Upload
pham-duc-hong-dang
View
11
Download
7
Embed Size (px)
Citation preview
ẢNH HƯỞNG CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ CỦA NƯỚC NGOÀI
TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẶP KHẨU CỦA VIỆT NAM
Lời mở đầu
Trong những thập niên gần đây, các nhà kinh tế học đều công nhận
rằng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có ảnh hưởng đáng kể đối với thương
mại quốc tế (Segerstrom và các cộng sự, 19901; Grossman và Helpman,
19912; Helpman, 19933). Đây cũng chính là một trong những lý do làm
cho vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ gây nhiều tranh cãi. Trên quan điểm của
các nước phát triển, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ một cách không đầy
đủ tại các nước đang phát triển sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của các
công ty của các nước phát triển. Không nhất trí với quan điểm trên, các
nước đang phát triển lại cho rằng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ một
cách “lỏng lẻo” không hề ảnh hưởng nhiều đến các nhà sản xuất ở các
nước phát triển, và việc thắt chặt bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ tạo điều
kiện cho các công ty nước ngoài thu lợi trên sự thiệt hại của công ty trong
nước và làm hạn chế triển vọng phát triển của các nước đang phát triển.
1 Segerstrom et al., 1990, “A Schumpeterian Model of the Product Life Cycle,” American Economic Review 80: 1077-1091.
2 Grossman, G. M. and Helpman, E., 1991, “Innovation and Growth in the Global Economy,” (MIT Press 61: 1247-1280).
3 Helpman, E., 1993, “Innovation, Imitation and Intellectual Property Rights,” Econometrica 61: 1247-1280.
Trên phương diện lý thuyết, các phân tích kinh tế chưa thể khẳng định
được chiều hướng tác động của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với
thương mại bởi lẽ việc tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ cùng
một lúc tạo ra hai hiệu ứng (Schwartz, 19914; Taylor, 19935; Taylor,
19946; Maskus and Penubarti, 1995; Smith, 1999). Một mặt, bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ ở quốc gia nhập khẩu sẽ tạo cơ hội quốc gia xuất
khẩu thực hiện độc quyền (Lee và Mansfield, 19967; Maskus, 19988;
Seyoum, 19969). Quốc gia xuất khẩu có thể giảm sản xuất và tăng giá
hàng xuất khẩu. Trong trường hợp này, xuất khẩu có thể sẽ giảm xuống
(hiệu ứng quyền lực thị trường - market power effects). Mặt khác, việc
thực thi quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ ở quốc gia nhập khẩu sẽ hạn chế các
công ty trong nước sản xuất hàng giả, và làm tăng nhu cầu về hàng nhập
khẩu từ nước ngoài. Trong trường hợp này, nhập khẩu sẽ tăng lên (hiệu
ứng mở rộng thị trường - market expansion effects).
Trên thực tế, hai hiệu ứng nêu trên có thể triệt tiêu lẫn nhau. Điều này
đã gây khó khăn cho việc dự đoán tác động của bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ đối với thương mại. Do đó, việc phân tích tác động của bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ đối với thương mại sẽ tùy thuộc vào từng trường hợp
nghiên cứu cụ thể (từng quốc gia, từng ngành hàng cụ thể). Chính vì vậy,
nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài “Tác động của bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ ở ngoài đối với xuất khẩu của Việt Nam”.
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
4 Schwartz, M., 1991, “Patent Protection through Discriminatory Exclusion of Imports,” Review of Industrial Organization 6: 231-246.
5 Taylor, S. M., 1993, “TRIPs, Trade, and Technology Transfer,” Canadian Journal of Economics 26: 625-638.
6 Taylor, S. M., 1994, “TRIPs, Trade, and Growth,” International Economic Review 35: 361-382-638. 7 Lee, J-E & Mansfield, E., 1996, “Intellectual Property Right Protection and U.S. Foreign Direct
Investment,” Review of Economics and Statistics 78 (2): 181-186. 8 Maskus, K. E., 1998, “The International Regulation of Intellectual Property,” Weltwirtschaftliches
Archiv 134 (2): 186-208. 9 Seyoum, B., 1996, “The Impact of Intellectual Property Rights on Foreign Direct Investment,”
Columbia Journal of World Business 31: 51-59.
