Upload
khangminh22
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
Nghiên cứu tính chất điện - từ của hạt và
màng mỏng Au có kích thước nano
Nguyễn Khắc Thuận
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Khoa Vật lý
Luận văn ThS Chuyên ngành: Vật lý Chất rắn; Mã số: 60 44 07
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Nam Nhật
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về: vật liệu nanô; tính chất điện, từ của
vàng; hiện tượng cộng hưởng Plasmon trên bề mặt hạt vàng kích thước nanô;
Antenna siêu cao tần. Trình bày phương pháp thực nghiệm: phương pháp hóa học
ướt chế tạo hạt Au kích thước nanô; phương pháp thủ công chế tạo lá vàng có kích
thước nanomet; phương pháp nhiễu xạ tia X…Đưa ra một số kết quả nghiên cứu
Keywords: Vật lý chất rắn; Tính chất điện từ; Hạt; Màng mỏng; Vàng
Content
Nghiên cứu và chế tạo vật liệu nano có các chức năng đặc biệt đang là một lĩnh vực
thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, cả trên thế giới lẫn ở nước ta, do
nhiều tính chất ưu việt của các vật liệu này không được tìm thấy ở các vật liệu dạng khối.
Tư hang nghin năm trươc , con ngươi đã biêt sử dụng các hạt nano kim loại như hạt
nano vàng, nano bạc. Nổi tiếng nhất có thể noi đên chiếc cốc Lycurgus được người La
Mã chế tạo vào khoảng thế kỉ thứ IV trước Công nguyên và hiện nay được trưng bày ở Bảo
tàng Anh [44]. Chiếc cốc nay đổi màu phu thuộc vào cách người ta nhìn nó. Nó có màu đỏ
khi nhìn ánh sáng đi từ trong xuyên qua thành cốc va có màu xanh lục khi nhìn ánh sáng
phản xạ trên cốc. Các kết quả phân tích cho thấy trong chiếc cốc đó có chưa các hạt nano
vàng và bạc có kích thước 70nm và với tỉ phần mol là 14:1.
Hiện tượng thay đổi màu sắc như vậy chỉ xuất hiện ở các hạt nano kim loại, trong
đó các điện tử tự do có kha năng hấp thụ ánh sáng khả kiến làm cho chúng có hiện tượng
quang học như trên. Thực nghiệm cũng đã chứng minh màu sắc của hạt nano phụ thuộc rất
nhiều vào kích thước và hình dạng của chúng. Ví dụ, ánh sáng phản xạ trên bề mặt kim
loại vàng ở dạng khối có màu vàng, nhưng ánh sáng truyền qua dung dịch hạt nano vàng
lại có màu xanh dương hay màu cam khi kích thước hạt thay đổi. Hiện tượng thay đổi màu
sắc này có thể được giải thích dựa trên hiệu ứng cộng hưởng plasmon bề mặt. Khi kích
2
thước của vật liệu giảm xuống cỡ nanomet thì vật liệu đó bị chi phối bởi hiệu ứng giam giữ
lượng tử. Tính chất của các hạt nano kim loại có liên quan đến hệ điện tử tự do. Khi xét
đến tính chất của chúng cần xem xét đến hai giới hạn: (1) khi kích thước của hạt ở mức
quãng đường tự do trung bình của điện tử (khoảng vài chục nanomet), trạng thái plasmon
bề mặt thể hiện các tính chất đặc trưng khi tương tác với điện-từ trường bên ngoài (sóng
điện từ, ánh sáng); (2) khi kích thước ở khoảng bước sóng Fermi (khoảng dưới 4nm), hệ
điện tử thể hiện các trạng thái năng lượng gián đoạn, gần giống như nguyên tử.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu phương pháp chế tạo ra các vật liệu có
kích thước nanomet đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm. Rất nhiều phương pháp áp
dụng công nghệ cao trong chế tạo hạt nano, thanh nano hay màng mỏng đã được nghiên
cứu và thực hiện thành công. Mỗi phương pháp đều có ưu điểm riêng tùy theo mục đích
mà có sự lựa chọn phương pháp thích hợp.
Tuy vậy, có một lĩnh vực dường như bị bỏ quên, liên quan đến công nghệ chế tạo
các màng vàng cấu trúc nano - đó là công nghệ dát vàng thủ công truyền thống tại Việt
Nam và ở một số nước Châu Á (Trung Quốc, Thái Lan ...). Chúng ta hầu như không có
khảo sát vật lý chi tiết nào về loại công nghệ này và phải nói chúng ta hiện biết rất ít về các
đặc trưng vật lý của các sản phẩm do công nghệ này tạo ra, cũng như về bản chất công
nghệ này.
Công nghệ dát vàng đã tồn tại rất lâu ở nước ta. Để phục vụ cho nhu cầu của cuộc
sống, những người thợ thủ công ở làng Kiêu Kị, Gia Lâm, Hà Nội đã chế tạo ra những lá
vàng mỏng có kích thước 200 nanomet bằng phương pháp dát vàng thủ công truyền thống.
