Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
LỊCH SỬ PHẬT VÀ BỒ TÁT
(Phan Thượng Hải)
Lịch sử Phật Giáo bắt đầu ở Ấn Độ. Từ Phật Giáo Nguyên Thủy sinh ra Phật Giáo Đại Thừa.
Đại Thừa gọi Phật Giáo Nguyên Thủy là Tiểu Thừa. Sau đó Bí Mật Phật Giáo (Mật Giáo) thành
lập nên Đại Thừa còn được gọi là Hiển Giáo. Mật Giáo truyền sang Trung Quốc lập ra Mật
Tông và sau đó truyền sang Nhật Bản là Chơn Ngôn Tông (Chân Ngôn Tông). Mật Giáo cũng
truyền sang Tây Tạng thành ra Kim Cang Thừa. Ngày nay những Tông Thừa nầy tồn tại trong
Phật Giáo khắp toàn thế giới.
Từ vị Phật có thật trong lịch sử là Thích Ca Mâu Ni Phật, chư Phật và chư Bồ Tát cũng có lịch sử
qua kinh điển và triết lý của Tông Thừa Phật Giáo.
Bố Cục
Phật Giáo Nguyên Thủy
Thích Ca Mâu Ni Phật (trang 2)
Nhân Gian Phật (Manushi Buddha) (trang 7)
Đại Thừa
Tam Thế Phật (trang 7)
Bồ Tát (trang 11)
Quan Tự Tại - Quan Thế Âm (Avalokiteshvara) (trang 18)
Tam Thân Phật (trang 28)
Báo Thân và Tịnh Độ (trang 33)
A Di Đà Phật và Tịnh Độ Tông (trang 35)
Bàn Thờ và Danh Hiệu (trang 38)
Kim Cang Thừa
Tam Thân Phật và Bồ Tát (trang 41)
Thiền Na Phật (Dhyana Buddha) (trang 42)
A Đề Phật (trang 45)
Nhân Gian Phật (Manushi Buddha) (trang 46)
Bồ Tát (trang 46)
Minh Vương (trang 49)
Hộ Pháp (trang 51)
Hộ Thần (trang 53)
Consort và Yab-Yum (trang 55)
Chơn Ngôn Tông và Mật Tông (trang 57)
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
Phật Giáo thành lập và bắt đầu với Thích Ca Mâu Ni Phật. Kinh điển của Phật Giáo Nguyên
Thủy (Tiểu Thừa) còn kể ra những vị Phật làm người (Nhân Gian Phật), giáo hóa chúng sanh
trong quá khứ và một vị Phật trong tương lai là Phật Di Lặc.
Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngày nay mọi người đều công nhận Thích Ca Mâu Ni Phật (Sàkyamuni Buddha) là vị Phật
(Buddha) độc nhất có thật trong lịch sử và là người sáng lập ra Phật Giáo.
Cuộc Đời của Đức Phật
*
Thích Ca Mâu Ni Phật tên là Siddharta Gautama (Tất Đạt Ta Cồ Đàm) sinh ở Lumbibi (Lâm Tỳ
Ni) của xứ Kapilvastu (Ca Tì La Vệ) của Ấn Độ, thuộc nước Nepal ngày nay khoảng 2500 năm
trước. Thời điểm của năm sanh có thể là năm 566 tr CN.
Cha cùa ngài là Vua Suddhodana (Tịnh Phạm), làm đầu của dòng Sàkya (Thích Ca), một
trong những bộ lạc ở Đông Bắc Ấn Độ vào thời đó.
Mẹ của ngài là Hoàng Hậu Maha Devi (Ma Da) chết 7 ngày sau khi sinh Siddharta.
Siddharta được em gái của Hoàng Hậu là bà Maha Prajpati (Ma ha ba xà ba đề) dưỡng nuôi.
Năm 16 tuổi, Thái Tử Siddharta kết hôn với Yasodhara (Da Du Đà La), một Công Chúa của
dòng Koliya. Hai người có một con trai là Rahula (La Hầu La).
Lúc đó Ấn Độ và Nepal theo đạo Bà La Môn với nhiều (4) đẳng cấp trong xã hội. Vùng nầy có
4 vương quốc: 2 vương quốc lớn là Kosala (Kiêu Tát La) với kinh đô là Sràvasti (Xá Vệ) và
Magadha (Ma Kiệt Đà) với kinh đô là Rajagrha (Vương Xá). Hai tiểu vương quốc khác là
Avanti và Vamsa.
*
Sau 29 năm là Thái Tử của Kapilvastu (Ca Tì La Vệ), Siddharta (Tất Đạt Ta), 29 tuổi, trốn ra
khỏi hoàng cung đi tu, sống như một người xin ăn (khất thực).
Siddharta khởi đầu đi Rajagrha (Vương Xá) và bắt đầu sống khổ hạnh (ascetic life) bằng
cách xin bố thí ở ngoài đường. Thủ hạ của Vua Bimbisara nhận ra ngài ở ngoài đường phố và
biết chí hướng của ngài nên về báo cáo do đó Vua Bimbisara (Tần Bà Sa La) muốn nhường ngai
vàng cho ngài tuy nhiên Siddharta (Tất Đạt Ta) từ chối nhưng hứa là sẽ thăm vương quốc
Magadha (Ma Kiệt Đà) của nhà vua trước tiên sau khi thành đạo.
Siddharta (Tất Đạt Ta) rời kinh đô Ràjagrha (Vương Xá) của Magadha và tu hành theo 2
vị thầy tu khổ hạnh. Sau khi đắc đạo từ Alara Kalama (A La La Ca Lam), Siddharta (Tất Đạt
Ta) không bằng lòng nên bỏ đi mặc dầu được Kalama chọn làm người thừa kế của mình. Sau đó
Siddharta làm học trò của Udaka Ramaputta (Ưu Đà La La Ma Tử), tuy nhiên rồi cũng bỏ đi mặc
dầu Siddharta đã đạt được bậc thiền quán tối cao và được Ramaputta chọn làm người thay thế.