1.1.Trong nước (phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu thuộc
lĩnh vực của đề tài trên thế giới, liệt kê danh mục các công trình
nghiên cứu, tài liệu có liên quan đến đề tài được trích dẫn khi
đánh giá tổng quan)
Cho đến nay, vẫn còn rất ít các công trình nghiên cứu về tác động bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ và thương mại quốc tế. Nghiên cứu của Kien
(2011)10 tập trung vào đánh giá sự thay đổi môi trường bảo hộ sở hữu trí
tuệ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Kết quả
nghiên cứu của bài viết cho thấy số lượng phát minh chưa nhiều, bản
quyền được cấp chủ yếu cho người nước ngoài. Đồng thời, chế độ bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ chưa chặt chẽ thể hiện tiến bộ công nghệ còn yếu,
chất lượng của các nhà khoa học và các cơ sở nghiên cứu còn thấp, và
đầu tư vào R&D (nghiên cứu và phát triển) chưa thỏa đáng. Mặc dù Việt
Nam đã ban hành khá đầy đủ quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
nhưng việc thực thi còn nhiều hạn chế.
1.2. Ngoài nước (phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu thuộc
lĩnh vực của đề tài trên thế giới, liệt kê danh mục các công trình
nghiên cứu, tài liệu có liên quan đến đề tài được trích dẫn khi
đánh giá tổng quan)
Mối quan hệ giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thương mại đã được
đề cập từ lâu trong các tài liệu về thương mại quốc tế (Flam and
Helpman, 198711; Maskus và Penubarti, 199712). Cho đến nay, đã có
10 Heo, Y. and Kien, T. N., 2011, “Vietnam’s Intellectual Property Landscape from a Regional Perspective”, International Area Studies Review 14(1): 73-104.
11 Flam, H. and Helpman, E., 1987, “Industrial Policy under Monopolistic Competition,” Journal of International Economics 22: 79-102.
12 Maskus, K. E. and Penubarti, M., 1997, “Patents and International Trade,” in Quiet Pioneering: Robert M. Stern and His International Economic Legacy, ed. K. Maskus, et al. (Ann Arbor: University of Michigan Press).
nhiều công trình nghiên cứu về bản chất cũng như chiều hướng tác động
của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thương mại (Frink và Primo
Braga, 199713; Maskus, 200014; Al-Mawali, 200515; Wen-Hsien, 200516).
Maskus và Penubarti (1995)17 là hai tác giả đưa ra bằng chứng đầu tiên về
mối quan hệ giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thương mại. Cụ thể là sự
khác nhau về mức độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ giữa các quốc gia bóp
méo dòng chảy thương mại. Các kết quả nghiên cứu của họ cho thấy việc
tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ có tác dụng thúc đẩy thương mại về mặt
tổng thể. Điều đó có nghĩa là hiệu ứng mở rộng thị trường có chiều hướng
chiếm ưu thế hơn so với hiệu ứng quyền lực thị trường.
Trong số các công trình nghiên cứu trước đây, một số công trình
nghiên cứu có xét đến khả năng bắt chước công nghệ (imitative ability)
và tiềm lực R&D của nước nhập khẩu khi đánh giá tác động của bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ đối với thương mại (Ferrantino, 199318; Maskus và
Penubarti, 1995; Smith, 199919; Smith, 200220; Lui và Lin, 200521). Cụ
thể, Ferrantino (1993) đã phân tích chế độ bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với
xuất khẩu, sử dụng số liệu xuất khẩu của Hoa Kỳ. Kết quả nghiên cứu của
13 Fink, C. and Primo-Braga, C. A., 2005, “How Stronger Protection of Intellectual Property Rights Affects International Trade Flows,” in C. Fink and K. E. Maskus ed., Intellectual Property and Development: Lessons from Recent Economic Research (pp. 19-40). Washington, DC: The International Bank for Reconstruction and Development/ The World Bank.