Các cấu trúc này có nhiều điểm đặc biệt và cho thấy một vài hiệu ứng lý thú. Các tài liệu
nghiên cứu hiện nay chưa cho thấy có công bố nào liên quan đến tính chất điện, quang, từ
của vật liệu màng vàng được chế tạo bằng các phương pháp thủ công và được sử dụng
trong lĩnh vực dát vàng nghệ thuật cổ truyền ở nước ta.
Luận văn của tôi trình bày về: “Nghiên cứu tính chất điện từ của hạt và màng
mỏng Au có kích thƣớc nano” nhằm mục đích: (1) giới thiệu phương pháp chế tạo và
khảo sát các tính chất của lá vàng mỏng nêu trên; (2) chế tạo và nghiên cứu khả năng nâng
cao hiệu suất thu phát sóng siêu cao tần của anten siêu cao tần sử dụng hiệu ứng plasmon
bề mặt của hạt vàng kích thước nano. Lần đầu tiên chúng tôi đã chế tạo và đưa ra cấu hình
của anten siêu cao tần sử dụng plasmon.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của bản luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Phương pháp thực nghiệm
Chương 3: Kết quả và thảo luận
3
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Vật liệu nano
1.1.1. Khái niệm vật liệu nano
Vật liệu nano là vật liệu trong đó ít nhất một chiều có kích thước nanomét. Đây là
đối tượng nghiên cứu của khoa học nano. Tính chất của vật liệu nano phụ thuộc vào kích
thước của chúng, cỡ nanomet đạt tới kích thước tới hạn của nhiều tính chất lý hóa của vật
liệu thông thường. Vật liệu nano có kích thước trải một khoảng từ vài nanomet đến vài
trăm nanomet tùy thuộc vào phương pháp chế tạo và ứng dụng của chúng [41].
1.1.2. Sơ lược về vật liệu vàng (Au)
Thời Trung Cổ, vàng thường được xem là chất có lợi cho sức khoẻ, với niềm tin
rằng một thứ hiếm và đẹp phải là thứ tốt cho sức khoẻ. Thậm chí một số người theo chủ
nghĩa bí truyền và một số hình thức y tế thay thế khác coi kim loại vàng có sức mạnh với
sức khoẻ. Một số loại muối của vàng thực sự có tính chất chống viêm và đang được sử
dụng trong y tế để điều trị chứng viêm khớp và các loại bệnh tương tự khác. Tuy nhiên, chỉ
các muối và đồng vị của vàng mới có giá trị y tế cao, khi là nguyên tố (kim loại) vàng trơ
với mọi hoá chất nó gặp trong cơ thể. Ở thời hiện đại, tiêm vàng đã được chứng minh là
giúp làm giảm đau và sưng do thấp khớp và lao.
Vàng là kim loại quý đứng thứ 79 trong bảng hệ thống tuần hoàn có cấu hình điện
tử Xe[6s14f
145d
10] hoặc Xe[6s
24f
145d
9]. Nguyên tử vàng có năng lượng ở hai mức 5d và 6s
xấp xỉ nhau nên có sự cạnh tranh giữa lớp d và lớp s. Điện tử của vàng có thể dịch chuyển
về cả hai trạng thái này. Về cơ bản nano Au có thể có tính chất từ do có một phần điện tử
5d chưa lấp đầy, tuy nhiên các lớp d chưa lấp đầy có thể nằm dưới các lớp lấp đầy, nên Au
khối không có từ tính. Các điện tử hóa trị trong kim loại vàng rất linh động, tạo nên tính
dẻo dai đặc biệt của vàng và phổ của nó cũng khá phức tạp. Năng lượng liên kết Au →
Au3+
+ 3e− = 1.498 V.
Vàng kết tinh có cấu trúc lập phương tâm mặt (hình 1.4), nhóm đối xứng Fm-3m,
hằng số mạng a = 4.078(2)Å [49]. Mỗi nguyên tử Au liên kết với 12 nguyên tử xung quanh
tạo nên cấu trúc xếp chặt như nhiều nguyên tố kim loại khác. Khoảng cách gần nhất giữa
hai nguyên tử vàng là 2.884 Å, do đó bán kính vàng nguyên tử được coi là 1.442 Å. Mỗi
nguyên tử lại có các electron rất linh động nên ở dạng khối, vàng có độ dẫn điện và nhiệt
tốt.
4
Hình 1.1. Cấu trúc lập phương tâm mặt Fm-3m của tinh thể Au
Khi được chia nhỏ đến trạng thái phân tử có kích thước vài nanomet (nm), nguyên
tố này thể hiện nhiều đặc tính khác biệt. Trước tiên chúng sẽ thay đổi màu sắc, chuyển từ
màu vàng sang màu đỏ hoặc tím nhạt (hình 1.5). Sự chuyển màu này có được là do trong
phân tử nano vàng không hấp thụ ánh sáng có bước sóng nằm trong vùng quang phổ như
các miếng vàng khối thông thường.