Siddharta và 5 người khác, do Kondanna (Kiều Trần Như) cầm đầu, bắt đầu tu kiểu đầu
đà (austerities, self-mortification). Họ tìm giác ngộ bằng cách gần như nhịn đói hoàn toàn chỉ ăn
lá cây hay hạt dẻ. Siddharta (Tất Đạt Ta) gần chết chìm khi ngài bất tỉnh trong lúc đang tắm ở
một con sông. Từ đó Siddharta tìm đường lối tu khác.
Sau khi tu khổ hạnh hay thiền định hay anapanasati (tập thở), Siddharta (Tất Đạt Ta) khám phá
ra Trung Đạo (Middle Way). Siddharta ngồi dưới một cây Pipal, ngày nay được biết là cây Bồ
Đề ở Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng), tự nguyện là không đứng dậy cho đến khi tìm ra Chân Lý.
Sau 49 ngày Thiền Quán, Siddharta đạt được Giác Ngộ (Enlightenment). Lúc đó ngài được 35
tuổi. Trí tuệ của Siddharta từ đó quán triệt được Nhân Quả của sự đau khổ của nhân loại và
đường giải thoát. Đó là Tứ Diệu Đế (The Four Noble Truths).
Từ đó Siddharata (Tất Đạt Ta) được biết là Phật (Buddha). Phật là gọi tắt của Phật Đà và Phật
Đà là dịch âm của tiếng Phạn Buddha. Buddha dịch nghĩa là Giác Giả (Awakened One), có
nghĩa là “Người Giác Ngộ”.
Lúc đầu ngài có tên là Gautama Buddha (Cồ Đàm Phật) theo danh tánh của ngài (là Siddharta
Gautama). Cồ Đàm là dịch âm của Gautama (hay Gotama). Về sau ngài có tên khác là Thích Ca
Mâu Ni Phật (Sàkyamuni Buddha). Thích Ca là dịch âm từ dòng Sàkya của ngài, Mâu Ni có
nghĩa là “Trí giả thầm lặng”. Do đó Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là “Trí giả thầm lặng của dòng
Thích Ca”. Danh hiệu Cồ Đàm Phật ngày nay chỉ còn dùng trong Phật Giáo Nguyên Thủy mà
thôi.
*
Sau khi giác ngộ, 2 thương gia gặp Đức Phật tên là Tapussa và Bhallika là 2 người thế tục trở
thành đệ tử đầu tiên. Đức Phật sau đó đi đến vườn Lộc Uyển (Deer Park = Sarnath hay
Mrigadava) ở VaraGasi (hay Varanasi) gần Benares (ở Bắc Ấn Độ). Ngài chuyển Pháp Luân
bằng cách giảng Tứ Diệu Đế cho nhóm 5 người của Kondanna (Kiều Trần Như) mà khi xưa đã
từng tu kiểu đầu đà với mình và kết nạp họ để lập thành ra Tăng Già (Sangha).
Tăng Già là dịch âm của Sangha (tiếng Phạn) và dịch nghĩa là Tăng Đoàn, nghĩa là đoàn thể của
những tăng sĩ hay tu sĩ (monks). Sau đó Tăng Già có đến hàng ngàn người.
Khi nghe Đức Phật đã giác ngộ, vua Suddhodana (Tịnh Phạm) cho phái đoàn sứ giả của hoàng
gia đến thỉnh mời Đức Phật về Kapilavastu (Ca Tì La Vệ). Chín phái đoàn đi mà không trở về vì
mọi người (trong phái đoàn) đều ở lại và gia nhập Tăng Già và tu thành La Hán. Phái đoàn thứ
10 do Kaludayi, một người bạn lúc thiếu thời của Đức Phật, dẫn đầu cũng ở lại với Tăng Già và
tu thành La Hán. Về sau Vua Suddhodana phải mời Tăng Già đến hoàng cung ăn tiệc. Sau khi
được Đức Phật thuyết pháp, Vua qui y và trở thành Dự Lưu (Sotàpanna).
Cũng nhờ chuyến thăm nầy, từ đó trong hoàng tộc có một số gia nhập Tăng Già:
2 người em bà con (cousin) của Đức Phật là Ananda (A Nan Đà) và Anuruddha (A Na
Luật) trở thành 2 trong 5 đại đệ tử hàng đầu;
con của Đức Phật là Rahula (La Hầu La) nhập Tăng Già lúc 7 tuổi và sau nầy ở trong
hàng 10 đại đệ tử;
người em cùng cha khác mẹ là Nanda cũng gia nhập Tăng Già và sau nầy chứng quả La
Hán
và một người em bà con khác là Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) cũng nhập Tăng Già nhưng
sau đó thành kẻ thù và nhiều lần âm mưu sát hại Đức Phật.
Ngoài 5 đại đệ tử hàng đầu là Sariputta (Xá Lợi Phất), Mahamoggallana (Mục Kiền Liên),
Mahakasyapa (Ma Ha Ca Diếp), Ananda (A Nan Đà) và Anuruddha (A Na Luật) thì có 5 đại đệ
tử khác là Upali (Ưu Bà Li), Subhoti (Tu Bồ Đề), Rahula (La Hầu La), Punna (Phú Lâu Na) và
Mahakaccana (Ma Ha Ca Chiên Chiên).
Khi Đức Phật đang ở Mahavana thì được tin là Vua Suddhodana (Tịnh Phạm) sắp qua đời, Đức
Phật liền đến gặp cha của mình và thuyết pháp nhờ đó Vua Suddhodana (Tịnh Phạm) thành La
Hán trước khi chết.