14 Maskus, K. E., 2000, Intellectual Property Rights in the Global Economy, Washington, DC: Institute for International Economics.
15 Al-Mawali, N., 2005, “Bilateral Intra-Industry Trade Flows and Intellectual Property Rights Protection: First Empirical Evidence,” Applied Economic Letters 12: 823-828.
16 Wen-Hsien, L. and Ya-Chi, L., 2005, “Foreign Patent Right and High-Tech Export: Evidence from Taiwan,” Applied Economics, 37(13): 1543-1555.
17 Maskus, K. E. and Penubarti, M., 1995, “How Trade-related Are Intellectual Property Rights?,” Journal of International Economics 39: 227-248.
18 Ferrantino, M. J., 1993, “The Effects of Intellectual Property Rights on International Trade and Investment,” Weltwirtschaftliches Archive 129: 300-331.
19 Smith, P. J., 1999, “Are Weak Patent Rights a Barrier to U.S. Exports?,” Journal of International Economics 48: 151-177.
20 Smith, P. J., 2002, “Patent Rights and Trade: Analysis of Biological Products, Medicinals and Botanicals, and Pharmaceuticals,” American Journal of Agricultural Economics 84(2): 495-512.
21 Liu, W. H. and Lin, Y. C., 2005, “Foreign Patent Rights and High-tech Exports: Evidence from Taiwan,” Applied Economics 37: 1543-1555.
Ferrantino cho thấy chế độ bảo hộ sở hữu trí tuệ của các nước nhập khẩu
không ảnh hưởng đến tổng kim ngạch xuất khẩu của Hoa Kỳ. Smith
(1999) đã khẳng định kết quả nghiên cứu này thông qua việc minh chứng
rằng hiệu ứng mở rộng thị trường hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của
các công ty của quốc gia nhập khẩu bắt chước công nghệ của quốc gia
xuất khẩu. Để minh chứng được điều này, các quốc gia nhập khẩu trong
mẫu nghiên cứu được chia thành 4 nhóm dựa trên tiêu chí phân loại “khả
năng bắt chước công nghệ”. Bốn biến giả cho 4 nhóm quốc gia này lại
được tương tác với biến “chỉ số bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”. Kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng xuất khẩu của Hoa Kỳ rất nhạy cảm với bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, và chiều hướng tác động hoàn toàn phụ thuộc vào
khả năng bắt chước công nghệ của nước nhập khẩu. Kết quả nghiên cứu
này cũng được khẳng định lại trong nghiên cứu của Smith (2002), cụ thể
là việc tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài có tác dụng
kích thích xuất khẩu dược phẩm của Hoa Kỳ sang các quốc gia có khả
năng bắt chước công nghệ, nhưng lại làm giảm kim ngạch xuất khẩu
dược phẩm sang các quốc gia không có khả năng bắt chước công nghệ.
Nghiên cứu của Frink và Primo Braga (2005) cho thấy có mối quan hệ tỷ
lệ thuận giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thương mại hàng phi nhiên
liệu. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thương
mại hàng công nghệ cao lại không rõ ràng.
Một số nghiên cứu khác lại tập trung vào trình độ phát triển của quốc
gia nhập khẩu khi đánh giá tác động của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối
với thương mại. Cụ thể, Smith (1999) đã đưa ra biến tương tác giữa chỉ
số bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và biến giả về trình độ phát triển của quốc
gia nhập khẩu (nước có mức thu nhập thấp, nước có mức thu nhập trung
bình thấp, nước có mức thu nhập trung bình cao, nước có mức thu nhập
cao). Simth cũng chứng minh được rằng việc tăng cường bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ ở nước ngoài có tác dụng kích thích xuất khẩu của Hoa Kỳ
sang các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, nhưng lại làm giảm
xuất khẩu của Hoa Kỳ sang các nhóm nước còn lại. Rafiquzzaman
(2002)22 sử dụng phương pháp tương tự để xây dựng 3 biến tương tác.