Hình 1.2. Dạng sản phẩm nano vàng được sản xuất trên thế giới với kích thước khác nhau
có màu sắc khác nhau tuỳ thuộc kích thước của hạt [45]
Trên thị trường, vàng là một kim loại đắt tiền, các vật phẩm được chế tạo ra từ vàng
thường có giá trị khá cao. Do đó, nghiên cứu phương pháp để phủ vàng lên các vật phẩm
mỹ nghệ là khá quan trọng trong việc làm giảm giá thành sản phẩm mà vẫn giữ được vẻ
đẹp của vàng. Một phương pháp đơn giản, đã xuất hiện từ rất lâu đời ở nước ta là phương
pháp dát vàng. Phương pháp này có thể tạo ra được những lá vàng rất mỏng (chỉ cỡ vài
trăm nm) phủ lên các vật phẩm có thể bằng gỗ hay kim loại. Nhờ đó, các vật phẩm này có
giá rẻ hơn rất nhiều so với vàng thật mà vẫn có được màu sắc như vàng thật.
1.2. Tính chất điện, từ của vàng
1.2.1. Tính chất điện
Tính dẫn điện của vàng kim loại rất tốt, hay điện trở của nó nhỏ nhờ vào mật độ
điện tử tự do cao trong vùng dẫn. Tính dẫn của vàng chỉ kém bạc và đồng, điện trở suất của
vàng ở nhiệt độ phòng 300K là vào cỡ 2,4.10-8
Ω.m [30]. Đối với vật liệu vàng khối, các lí
giải vật lý về độ dẫn dựa trên cấu trúc vùng năng lượng. Điện trở của vàng có nguyên nhân
chủ yếu từ sự tán xạ của điện tử lên các sai hỏng trong mạng tinh thể và tán xạ với dao
động nhiệt của nút mạng (phonon).
5
0 200 400 600 800 1000
0
2
4
6
8
Re
sis
tivity (
x 1
0-8 O
hm
x m
)
Temperature (K)
Resistivity of gold
Hình 1.3. Sự phụ thuộc của điện trở suất vào nhiệt độ của vàng kim loại [21].
Sự thay đổi của điện trở suất của kim loại vàng theo nhiệt độ có dạng tuyến tính
và có giá trị cỡ 2,3. 10-8
Ω.m tại 300K.
Định luật Ohm cho thấy đường I-U là một đường tuyến tính. Nhưng khi kích thước
của vật liệu giảm dần, có thể so sánh được với độ dài đặc trưng (quãng đường tự do trung
bình của điện tử) thì tính chất có liên quan đến độ dài đặc trưng bị thay đổi đột ngột, khác
hẳn so với tính chất đã biết trước đó. Hiệu ứng giam hãm lượng tử làm rời rạc hóa cấu trúc
vùng năng lượng.
1.2.2. Tính chất từ
Tính chất từ của các kim loại có tính sắt từ như các kim loại chuyển tiếp sắt, cô
ban, ni ken là kết quả của cấu hình điện tử ở mức 3d. Sự không cân bằng trong cách phân
bố các điện tử 3d (spin up và spin down) do tương tác trao đổi dẫn đến các điện tử không
ghép cặp và tạo nên mômen từ tự nhiên [19,33]. Đối với vàng kim loại, mặc dù cấu hình
điện tử là [Xe]4f14
5d10
6(sp)1 (tức là có sự không cân bằng giữa số electron của spin up và
spin down) nhưng cấu trúc vùng của vàng và mật độ trạng thái theo tính toán của nó chỉ ra
rằng có sự bù trừ giữa các cặp điện tử, và do đó nó thể hiện tính nghịch từ [29,32]. Điều
này đã được thực nghiệm chứng minh với kim loại vàng khối (có độ cảm từ âm χ = -
1,42.10-7
emu/g.Oe [22]).
Tuy nhiên, khi kích thước của vật liệu giảm tới cỡ một vài trăm nanomet thì tính
chất từ của vât liêu bị thay đổi đột ngột, có sự khác biệt so với tính chất khi nó ở kích
thươc lơn hơn . Cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra tính chất từ của vàng ở cấp
nanomet. Công trình đầu tiên được thực hiện bởi Hori và cộng sự [16] đã cho thấy hạt nano
vàng 3nm được bọc N-vinyl-2-pyrrolidone (PVP) có momen từ là 22µB tại nhiệt độ 4,2K.
1.3. Hiện tƣợng cộng hƣởng plasmon trên bề mặt hạt vàng kích thƣớc nanomet
1.3.1. Khái niệm hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt
6
Plasmon bề mặt là những sóng điện từ được truyền dọc theo mặt tiếp xúc kim loại -
điện môi. Ta cũng có thể định nghĩa plasmon bề mặt là sự dao động của điện tử tự do ở bề
mặt của hạt nano với sự kích thích của ánh sáng tới. Cường độ điện trường của plasmon bề
mặt giảm nhanh theo quy luật hàm mũ khi xa dần mặt tiếp xúc kim loại - điện môi.
Hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt là sự kích thích các electron tự do bên
trong vùng dẫn, dẫn tới sự hình thành các dao động đồng pha. Khi kích thước của một tinh
thể nano kim loại nhỏ hơn bước sóng của bức xạ tới thì xuất hiện plasmon bề mặt. Khi tần
số của photon tới cộng hưởng với tần số dao động của electron tự do ở bề mặt kim loại thì
sẽ xuất hiện hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt [2].