Sau đó mẹ nuôi của Đức Phật là bà Maha Pajapati (Ma Ha Ba Xà Ba Đề) muốn đi tu gia nhập
Tăng Già nhưng Đức Phật lưỡng lự chưa chấp thuận và rời Kapilavastu (Ca Tì La Vệ) về
Rajagrha (Vương Xá). Maha Pajapati liền dẫn những hoàng nữ của dòng Sàkya và Koliya theo
Tăng Già về Rajagrha. Cuối cùng Đức Phật cũng nhận phụ nữ vào Tăng Già (5 năm sau khi
Tăng Già thành lập) vì họ cũng có căn cơ và khả năng giác ngộ ngang hàng với nam giới nhưng
Đức Phật có thêm giới luật cho nữ giới. Việc nầy xảy ra nhờ thỉnh cầu của Ananda (A Nan Đà).
Vợ của Đức Phật là bà Yasodhara (Da Du Đà La) cũng đi tu làm Tỳ Khưu Ni và sau đó chứng
quả La Hán như Ananda.
*
Trong khi ở trong Tăng Già, Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) có thử Đức Phật bằng cách yêu cầu ngài
đừng lãnh đạo Tăng Già nữa nhưng Đức Phật từ chối vì cho là yêu cầu đó không căn cứ trên
Tam Bảo mà chỉ từ cá nhân của Devadatta mà thôi. Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) lại âm mưu với
Hoàng Tử Ajatasattu, con của Vua Bimbisara (Tần Bà Sa La) để giết và lật đỗ Đức Phật và Vua
Bimbisara. Devadatta có 3 lần âm mưu sát hại Đức Phật. Lần đầu, những xạ thủ được mướn sau
khi gặp Đức Phật lại trở thành đệ tử của ngài. Lần thứ nhì, Devadatta đẩy một tảng đá lớn lăn
xuống núi để giết Đức Phật nhưng nó lại đụng một tảng đá khác nên đổi hướng và không trúng
Đức Phật. Lần thứ ba, Devadatta cho một con voi uống rượu để say và nổi điên lên mà tấn công
Đức Phật nhưng cũng thất bại. Cuối cùng Devadatta muốn gây chia rẽ trong Tăng Già bằng cách
đề nghị thêm giới luật khắc khổ hơn. Khi Đức Phật từ chối, Devadatta vận động một số Tỳ
Khưu tách ra khỏi Tăng Già viện lý do là Đức Phật quá dễ dãi. Sariputta (Xá Lợi Phất) và
Mahamoggallana (Mục Kiền Liên) thuyết phục được các Tỳ Khưu nầy trở lại.
Đến khi 55 tuổi Đức Phật cần người hầu cận là Ananda (A Nan Đà). Trong 45 năm, Đức Phật đã
đi khắp 4 vương quốc của vùng bình nguyên sông Hằng Hà qua Ràjagrha (Vương Xá), Sàvatthi
(Xá Vệ) và Vaisàlì (Phệ Xá Lị) … hiện nay là những vùng Uttar, Pradesh, Bihar và nam Nepal.
Ngài dạy giáo lý và giới luật cho rất nhiều hạng người.
Đức Phật lập Tăng Già (Community of monks and nuns) để tiếp tục Phật Giáo sau khi ngài nhập
Niết Bàn. Tôn giáo của ngài mở rộng cho mọi giống và hạng người. Có 4 loại người tu: Tỳ
Khưu (Nam Tăng Sĩ) và Tỳ Khưu Ni (Nữ Tăng Sĩ) trong Tăng Già còn Ưu Bà Tắc (Nam Cư Sĩ)
và Ưu Bà Li (Nữ Cư Sĩ) thì tu tại gia.
Đức Phật có những Ưu Bà Li đáng kể là vua Bimbisara (Tần Bà Sa La) của vương quốc
Magadha (Ma Kiệt Đà) và vua Ba Tư Nặc của vương quốc Kosala (Kiều Tát La). Vua
Bimbisara dâng cúng cho Tăng Già Tịnh Xá Veluvana (Trúc Lâm) ở kinh đô Ràjagrha (Vương
Xá). Một người giàu và cũng là đệ tử tại gia ở kinh đô Xá Vệ của Kosala (Kiều Tát La) là
Anathapindika (Cấp Cô Độc) mua lại ngôi vườn của hoàng tử Kỳ Đà (con vua Ba Tư Nặc) và
làm thành Tịnh Xá Jetavana (Kỳ Viên) để dâng cúng cho Tăng Già. Tương truyền rằng sau khi
mua lại ngôi vườn, Ananthapidika cho lát 1.5 triệu miếng vàng để làm thành Tịnh Xá Jetavana.
*
Đức Phật thọ khoảng 80 tuổi. Khi qua đời, Đức Phật bảo đệ tử chỉ tuân theo Phật Pháp là những
điều dạy dỗ của ngài chứ không tuân theo một vị lãnh đạo nào hết.
Theo Đại Niết Bàn Kinh (Mahàparinibbàna-sutra), năm 486 (hay 483) tr CN, Đức Phật qua đời
tại cánh rừng Sala ở nam thành phố Kusinagara (Câu Thi Na) của bộ tộc Malla: trong đêm tối
tĩnh mịch Đức Phật nằm nghiêng bên hữu đầu hướng về phương Bắc mặt hướng về phương Tây
thông qua các mức thiền định trong trạng thái giải thoát hoàn toàn (khỏi) khổ đau của cuộc sống.
Lời cuối cùng của Đức Phật là: “Tất cả pháp hữu vi đều vô thường chịu biến hoại, hãy tinh tiến
tu học để giải thoát”.
