giựt cồn đảo trên Biển Đông.

Kỳ này không dễ con số nào ra,

Là con số 3.

(Trích băng ghi âm do Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết pháp thập niên 80, kết tập sách Thượng Đế Thưởng Phạt tr. 77-78, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2001)

…Ai ai nấy giữ xác sạch linh hồn,

Bảy nhựt thiên môn tối tăm trời đất.

Một còn một mất dân tộc trầm kha,

Cậu nói Cậu la Cậu gào Cậu thét.

Từ đây trời quét dẹp dọn hồng trần,

Tỉnh ngộ bớ dân rần rần rồi đó.

Đừng nên la ó Cậu lại buồn hiu,

Các chỗ Cậu kêu chắc tiêu hết ráo.

Cậu về Cậu cáo với lịnh Phật Trời,

Đặng gấp vậy thời lập đời cho sớm.

Tiêu đi ghê gớm lũ quỷ tà yêu,

Để cảnh để kêu mai chiều khốn khổ.

Long Hoa gần trổ Cậu nói tiếp ra,

Là con số 3. (trích băng ghi âm do Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết năm 1989 ở Chợ Vườn Chuối Sài Gòn, kết tập sách Tinh Hoa Đàn Kinh tr. 142, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2000).

Con Số 3 thường thấy xuất hiện cuối những bài sấm Lô Tô do Đức Cậu Bần Sĩ Vô

Danh ứng khẩu thuyết, phải chăng con số 3 có cái lý thiên cơ vô cùng quan trọng?

Có thể tóm tắt 3 nguyên nhân xảy ra Thế Chiến Ba Tận Thế như sau:

1 - Một là từ năm 2001, tổ chức quân khủng bố Al Qaeda đánh sập Trung Tâm Thương

Mại Thế Giới Nữu Ước, Mỹ tập trung dồn tất cả lực lượng quân đội vào Trung Đông

tiêu diệt hồi giáo quá khích Al Qaeda, đây là thời cơ Trung Quốc lợi dụng âm mưu bành

trướng thế lực độc chiếm Biển Đông…

2 - Hai là trong cuộc chiến tranh Biển Đông, Mỹ & Tàu đánh nhau, khi sự cố “bể nồi”

xảy ra, nước Tàu tan nát, hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương cũng bị Tàu đánh tơi bời tang

thương, nai dạt móng thì chó cũng le lưỡi…Trong khi đó Nga đứng ngoài dòm ngó chờ

cơ tranh thủ “Ngư Ông đắc lợi.”

3 - Ba là sau sự cố “bể nồi” lãnh tụ nước Tàu chết, các sắc tộc Tây Tạng, Tân

Cương…đứng lên chống lại Hán tộc, nước Tàu nội chiến tan nát, Nga thừa cơ nước đục

thả câu, ngao cò tranh nhau ngư ông đắc lợi; Nga đưa cố vấn & vũ khí giúp các sắc tộc

Tây Tạng, Tân Cương…đánh lại Hán tộc; Nga giúp Tây Tạng Tân Cương tuyên bố tách

khỏi nước Tàu thành lập chánh phủ thân Nga. Thế là cuối cùng có một trận chiến Mỹ

Nga tranh hùng đánh nhau bằng vũ khí nguyên tử chết chóc kinh thiên động địa.

Phụ lục 3: Đàn Cơ Diệu Võ Chơn Quân tiên tri Nga Mỹ chia xẻ Trung Hoa.

Mượn bút mực đôi lời nhắn bạn,

Máy huyền linh tỏ cạn đôi lời;

Đường trần nay sắp đổi dời,

Canh Tân ra mới lập đời Thượng Nguơn.

Bảng phong Thánh dựng lên chọn lọc,

Người hiền lương như ngọc còn nguyên;

Căn xưa kiếp trước còn duyên,

Nên nay được sự Hội Tiên dự bàn.

Long Hoa Hội đến màn khai mở,

Ớ người hiền chớ nỡ làm ngơ;

Minh Vương xuất thế chớ ngờ,

Trị đời thâu thủ phầt cờ Nhan Uyên.

Đừng có tưởng là yên vui rảnh,

Quả Địa Cầu từng mảnh tan ra;

Rồi đây sẽ thấy không xa,

Hơn tỉ người lẻ Trung Hoa giựt giành.

Bom nguyên tử ra đời rồi biết,

Quả Địa Cầu hủy diệt không xa;

Mỹ Nga chia xẻ Trung Hoa, *

Giựt giành chẳng ổn bất hòa choảng nhau.

Cơ tự diệt đành rành trước mắt,

Thảo đôi lời để nhắc người hiền;

Tu mau kẻo trễ vô duyên,

Ngừa thuyền đón khách Phật Tiên đang chờ.

Sydney, 20-8-2019, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) https://kinhsamthatson.wordpress.com/