Hinh 1.4. Sơ đô môt mô hình hiêu ưng plasmon
Kim loại có nhiều điện tử tự do, các điện tử tự do này sẽ dao động dưới tác dụng
của trường điện từ bên ngoài (như ánh sáng). Thông thường, các dao động bị dập tắt nhanh
chóng do các sai hỏng hay các nút mạng tinh thể trong kim loại khi quãng đường tự do
trung bình của điện tử nhỏ hơn kích thước của tinh thể. Khi kích thước của hạt nhỏ hơn
quãng đường tự do trung bình của điện tử thì hiện tượng dập tắt không còn nữa mà điện tử
sẽ dao động cộng hưởng với ánh sáng kích thích. Khi dao động như vậy, các điện tử sẽ
phân bố lại trong hạt là cho hạt trở thành lưỡng cực điện. Dao động lưỡng cực của các điện
tử được hình thành với một tần số f nhất định. Hạt nano vàng có tần số cộng hưởng trong
dải ánh sáng nhìn thấy [4].
1.3.2. Vị trí đỉnh cộng hưởng plasmon
Đối với hạt nano vàng, bản chất của phổ hấp thụ không phải do sự dịch chuyển
giữa các mức năng lượng mà là do hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt.
Khi tần số của sóng ánh sáng tới cộng hưởng với tần số dao động của các điện tử
dẫn trên bề mặt thì được gọi là hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt. Khi chiếu ánh
sáng tới hạt vàng, dưới tác dụng của điện trường, các điện tử trên bề mặt hạt được kích
thích đồng thời dẫn tới một dao động tập thể, gây ra một lưỡng cực điện trên hạt đó (hình
1.10).
Đế
Bán dẫn
Hạt nano kim loại
Ánh sáng tới
7
Hình 1.5. Phổ hấp thụ của vật liệu nano vàng
Phổ hấp thụ của hạt nano vàng và thanh nano vàng khác nhau do hình dạng và kích
thước của chúng khác nhau (hình 1.11) [23]. Mie đã đưa ra các tính toán và chỉ ra rằng phổ
hấp thụ của hạt nano vàng dạng hình cầu chỉ có một đỉnh cộng hưởng SPR ở bước sóng
khoảng 520nm ứng với một mode dao động lưỡng cực của điện tử trên bề mặt hạt vàng. Vị
trí đỉnh cộng hưởng cũng phụ thuộc vào kích thước hạt nano. Các hạt keo có kích thước
càng lớn thì vị trí đỉnh cộng hưởng càng dịch chuyển về phía bước sóng dài. Khi thay đổi
kích thước hạt, vị trí đỉnh cộng hưởng có thể dịch chuyển đến vài chục nanomet.
Hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt là tính chất đặc trưng nhất của các kim
loại ở kích thước nano. Hiện tượng này được thể hiện qua các phổ đặc trưng của chúng.
Đối với hạt nano vàng, ứng dụng của hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt được chúng
tôi nghiên cứu trong chế tạo plasmon antenna (trình bày cụ thể trong chương 3).
1.4. Anten siêu cao tần
Anten là một cấu trúc được làm từ những vật liệu dẫn điện tốt, được thiết kế để có
hình dạng kích thước sao cho có thể bức xạ sóng điện từ theo một kiểu nhất định một cách
hiệu quả. Là thiết bị dùng để truyền năng lượng điện từ giữa máy phát và máy thu mà
không cần phương tiện truyền dẫn tập trung.
Anten siêu cao tần là loại anten dùng cho dải sóng có bước sóng nhỏ (khoảng vài
chục milimét). Nó được dùng trong thiết bị vô tuyến điện siêu cao tần như: vô tuyến truyền
hình, ra đa, điện thoại di động… Tùy theo yêu cầu cụ thể thì các anten siêu cao tần có tính
phương hướng rộng hay hẹp, có kết cấu nhất định [31].
Về cấu tạo, mỗi phần tử anten mạch dải gồm có các phần tử chính là phiến kim
loại, lớp đế điện môi có hằng số điện môi thích hợp, màn chắn kim loại và bộ phận tiếp
điện. Phiến kim loại được gắn trên lớp điện môi tạo nên một kết cấu tương tự như một
mạch in nên đôi khi còn được gọi là anten mạch in (Hình 1.13).
8
Hình 1.6. Cấu tạo của một anten vi dải đơn giản
Hằng số điện môi của lớp điện môi là một thông số đóng vai trò quan trọng quyết
định đến các hoạt động của anten. Nó ảnh hưởng đến trở kháng đặc tính, tần số cộng
hưởng, băng thông và hiệu suất của anten [48].
Ý tưởng cơ bản trong luận văn này là nghiên cứu ảnh hưởng của việc phủ các hạt
nano vàng lên bề mặt điện cực kim loại của anten siêu cao tần để tìm kiếm một hiệu suất
hoạt động tốt hơn cho các anten này nhờ vào hiệu ứng plasmon bề mặt xuất hiện trên các
hạt nano vàng khi có ánh sáng nhìn thấy chiếu vào. Ngay cả một sự thay đổi trái chiều như
sự suy giảm hoặc sự tán xạ có định hướng của anten sau khi phủ cũng có thể đem lại khả
năng ứng dụng nhất định trong việc bảo vệ người sử dụng trước tác dụng của sóng điện từ,
hoặc làm các màn chắn sóng vv...