Trong buổi hỏa thiêu thân xác của ngài có nhiều chuyện lạ xảy ra. Xá Lợi của Đức Phật được
chia làm 8 phần và để trong nhiều ngôi tháp.
Sariputta (Xá Lợi Phất) và Mahamoggallana (Mục Kiền Liên) đều chết trước Đức Phật.
*
Ba tháng sau khi Đức Phật qua đời, các đệ tử tổ chức kỳ Kiết Tập thứ nhất để bảo tồn giáo huấn
của ngài.
Mahakasyapa (Ma Ha Ca Diếp) được chọn làm đầu.
Một trong những đệ tử (tất cả là 500 người) là Ananda (A Nan Đà), nổi tiếng là có trí nhớ
tốt, được chọn để tụng lại tất cả những lời giáo huấn của Đức Phật làm thành Kinh Tạng
(Sutrapikata).
Upali (Ưu Bà Li) tụng những giới luật lập thành Luật Tạng (Vinayapikata).
Purna (Phú Lâu Na) trả lời những câu hỏi về những điều giảng dạy của Đức Phật, sau nầy
thành ra Luận Tạng (Abdhidammapikata).
Sau đó có 2 kỳ Kiết Tập 100 và 236 năm sau kỳ thứ nhất nầy.
Thần Thoại về Đức Phật
*
Từ Kinh Tạng (Sutrapikata), có nhiều chuyện thần thoại về Đức Phật.
Bản Sinh Kinh (Jàtaka) là phần lớn nhất của Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka-nikàya), gồm 547 bài.
Kinh nầy kể lại sự tích các tiền kiếp của Phật Thích Ca, nói về các đệ tử và những người chống
đối Đức Phật và chỉ rõ cái Nghiệp (Karma) đời trước đóng vai trò trong đời nay. Nhiều truyện
trong Bản Sinh Kinh là truyện cổ Ấn Độ có trước cả đời Đức Phật nhưng phù hợp với nội dung
cuốn kinh nên được đưa vào. Phần lớn những câu chuyện đó có những bài kệ và chính các câu
kệ mới là tinh hoa của kinh nầy. Các tập truyện nầy trở thành nguồn cảm hứng của nhiều tranh
tượng trong đền chùa Phật Giáo và thường được quần chúng Đông Nam Á ưa thích.
Một truyện gây nhiều tranh cãi là truyện Hoàng tử Vessantara (kiếp trước của Siddharta). Vì
không ích kỷ, Hoàng tử Vessantara đã cho con của mình rồi vợ của mình cho những người Bà La
Môn không nhà cửa. Dư luận cũng giảm đi khi theo trong truyện một trong những người Bà La
Môn nầy là Đại Tự Tại Thiên (Indra) giả ra để thử lòng đại lượng của Hoàng Tử Vessantara. Đại
Tự Tại Thiên là một vị Thần của Ấn Độ Giáo.
Theo Kinh Tạng thì khi có thai, Mẹ của Đức Phật nằm mơ thấy một vị Bồ Tát với dạng con voi
trắng vào bụng mình. Khi sinh ra từ bên hông phải của mẹ, Đức Phật đi 7 bước một tay chỉ lên
trời và một tay chỉ xuống dưới đất mà nói rằng: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” (Trên
trời dưới trời chỉ có mình ta), và dưới mỗi bước chân hiện ra một đóa hoa sen. Thật ra theo
Trường Bộ Kinh (Pìghanikàya), câu nói của Đức Phật dịch ra chữ Hán là: “Thiên thượng thiên
hạ duy ngã độc tôn, nhất thiết thế gian sinh lão bệnh tử”. Thượng Tọa Thích Thiện Hoa dịch
thẳng từ tiếng Phạn ra chữ Quốc Ngữ là: “Trên trời dưới đất, kiếp nầy là kiếp cuối cùng, Như Lai
đoạn diệt gốc rể sinh tử”.
Cũng theo truyền thuyết khi Siddharta (Tất Đạt Ta) ngồi Thiền Quán trong 49 ngày ở dưới cây
Bồ Đề, ngài phải chống lại sự cám dỗ và tấn công của Ma Vương (Mara). Trước hết Ma Vương
cho 3 người con gái đem sắc đẹp đến dụ dỗ rồi cho ma quỷ đến quấy phá và làm gió, mưa bão…
để tấn công. Tất cả đều thất bại và Siddharta giác ngộ thành Phật.
*
Theo nhiều Kinh, Đức Phật có 32 tướng tốt (từ lòng từ bi) gọi là Tam Thập Nhị Hảo Tướng
(Dvatrimsadvara-laksana). 32 Tướng Tốt nầy có trong những kinh của Tiểu Thừa như Trung A
Hàm Tam Thập Nhị Tướng Kinh, Trường Bộ Kinh, Niết Bàn Kinh. Bộ Bát Nhã Kinh của Đại
Thừa cũng nói đến. Về sau 32 tướng tốt nầy cũng dùng cho chư Phật chư Bồ Tát và các Chuyển
Luân Pháp Vương (Cakravàti-ràja) của Mật Giáo. Các tên Hán Việt ít dùng khác của 32 tướng
tốt là Tam thập nhị đại nhơn tướng, Tam thập nhị đại trượng phu tướng, và Đại nhơn tam thập
nhị tướng.