Những biến tương tác này là kết quả của sự tương tác giữa biến bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ và trình độ phát triển của quốc gia nhập khẩu (quốc
gia có mức thu nhập thấp, quốc gia có mức thu nhập trung bình, quốc gia
có mức thu nhập cao). Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, về mặt tổng thể,
việc tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài có tác dụng
kích thích xuất khẩu hàng chế biến của Canada sang tất cả các nhóm
nước.
Gần đây hơn, Yang và Huang (2009)23 sử dụng mô hình số liệu mảng
động để phân tích độ nhạy trong xuất khẩu của Đài Loan đối với bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ và khả năng bắt chước công nghệ. Kết quả nghiên
cứu cho thấy việc tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước nhập
khẩu có tác dụng kích thích xuất khẩu của Đài Loan. Điều đó cho thấy
hiệu ứng mở rộng thị trường lớn hơn hiệu ứng quyền lực thị trường trong
trường hợp của Đài Loan. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa khả năng bắt
chước và thương mại lại trái ngược với dự đoán về mặt lý thuyết. Falvey
và các cộng sự (2009)24 sử dụng mô hình số liệu mảng để
phân tích tác động của bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với
thương mại có xét đến trình độ phát triển, khả năng bắt
chước công nghệ và quy mô thị trường của nước nhập
khẩu. Kết quả của công trình nghiên cứu này cho thấy
hiệu ứng mở rộng thị trường lấn át hiệu ứng quyền lực thị
22 Rafiquzzaman, M., 2002, “The Impact of Patent Rights on International Trade: Evidence from Canada,” The Canadian Journal of Economics 35(2): 307-330.
23 Yang, C-H. and Huang, Y-J., 2009, “Do Intellectual Property Rights Matter to Taiwan’s Exports? A Dynamic Panel Approach,” Pacific Economic Review 14 (4): 555-578.
24 Falvey, R., Foster, N. and Greenaway, D.,2009, “Trade, Imitative Ability and Intellectual Property Rights,” Review of World Economics 145 (3): 373-404.
trường. Đối với những quốc gia có ít khả năng bắt chước
công nghệ, việc tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ sẽ dẫn
đến hiệu ứng mở rộng thị trường đối với hầu hết các ngành
công nghiệp. Đối với những quốc gia có khả năng cao về
bắt chước công nghệ thì kết quả lại khác nhau giữa các
ngành công nghiệp.
Trên cơ sở tổng quan tài liệu nghiên cứu, tác giả rút ra một số kết luận
sau đây. Một là, về mặt lý thuyết, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có tác động
đến thương mại. Tuy nhiên, việc tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
có tác dụng làm tăng hay giảm thương mại vẫn chưa rõ ràng, mà hoàn
toàn phụ thuộc vào sự tương tác giữa hiệu ứng mở rộng thị trường (làm
tăng thương mại) và hiệu ứng quyền lực thị trường (làm giảm thương
mại). Hai là, về mặt nghiên cứu thực nghiệm, việc tăng cường bảo hộ sở
hữu trí tuệ có tác động làm tăng hay giảm thương mại hoàn toàn phụ
thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Ba là, nếu nước nhập khẩu là nước
công nghiệp hoặc là nước có khả năng bắt chước công nghệ thì việc tăng
cường bảo hộ sở hữu trí tuệ ở các nước ngày thường có tác động làm tăng
thương mại. Ngược lại, nếu nước nhập khẩu là nước chậm phát triển thì
việc tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở những nước này thường
làm giảm thương mại. Bốn là, chúng ta rất khó có thể phán đoán được tác
động của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thương mại hàng thâm dụng
R&D (nghiên cứu và phát triển). Lý do là nhóm hàng này là nhóm hàng
rất khó bắt chước. Hơn nữa, nhà sản xuất thường lựa chọn việc cung cấp
những mặt hàng này cho thị trường nước ngoài thông qua đầu tư trực tiếp
nước ngoài hoặc cấp phép kinh doanh.