9
CHƢƠNG 2
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phƣơng pháp hóa học ƣớt chế tạo hạt Au kích thƣớc nano
Có nhiều phương pháp khác nhau để chế tạo các hạt nano vàng như phương pháp
hóa khử [1], quang hóa [24, 28]. Phương pháp khử hóa học là dùng các tác nhân hóa học
để khử ion kim loại thành kim loại (còn được gọi là phương pháp hóa ướt). Dung dịch
ban đầu có chứa các muối của kim loại như HAuCl4. Tác nhân khử ion kim loại Au+
thành Au ở đây là các chất hóa học như Citric acid, Sodium Borohydride NaBH4, Ethanol
(cồn), Ethylene Glycol [13]. Để các hạt phân tán tốt trong dung môi mà không bị kết
tụ thành đám, người ta sử dụng phương pháp tĩnh điện để làm cho bề mặt các hạt
nano có cùng điện tích và đẩy nhau hoặc dùng phương pháp bao bọc chất hoạt hóa bề
mặt.
Quy trình:
Các dung dịch có chứa HAuCl4 và Na3C6H5O7 đã pha chế được trộn với nhau theo
tỉ lệ nhất định (bảng 2.1). Dung dịch sau khi pha trộn được khuấy đều bằng máy khuấy từ
trong 10 phút và sau đó gia nhiệt cho đến khi sôi. Phản ứng tạo thành vàng xảy ra ở khoảng
nhiệt độ 72 ± 10C. Dung dịch sau đó được đun sôi trong 5 phút để đảm bảo phản ứng xảy
ra hoàn toàn. Dung dịch sau đó được để nguội tự nhiên theo nhiệt độ môi trường. Kích
thước hạt trung bình có thể thay đổi trên một dải khá rộng (khoảng 10-100 nm) phụ thuộc
tỷ lệ pha trộn giữa các muối Au và natri citrate ban đầu.
Bảng 2.1. Tỉ lệ pha trộn các dung dịch
TT Tên mẫu DD
HAuCl4 (ml)
DD
Na3C6H5O7 (ml) Tỉ lệ mol
1 Au1 0,4 15 0,388
2 Au2 0,7 15 0,678
3 Au3 0,8 15 0,776
4 Au4 1,0 15 0,971
2.2. Phƣơng pháp thủ công chế tạo lá vàng có kích thƣớc nanomet [43]
Phương pháp thủ công truyền thống làm quỳ vàng, quỳ bạc của nhân dân làng Kiêu
Kị, Gia Lâm, Hà Nội đã xuất hiện từ rất lâu đời. Những lá vàng quỳ được tạo ra có kích
thước từ 3x3cm đến 5x5cm và có bề dày chỉ cỡ vài trăm nanomet. Sản phẩm quỳ vàng và
quỳ bạc do dân làng Kiêu kị làm ra đã đáp ứng được yêu cầu của các nghệ nhân sơn thiếp
vàng bạc và các nhà hoạ sĩ vẽ tranh sơn mài từ nhiều năm nay, và không chỉ nổi tiếng ở
trong nước mà còn ở cả nước ngoài.
a. Nguyên liệu
10
Nguyên liệu phải dùng là vàng thật có độ tuổi 9999 [42], ngoài ra còn cần đến các
nguyên vật liệu phụ trợ: giấy bản (giấy dó); nhựa thông, mùn cưa để đốt lấy bồ hóng, da
trâu nấu thành keo để nhào với bồ hóng làm mực.
b. Dụng cụ chế tạo
- Búa cán vàng bạc nặng 1,8kg.
- Búa đánh quỳ nặng 1,5kg, mặt búa có độ vát 150, cán làm bằng gỗ cây xưa.
- Cối đá và chày tay để giã mực.
- Bàn đá hình vuông.
- Miếng đá nhỏ hình thang nghiêng 350, nặng 1,5kg dùng để lướt mực.
- Đai buộc quỳ bằng loại vải dày như vải ka ki.
- Kéo nhỏ sắc dùng để cắt dòng.
- Lá vải dùng để phơi khô các lá giống khi lướt mực xong.
- Mâm gỗ hình chữ nhật dùng để chạy vàng hay chạy bạc.
- Một bộ đe búa dùng để cán mỏng vàng hay bạc thành dây dài.
c. Quy trình gia công
- Chế biến mực
- Pha giấy dó
- Đập và bóc giấy quỳ
- Lướt mực và đập giấy quỳ giống
- Pha giấy khấu làm lá qùi vỡ
- Lướt mực và đập giấy quỳ vỡ
- Cán vàng
- Đánh vỡ
- Cắt dòng
- Đánh quỳ
- Thu quỳ thành phẩm
Tất cả các khâu trong quy trình làm quỳ vàng hay bạc kể trên đều được tiến hành
theo trình tự rất nghiêm ngặt và không được phép làm lẫn lộn khâu sau lên khâu trước và
không được làm tắt hay ăn bớt bỏ đi một khâu nào. Đặc biệt là khâu cuối cùng thu hồi sản
phẩm người làm phải xoa phấn rôm vào tay cho khỏi dính quỳ thì sẽ không bị hao hụt
nguyên liệu và sản phẩm. Theo kinh nghiệm của các nghệ nhân lâu năm thì khâu làm giấy
quỳ giống và giấy vỡ là khâu quan trọng nhất có tính quyết định đến chất lượng của sản
phẩm.