32 Tướng Tốt:
(1) Lòng bàn chân bằng phẳng, (2) Bàn chân có bánh xe ngàn cánh, (3) Ngón tay thon
dài, (4) Gót chân rộng, (5) Ngón tay ngón chân cong lại, (6) Tay chân mềm mại, (7) Sống chân
cong lên, (8) Thân người như con sơn dương, (9) Tay dài quá gối
(10) Nam căn ẩn kín, (11) Thân thể mạnh mẽ, (12) Thân tỏa màu vàng ròng, lông tóc
xanh biếc, (13) Lông tóc hình xoáy, (14) Thân thể vàng rực, (15) Thân phát ánh sáng, (16) Da
mềm, (17) Tay vai và đầu tròn, (18) Hai nách đầy đặn, (19) Thân người như sư tử
(20) Thân thẳng, (21) Vai mạnh mẽ, (22) Có bốn mươi cái răng, (23) Răng đều đặn, (24)
Răng trắng, (25) Hàm như sư tử, (26) Nước miếng có chất thơm ngon, (27) Lưỡi rộng, (28)
Giọng nói như Phạm thiên (Brahma), (29) Mắt xanh trong
(30) Lông mi như bị rừng, (31) Lông xoáy giữa hai chân mày (bạch hào), (32) Chóp nổi
cao trên đỉnh đầu
Ngoài ra Phật (và Bồ Tát) cũng có 80 Vẻ Đẹp gọi là Bát Thập Chủng Hảo hay Bát Thập Tùy
Hình Hảo (Asìty-anuvyanjanàni). 80 Vẻ Đẹp được bắt đầu từ Thuyết Nhất Hữu Bộ của Tiểu
Thừa nhưng đều có trong nhiều kinh Đại Thừa. Nó được kể đầy đủ trong Phật Bản Hạnh Tập
Kinh (Abhiniskramana-sutra) và Phật Quang Từ Điển.
(Cồ Đàm Phật) (Thích Ca Mâu Ni Phật)
Nhân Gian Phật (Manushi Buddhas)
Kinh Tạng (Trường Bản Kinh) của Phật Giáo Nguyên Thủy đã có kể tên tất cả 25 đức Phật từ
quá khứ đến hiện đại trong thế giới Ta Bà nầy bắt đầu từ Định Quang Phật / Nhiên Đăng Phật
(Dìpankara hay Dapankara) cho đến Cồ Đàm Phật / Thích Ca Mâu Ni Phật (Gautama /
Sàkyamuni). Phật Giáo đều gọi là Thích Ca Mâu Ni Phật (Sàkyamuni) nhưng Phật Giáo Nguyên
Thủy còn gọi là Cồ Đàm Phật (Gautama hay Gotama).
Đây là những Nhân Gian Phật hay Nhân Thế Phật (Manushi Buddhas) tức là những Đức Phật
làm người của thế gian (Thế Giới Ta Bà).
25 tên bằng chữ Pali (chữ Phạn trong dấu ngoặc):
(1) Dìpankara (Dìpankara)=Nhiên Đăng Phật (còn gọi là Định Quang Phật)
(2) Kondanna, (3) Mangala, (4) Sumana, (5) Revata, (6) Sobhita, (7) Anomadassin, (8)
Paduma, (9) Nàrada, (10) Padumuttara, (11) Sumedha, (12) Sujàta, (13) Piyadassin, (14)
Atthadassin, (15) Dhammadassin, (16) Siddhatha, (17) Tissa, (18) Phussa,
(19) Vipassin (Vipasyin), (20) Sikhin (Sikhin), (21) Vessabhù (Visabhu), (12)
Kakusandha (Krakucchanda), (23) Konàgamana (Kanakamuni), (24) Kassapa (Kàsyapa)
và (25) Gautama (Sàkyamuni).
Có tài liệu khác từ Phật Giáo Nguyên Thủy kể thêm 3 đức Phật trước Nhiên Đăng Phật (bằng
chữ Pali) = Tanhankara, Medhankara và Saranankara.
Ngoài 27 Phật quá khứ kể trên, Phật Giáo Nguyên Thủy cũng công nhận Di Lặc Phật (Metteya)
là Phật tương lai sẽ xuất hiện sau Phật hiện tại là Cồ Đàm Phật/Thích Ca Mâu Ni Phật.
Chùa A Nan Đà của Phật Giáo Nguyên Thủy ở Myanmar thờ Cồ Đàm Phật (Gautama) chung với
3 Phật quá khứ cận đại là: Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda), Câu Na Hàm Mâu Ni Phật
(Kanakamuni) và Ca Diếp Phật (Kàsyapa). Bốn vị Phật nầy cùng ở (Thế) Hiền kiếp cũng như Di
Lặc Phật (Metteya) sau nầy.
PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
Tam Thế Phật
Đại Cương
Theo thời gian, Phật Giáo Đại Thừa có nói đến tiểu sử của 5 đức Phật Quá Khứ Cận Đại lần lượt
xuất hiện trên thế gian nầy (thế giới Ta Bà) cho đến đức Phật hiện đại có thật trong lịch sử là
Thích Ca Mâu Ni Phật (Sàkyamuni). Đức Phật quá khứ cuối cùng trước Thích Ca Mâu Ni Phật
là Ca Diếp Phật. Như vậy đây là 5 vị Nhân Gian Phật trong quá khứ cận đại:
1. Tỉ Bà Thi Phật (Vipasyin)
2. Thi Khí Phật (Sikhin)
3. Tỉ Xá Phù Phật (Visabhu)
4. Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda)
5. Câu Na Hàm Mâu Ni Phật (Kanakamuni)
6. Ca Diếp Phật (Kàsyapa)
Trở về quá khứ, Phật Giáo Đại Thừa công nhận 24 Phật quá khứ bắt đầu từ Nhiên Đăng Phật và
cũng như Phật Giáo Nguyên Thủy, Đại Thừa cũng công nhận:
Đức Phật Hiện Tại là Thích Ca Mâu Ni Phật (Sàkyamuni)
Đức Phật Tương Lai là Di Lặc Phật (Maitreya)
Về sau theo Phật Giáo Đại Thừa thì có vô số đức Phật (như cát của sông Hằng Hà) nên mới có
Tam thế tam thiên Phật:
Nhiên Đăng chư Phật: 1000 Phật ở quá khứ Trang Nghiêm kiếp
Thích Ca chư Phật: 1000 Phật ở hiện tại Thế Hiền kiếp
Di Lặc chư Phật: 1000 Phật ở tương lai Tinh Túc kiếp.