2.3. Các phƣơng pháp nghiên cứu tính chất của vật liệu
- Phương pháp nhiễu xạ tia X
- Kính hiển vi điện tử quét SEM
11
- Kính hiên vi điên tư truyên qua TEM
- Các phương pháp phân tích quang học
- Đo độ dày màng mỏng bằng phương pháp vạch mũi dò
- Phương pháp bốn mũi dò xác định điện trở suất
12
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tính chất của lá vàng chế tạo bằng phƣơng pháp thủ công [5]
3.1.1. Khảo sát một số đặc trưng cấu trúc
Cấu trúc tinh thể
20 30 40 50 60 70
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
CaCa
AuAuAu
Inte
nsity
2Theta (O)
Au
Au
Ca
Hình 3.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của lá vàng Au
Trên giản đồ nhiễu xạ tia X ta thấy xuất hiện các đỉnh Au và Ca của (CaCO3), kết
quả cho thấy mạng có cấu trúc orthorhombic với các giá trị hằng số mạng tương ứng là a =
11,580 Å; b = 7,746 Å; c = 4,883 Å.
Cấu trúc vi mô
Sau khi được rửa qua bề mặt bằng cồn, để khô tự nhiên, mẫu được chụp ảnh bề mặt
bằng thiết bị chụp ảnh FESEM tại Viện Khoa học Vật liệu.
Hình 3.2. Ảnh FESEM của lá vàng
Xác định độ dày của lá vàng
Bề dày của lá vàng được đo bằng phương pháp vạch mũi dò bằng thiết bị Veeco
Dektak 150 tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa Vật lý, Đại học Khoa học Tự nhiên. Từ
các hình ảnh trên hình 3.3 và dữ liệu thu được, chúng ta thấy rằng độ dày trung bình của lá
vàng đo được là 239nm.
a
13
Hình 3.3. Đường profile phép đo độ dày lá vàng
3.1.2. Khảo sát tính chất quang của mẫu
Khảo sát tính chất quang của lá vàng này, chúng tôi thực hiện đo phổ hấp thụ trong
dải bức xạ có bước sóng từ 200-800 nm.
200 300 400 500 600 700 800
0,0
0,1
0,2
0,3
0,4
Ab
so
rba
nce
wavelength (nm)
Au
Hình 3.4. Phổ hấp thụ của lá vàng
3.1.3. Xác định điện trở suất của lá vàng
Lá vàng được cắt thành dạng hình chữ nhật có kích thước (3x10mm), đặt lên một
đế thủy tinh và được đo điện trở bằng thiết bị phổ kế tâm sâu sử dụng 2 mũi dò.
-0,04 -0,02 0,00 0,02 0,04 0,06
-0,010
-0,005
0,000
0,005
0,010
U (
V)
I (A)
Au (300K)
-0,03 -0,02 -0,01 0,00 0,01 0,02 0,03 0,04
-0,003
-0,002
-0,001
0,000
0,001
0,002
0,003
U (
V)
I (A)
Au (170K)
Hình 3.5. Đặc trưng V-A của lá vàng tại 300K và 170K
3.2. Plasmon trên hạt Au kích thƣớc nano
14
Hình 3.6 là ảnh của các dung dịch chứa các hạt nano vàng hình cầu, từ bên trái sang
lần lượt là các mẫu Au1, Au2, Au3, Au4 như đã giới thiệu ở mục 2.1.
Hình 3.6. Màu sắc của các dung dịch chứa hạt nano vàng
Cấu trúc hình học và cấu trúc vi mô của các hạt nano vàng mẫu Au1 được khảo sát
bằng các phép đo nhiễu xạ tia X, chụp ảnh TEM.
Các hạt phân tán trong những khoảng hẹp. Các hạt nano vàng xuất hiện ở dạng hình
cầu tương đối đều và kích thước trung bình của chúng là khoảng 15nm với độ lệch chuẩn
là 3nm. Trên giản đồ nhiễu xạ tia X, chúng ta chỉ thấy xuất hiện 2 đỉnh (111) và (200), giá
trị hằng số mạng tương ứng cũng được chỉ ra trên giản đồ là cỡ 4,08(3)Å, phù hợp với giá
trị hằng số mạng của vàng kim loại 4,078Å [9].
(a) (b)
Hình 3.7. Ảnh TEM (a) và giản đồ nhiễu xạ tia X (b) của hạt nano vàng
Hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt có thể được khảo sát bằng cách sử dụng
các phép đo hấp thụ. Phổ hấp thụ của hạt nano vàng được chỉ ra trên hình 3.8. Ở đây chỉ
xuất hiện một đỉnh hấp thụ cực đại tại 522nm.
15
Hình 3.8. Phổ hấp thụ của hạt nano vàng: thực nghiệm
3.3. Chế tạo anten siêu cao tần có bề mặt đƣợc chức năng hóa bằng hạt Au kích thƣớc
nano
3.3.1. Phương pháp chế tạo antenna
Anten siêu cao tần được chế tạo bằng bản vi mạch, 2 mặt phủ đồng Cu, cách nhau
một lớp điện môi, sử dụng phương pháp ăn mòn hóa học (sử dụng muối Fe3+
hòa tan Cu
trên bề mặt) để khắc lên đó các đường rãnh có kích thước được định sẵn. Ở đây tôi chế tạo
3 anten giống nhau, có cấu tạo như hình 3.9.
Hình 3.9. Cấu tạo của antenna siêu cao tần (mặt trước và mặt sau)
Dải tần hoạt động của 03 anten này trùng nhau, có hai đỉnh cực đại là 2,96 và 13,1
GHz (Hình 3.10).
16
Hình 3.10. Khảo sát dải tần hoạt động của antenna siêu cao tần bằng dao động ký
Với 3 anten giống nhau, chúng tôi thực hiện phủ hạt nano vàng lên 2 anten, một
anten còn lại được dùng làm mẫu chuẩn. Phương pháp phủ đơn thuần là coating mặt trước
của anten sau đó phơi khô tự nhiên.
Một anten đã phủ được đem đi sấy khô ở vùng nhiệt độ 1200C trong khoảng 1h, ở
nhiệt độ này, chất hoạt hóa bề mặt (hữu cơ) đã bị đốt cháy, các hạt nano vàng sẽ bám trực
tiếp lên mặt chấn tử Cu.
Như vậy tôi có 3 antenna khác nhau (Hình 3.11):
Hình 3.11. Mô hinh mặt cắt 3 antenna được chế tạo
M1: antenna thông thường, 1 điện cực là đất, chấn tử là Cu;
M2: antenna được phủ hạt nano vàng vẫn còn chất keo ngăn cách tạo nên hệ chứa
vô số các chấn tử trên bề mặt anten. Cấu trúc của nó: 1 điện cực là đất, chấn tử là Cu - lớp
điện môi (keo) - n hạt Au.
M3: antenna được phủ hạt nano vàng bám trực tiếp lên chấn tử; 1 điện cực là đất,
chấn tử là Cu-n hạt Au; mật độ hạt 3/1 µm2.
3.3.2. Ảnh hưởng của plasmon lên khả năng thu phát của anten
Cả 3 antenna nói trên được chúng tôi đem đi đo khả năng thu phát sóng. Hình 3.13
cho thấy tín hiệu S1 (phản hồi) của các anten M1, M2 và M3.
Theo hình 3.13 thì về cơ bản phản hồi của 2 mẫu có phủ bề mặt là thấp hơn mẫu
không phủ, như vậy trong điều kiện không chiếu sáng thì các anten có phủ bề mặt hoạt
động kém hơn.
Hinh 3.13. Phản hồi của M1
Trên hình 3.14 chúng tôi so sánh tín hiệu phản hồi của cả 3 mẫu anten khi bật sáng
và khi tắt sáng.
-15
-10
-5
0
0 5 10 15
M2M3M1
S1 in dark
dB
FREQUENCY [GHz]
Đất
Chấn tử
Đất
Chấn tử
Đất
Chấn tử
M1 M2 M3
17
(a)
(b)
(c)
Hinh 3.14. Phản hồi của 3 mẫu anten khi có và không có ánh sáng chiếu
Hình (a) cho thấy điều hiển nhiên với mẫu M1 (không có bề mặt được phủ hạt
nano) là hoạt động của anten này không phụ thuộc vào việc chiếu sáng bề mặt chấn tử
cộng hưởng của nó.
- Với cấu trúc lớp (M2) thì tín hiệu phản hồi khi chiếu sáng suy giảm một lượng
đáng kể, ca 10% hiệu suất.
- Với mẫu có gia nhiệt bề mặt (M3) thì tín hiệu phản hồi tăng khoảng 15% (~2.5 dB
trên max 12.7 dB). Như vậy việc phủ bề mặt chấn tử anten đã có tác dụng tích cực lên tín
hiệu phản hồi của anten này.
-15
-10
-5
0
0 5 10 15
lightdark
S1 for M1
dB
FREQUENCY [GHz]
-15
-10
-5
0
0 5 10 15
lightdark
S1 for M2
dB
FREQUENCY [GHz]
-15
-10
-5
0
0 5 10 15
lightdark
S1 for M3
dB
FREQUENCY [GHz]
18
Do vậy, định hướng tiếp theo của đề tài này là chế tạo các anten siêu cao tần có cực
bề mặt là các lá vàng mỏng 100-200 nm phủ bề mặt bằng hạt vàng dạng cầu kích thước 10-
20 nm. Hy vọng các cấu trúc mới có thể đem lại hiệu suất hoạt động cao hơn cho các anten
siêu cao tần.
19
KẾT LUẬN
Luận văn trên đã được thực hiện với mục đích là giới thiệu phương pháp thủ công
truyền thống chế tạo lá vàng kích thước nano; nghiên cứu những tính chất của chúng. Về
hạt vàng, luận văn tìm hiểu đến hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt và ứng dụng phủ
lên antenna siêu cao tần.
Phương pháp dát vàng thủ công truyền thống của nước ta có thể tạo ra được những
lá vàng mỏng cỡ vài trăm nano mét. Đây là một phương pháp rất độc đáo, sản phẩm được
tạo ra có một số tính chất như của vàng khối và một số tính chất của vật liệu nano.