Ba vị Phật Nhiên Đăng, Thích Ca và Di Lặc là 3 đại biểu của Tam Thế tam thiên Phật. (Tam
thiên = 3000 và Thế = thế gian, thế giới theo thời gian).
Nhiên Đăng Phật (Dìpankara = Dìpankara)
Theo quyển 9 của Trí Độ Luận ghi rằng:
Thuở bình sinh ngài có toàn thân sáng lóng lánh như những ngọn đèn nên có tên là Nhiên
Đăng và khi thành Phật cũng lấy tên nầy. Do đó Nhiên Đăng Phật còn được gọi là Định Quang
Phật.
Thụy Ứng Kinh (Sanghata Sutra), thuộc Bản Sinh Kinh (Jakata), cũng có kể nguồn gốc của
Nhiên Đăng Phật:
Khi Thích Ca (Phật) trong 1 tiền kiếp là 1 cậu bé tên là Nhu Cầu (Sumedho) ngài đã dùng
nhiều tiền để mua bông (sen xanh) từ 1 cô gái đem cúng phật Nhiên Đăng. Ngài còn cỡi áo phủ
lên vũng bùn rồi còn mở đầu tóc lấy tóc trải lên bùn và trân trọng mời Nhiên Đăng bước qua (áo
và tóc của mình). Phật Nhiên Đăng tiên đoán rằng cậu bé nầy sẽ thành Phật hiệu là Cồ Đàm
(Gautama) sau 91 kiếp. Lúc đó cậu sẽ sanh trong dòng họ Thích Ca (Sàkya) có đệ tử là Xá Lị
Phất (Sariputta) và Mục Kiền Liên (Moggallana) và hầu cận là A Nan Đà (Ananda).
Di Lặc Phật (Maitreya = Metteya)
*
Sự tích Di Lặc Phật được nói đến trong Di Lặc Thành Phật Kinh (Cưu Ma La Thập dịch), Di Lặc
Hạ Sinh Kinh (Pháp Hộ dịch) và Di Lặc Bồ Tát Thượng Thăng Đâu Suất Kinh.
Di Lặc là dịch âm của Maitreya và Maitreya dịch nghĩa là Từ Thị (có lòng từ bi). Maitreya từ
Maitri (chữ Phạn/Sanskrit) hay Metteya từ Metta (chữ Pali) có nghĩa là “hiền từ tử tế” Theo tiểu
sử từ trong Kinh, ngài có họ là Maitreya và tên là Ajita (A Dật Đa) có nghĩa là Vô Năng Thắng
(=không ai bằng). Ngài xuất thân trong 1 gia đình Bà La Môn ở thôn Kiếp Ba Lợi ở Nam Thiên
Trúc và tu hành nhiều kiếp thành Bồ Tát hiện đang ngự ở Trời Đâu Suất (Tusita Heaven).
Theo truyền thống Phật Pháp có 3 thời kỳ: thời kỳ thứ nhứt là thời kỳ “Chuyển Pháp Luân”
(Turning the Wheel of the Law); thời kỳ thứ nhì là thời kỳ Suy Pháp và thời kỳ thứ ba là thời kỳ
Mạt Pháp không còn ai thực hành Phật pháp. Sau đó một vị Phật mới sẽ xuất hiện để lại “chuyển
Pháp Luân”. Vị Phật tương lai đó (người nối theo Phật Thích Ca Mâu Ni) là ngài Di Lặc hiện
còn là Bồ Tát đang ở Đâu Suất Thiên. Như dự đoán ngài Di Lặc sẽ giáng trần và thành Phật để
hóa độ thế giới nầy như Phật Thích Ca.
*
Tương truyền rằng ngài Vô Trước (Asanga), một Luận Sư nổi danh của Ấn Độ, dùng sức thần
thông lên cung trời Đâu Suất để nghe Bồ Tát Di Lặc giảng giáo lý Đại Thừa. Sau khi nghe giảng
xong ngài lại thỉnh Bồ Tát Di Lặc xuống hạ giới ngự tại giảng đường thuộc nước A Du Đà
(Ayodhya) ở Trung Ấn. Trong 1 khoảng thời gian cở 4 tháng cứ về ban đêm thì ngài nghe Bồ
Tát Di Lặc thuyết pháp rồi ban ngày ngài lại đem những điều nghe được giảng lại cho đại chúng.
Do đó phần trước tác Du Già Sư Địa Luận nầy của ngài quan hệ mật thiết với Bồ Tát Di Lặc.
Hiện đại, các sử gia cho là có một người cũng tên là Di Lặc (Maitreya hay Maitreyanàtha), sinh
sống vào khoảng năm 270-350, giúp ngài Vô Trước trước tác Du Già Sư Địa Luận
(Yogàcàrabhùmi-sastra) chứ không phải là Di Lặc Phật.