Hạt nano vàng được chế tạo bằng phương pháp hóa học, hiện tượng cộng hưởng
plasmon trên bề mặt của chúng là một trong những hiện tượng rất lý thú cho những nghiên
cứu ứng dụng sau này.
Các antenna siêu cao tần đã được chế tạo đơn giản, tuy nhiên khi thực hiện khảo sát
lại cho những kết quả đáng chú ý. Antenna được chức năng hóa bề mặt bằng hạt nano vàng
thể hiện khả năng thu phát tốt hơn các antenna thông thường khi chúng được chiếu sáng.
Điều này mở ra hướng nghiên cứu hữu ích cho các ứng dụng trong thực tế thời gian tiếp
theo.
References
Tiếng Việt
1. Ngạc An Bang, Nguyễn Trọng Thành, Phùng Thị Thơm, Ngô Bá Thưởng (2009), Một
số tính chất quang của hạt vàng có kích thước nanomet, Advances in optics
photonics spectroscopy and applications V, 674-680.
2. Ngạc An Bang, Lê Văn Vũ (2007), Chế tạo và nghiên cứu một số tính chất quang của
hạt vàng (Au) có kích thước nano, Hội nghị Vật lý chất rắn toàn quốc lần thứ V, PP
773-776.
3. Nguyễn Thế Bình (2006), Quang phổ học thực nghiệm, NXB Giáo dục.
4. Phùng Thị Thơm, (2009), Chế tạo và nghiên cứu tính chất quang của thanh vàng nano,
Luận văn thạc sĩ, Khoa Vật lý, ĐH KHTN.
5. Nguyễn Khắc Thuận, Vũ Anh Tuấn, Hoàng Đức Anh, Hoàng Nam Nhật (2011), Cấu
trúc và tính chất của màng vàng (Au) sử dụng trong công nghệ dát vàng cổ ở Việt
Nam, Hội nghị vật lý chất rắn và khoa học vật liệu toàn quốc lần thứ 7.
6. Lê Văn Vũ (2004), Giáo trinh cấu trúc và phân tích cấu trúc vật liệu, Hà Nội.
Tiếng Anh
7. A. Mooradian (1969), Photoluminescence of metals, Physical review letter, vol. 22, No.
5, 1969, pp. 185-187.
8. A. Tao, S. Habas, and P. Yang (2008), Small 4, pp 310.
20
9. Barth, T. and Lunde, G. (1926), The lattice constants of metallic platinum, silver and
gold. Zeitschrift für Physikalische Chemie, 121, 78–102.
10. Carmeli I, Leitus G, Naaman R (2003), J Chem Phys, 118 :10372.
11. Crespo P, Litran R, Rojas TC (2004), Phys Rev Lett, 93:087204.
12. D. E. Aspnes, E. Kinsbron, and D. D. Bacon. (1980), Optical properties of Au: Sample
effects, Physical review B, vol. 21, No. 8.
13. D. Kim et. al (2006), Nanotechnology, 17, 4019.
14. Hernando A, Crespo P, Garcia MA (2006), Phys Rev Lett, 96:057206.
15. Hori H, Yamamoto Y, Iwamoto T et al (2004), Phys Rev B, 69:174411.
16. Hori H, Terenishi T, Nakae Y et al (1999), Phys Lett A, 263:406.
18. J. Turkevich, P. C. Stevenson, and J. Hillier (1951), Discuss. Faraday Soc. 11, pp 55.
19. Kubler J (2009), Theory of itinerant electron magnetism, Revised edn. Oxford Science
Publications, Oxford.
20. Knaus B, Garzon S, Crawford TM (2009), J Appl Phys, 105:07A903.
21. Lide, David R.(1997), Handbook of Chemistry and Physics, 75th Edition, NewYork,
CRC Press, pp 11-41.
22. Lide DR (ed) (2009-2010), Handbook of chemistry and physics, CRC Press, Boca-
Raton.
24. Mandal M., Ghosh S. K., Kundu S., Esumi K., Pal T. (2002), UV photoactivation for
size and shape controlled synthesis and coalescence of gold nanoparticles in
micelles, Langmuir 18, pp 7792-7797.
25. M. G. Ramchandani (1971), J. Phys. F: Met. Phys. 1, pp 169-176.
26. Nusa Puksic (November 2007), gold, Ljubljana.
27. N. W. Ashcroft, D. N. Mermin (1976), Solid state physics.
28. P. Mulvaney (1996), Surface plasmon spectroscopy of nanosized metal particles,
Langmuir 12, 788.
29. Ramchandani MG (1970), J Phys C Met Phys 3:S1.
Websites:
41. Nguyễn Hoàng Hải, Dạ Trạch, Các hạt nano kim loại,
vietsciences.free.fr/thuctap_khoahoc/thanhtuukhoahoc/hatnanokimloai.htm
42. http://vhv.vn/vhv_dat-vang-quy,-bac-quy-nghe-doc-nhat-vo-nhi-cua-thang-
long_60809.html
43. http://cuocsongviet.com.vn/index.asp?act=detail&mabv=5869
44. http://www.thebritishmuseum.ac.uk/science/text/lycurgus/sr-lycurgus-p1- t.html