(Di Lặc Phật ở Lạc Sơn, Tứ Xuyên)
*
Bên Trung Quốc cũng có truyền thuyết về Di Lặc Phật (có khi đọc là Di Lạc):
Thời Hậu Lương của Ngũ Đại Tàn Đường theo Tống Cao Tông Truyện thì ở Phụng Hóa, Triết
Giang có hòa thượng Khế Thử (hay Khiết Thử) mập và lùn, bụng rất to, vác 1 cây gậy trúc trên
đó có buộc 1 cái túi vải lớn đi hành khất khắp nơi. Vật xin được thì bỏ cả vào túi vải lớn nên
người đương thời gọi là Bố Đại Hòa Thượng. Ông có ngôn ngữ và hành vi không câu nệ tiểu
tiết. Ông có thể dự đoán nắng mưa hay lành dữ. Ông thường nói “Chỉ có tâm Phật là vật quí giá
của thập phương thế giới. Nó rất diệu dụng có mặt ở khắp mọi nơi cứu vớt chúng sinh đáng
thương. Tất cả không gì quí bằng tâm chân thật… Vạn pháp nào có khác tâm tại sao ta không đi
tìm nghĩa của kinh”. Ông luôn tươi cười nên còn được gọi là Tiếu Di Lạc hay Tiếu Phật
(Lauging Buddha).
Năm Trinh Minh thứ 2 đời Hậu Lương (916), ông ngồi trên 1 phiến đá phía đông của chùa Nhạc
Lâm tụng rằng:
(Dịch)
Di Lặc chân Di Lặc Di Lặc thiệt (là) Di Lặc
Phân thân thiên vạn ức Phân thân ngàn vạn ức
Thời thời thị thời nhân Lúc lúc thấy người cùng lúc
Thời nhân tự bất thức Người cùng lúc tự mình không biết
Tụng xong ông vui vẻ viên tịch. Mọi người mới nhận rằng ông là hóa thân của Phật Di Lặc.
Tuy câu chuyện không đúng với truyền thống nhưng hình tượng Tiếu Di Lặc trở thành phổ
thông.
(Tiếu Di Lặc)
Bồ Tát
Đại Cương
Bồ Tát là gọi tắt của Bồ Đề Tát Đóa.
Bồ Đề Tát Đóa là dịch âm của Bodhisattva
Phật Giáo Nguyên Thủy chỉ có Phật Thích Ca và coi những kiếp trước của Phật Thích Ca là Bồ
Tát. Phật Giáo Nguyên Thủy cũng coi vị Phật tương lai Di Lặc bây giờ vẫn chưa thành Phật,
đang ở Đâu Suất Thiên và đang là Bồ Tát. Như vậy theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Bồ Tát là gần
thảnh Phật nhưng còn phải tu nhiều kiếp nữa mới thành Phật.
Theo Phật Giáo Đại Thừa, Bồ Tát (Bodhisattva) là danh hiệu của những vị tu hành Phật Giáo đã
Giác ngộ nhưng còn Giác tha tức là hóa độ tha nhân (các loài hữu tình chúng sinh) được giác ngộ
như mình, do đó chưa Giác hạnh viên mãn, còn kém Phật một bậc. Phật (Buddha) là bậc Giác
hạnh viên mãn. Bồ Tát phải tu thêm nhiều kiếp nữa bằng cách Giác tha để sẽ đạt Giác hạnh
viên mãn (mà) thành Phật.
Bồ Tát của Phật Giáo là sáng tạo của Phật Giáo Đại Thừa, còn có tên là Bồ Tát Thừa. Muốn
hiểu rõ Bồ Tát, ta phải hiểu biết thông thạo Đạo Đế và Diệt Đế của Đại Thừa (Bồ Tát Thừa). Nó
gồm có Tam Thừa, Niết Bàn, Thập Độ (thành Phật Quả) và Phát Bồ Đề Tâm (trước khi tu Thập
Độ).
Bồ Tát Thừa
*
Tam Thừa và Đại Thừa (Bồ Tát Thừa)
Tam Thừa = 3 Vehicles = 3 Yànas
Thừa = Thặng = Cỗ Xe, ám chỉ Đạo Đế của Phật Giáo
Phật Giáo Đại Thừa xuất hiện vào Thế kỷ thứ 1 tr CN khi có Kinh Pháp Hoa (của Phật Giáo Đại
Thừa) khởi xướng thuyết Tam Thừa cho rằng có 3 "Cỗ xe" đưa tới Niết Bàn:
Tiểu Thừa (Hìnayàna) là Thanh Văn Thừa (Sràvaka-yàna): tự giác ngộ nhờ giáo hóa trực
tiếp của Phật Thích Ca với đắc quả cao nhất là La Hán (Arhat) hay Thanh Văn (Sràvaka).
Trung Thừa (Madhyamàyàna) là Độc Giác Thừa (Pratyekabuddha-yàna): tự mình tu Phật
Pháp mà tự giác ngộ đắc quả cao nhất là Độc Giác Phật (hay Bích Chi Phật).
Đại Thừa (Mahàyàna) là Bồ Tát Thừa (Bodhisattva-yàna): tự giác ngộ và giác tha để giác
hạnh viên mãn, đắc quả cao nhất là Phật (Buddha) hay Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
(Anuttarasamyak-sambodhi).
Áp dụng Đại Thừa (Bồ Tát Thừa), Phật Giáo Đại Thừa thành lập vào Thế kỷ thứ nhất tr CN và
tự nó dùng từ ngữ "Tiểu Thừa" để gọi Phật Giáo Nguyên Thủy ở Ấn Độ là Phật Giáo từ thời Phật
Thích Ca cho tới lúc đó.
Phật Giáo Nguyên Thủy (Phật Giáo Tiểu Thừa):
Diệt Đế: Diệt hết Khổ (Phiền não) trong Sinh Lão, Giải thoát khỏi Tái sinh Luân Hồi và
đạt Niết Bàn (thành La Hán).
Đạo Đế: La Hán tu hành theo Phàm Vị (Bát Chánh Đạo) mà toàn hảo Giới Định Tuệ và
rồi tu hành theo Thánh Vị mà đạt Tâm đoạn diệt (Chánh Trí) nên được Chánh Giải thoát mà đạt
Niết Bàn.
Tuệ là Chánh Kiến Tập Đế của Phật Giáo Nguyên Thủy
Chánh Trí là Tâm đoạn diệt tất cả: Tà Kiến, Tham Ái, Sân, Si, Mạn và Phóng dật.
(Đạo Đế Tiểu Thừa = La Hán Đạo = Phàm Vị / Bát Chánh Đạo + Thánh Vị).
Phật Giáo Đại Thừa:
Diệt Đế: Diệt hết Khổ (Phiền não) trong Sinh Lão, Giải thoát khỏi Tái sinh Luân Hồi và
đạt Niết Bàn (thành bậc Đại Tuệ Giác Ngộ). Nhưng bậc Đại Tuệ Giác Ngộ thi hành Đại Từ Bi
mà Giác Tha (hóa độ Chúng Sanh giác ngộ như mình) nên còn hy sinh chịu Tái sinh Luân Hồi
cho đến khi Giác Hạnh Viên Mãn mà thành Phật. Bậc Đại Tuệ và thi hành Đại Từ Bi (trước khi
thành Phật) là Bồ Tát.
Đạo Đế: Bậc Đại Tuệ giác ngộ toàn hảo 6 Ba La Mật Đa là Lục Độ (của Pháp Hoa Kinh)
hay 6 Ba La Mật Đa đầu của Thập Độ (của Hoa Nghiêm Kinh). Bậc Đại Từ Bi giác tha bằng 3
Ba La Mật Đa kế tiếp trong Thập Độ của Hoa Nghiêm Kinh mà đạt Trí Ba La Mật Đa (Ba La
Mật Đa thứ 10 của Thập Độ) thành bậc Giác Hạnh Viên Mãn. Bậc Đại Tuệ giác ngộ Tập Đế của
Đại Thừa.
(Đạo Đế và Diệt Đế truyền thống của Đại Thừa là Bồ Tát Thừa, dựa trên Pháp Hoa Kinh và Hoa
Nghiêm Kinh mà tu thành Phật Quả).
*
Niết Bàn
Khi Chúng sanh "đạt" Niết Bàn là hết Phiền não Khổ đau và thoát khỏi Tái sinh Luân Hồi. Phật
Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa đều đồng ý quan niệm nầy. Bậc La Hán và Phật Thích Ca (của
Phật Giáo Nguyên Thủy); và bậc Giác Ngộ và Phật (của Phật Giáo Đại Thừa) đạt Niết Bàn.
Đại Thừa nhấn mạnh là Hành giả phải trải qua rất nhiều kiếp mới đạt được Giác Ngộ (Đại Tuệ)
rồi trải qua nhiều kiếp nữa hoàn thành Giác Tha (Đại Từ Bi). Thí dụ điển hình là Phật Thích Ca
với nhiều kiếp được kể trong Bản Sinh Kinh (thuộc Tam Tạng Kinh của Phật Giáo Nguyên
Thủy).
Quan niệm về "nhập" Niết Bàn có khác biệt giữa Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa. Bồ Tát
Đại Từ Bi, khác với La Hán với Tâm Đoạn Diệt, có thể thoát khỏi Luân Hồi nhưng Bồ Tát ở lại
trong Luân Hồi để hóa độ Chúng Sanh.
Sư Thế Thân (Vasubandhu) của Đại Thừa có nói rằng:
"Trải qua Đại Tuệ (Great Wisdom) không có tồn tại trong Sinh Tử (Luân Hồi); trải qua
Đại Từ Bi (Great Compassion) không có tồn tại trong Niết Bàn".
*
Thập Độ
3 giai đoạn của Phật Quả trong Thập Độ:
Giác Ngộ (Đại Tuệ=Đại Bát Nhã):
1. Bố Thí Ba La Mật Đa (Dàna-pàramità):
2. Giới Ba La Mật Đa (Sìla-pàramità):
3. Nhẫn Ba La Mật Đa (Ksànti-pàramità):
4. Tinh Tiến Ba La Mật Đa (Vìrya-pàramità):
5. Thiền Định Ba La Mật Đa (Dhyàna-pàramità):
6. Tuệ (Huệ) Ba La Mật Đa (Prajnà-pàramità):
Giác Tha (Đại Từ Bi):
7. Phương Tiện Ba La Mật Đa (Upàya-pàramità):
8. Nguyện Ba La Mật Đa (Pranidhàna-pàramità):
9. Lực Ba La Mật Đa (Bala-pàramità):
Giác Hạnh Viên Mãn (Phật):
10. Trí Ba La Mật Đa (Jnàna-pàramità):
Bồ Tát là bậc đã xong Giác ngộ và đang "toàn hảo" Giác Tha. Phật là bậc đã xong Giác tha
thành Giác hạnh viên mãn.
Toàn Hảo = Perfection = Paramita (Sanskrit) = dịch âm là Ba La Mật Đa.
3 Ba La Mật Đa của Bồ Tát Đại Từ Bi Giác tha gồm có:
7. Phương Tiện Ba La Mật Đa (Upàya-pàramità): Sự toàn hảo trong lúc dùng các phương
tiện thiện xảo cho Đại Từ Bi. Phương Tiện Thiện Xảo (Skillful Means = Upàya) là Bậc Giác
Ngộ biết cách dùng Lục Độ hay 6 Ba La Mật Đa của mình như là phương tiện để thi hành Đại
Từ Bi tức là hóa độ Chúng sanh đạt Giác ngộ như mình.
8. Nguyện Ba La Mật Đa (Pranidhàna-pàramità): Lòng quyết tâm ý nguyện thực hiện
toàn hảo Đại Từ Bi. Đó là Bồ Tát Hạnh Nguyện (Bodhisattva's Vows=Pranidhàna).
Bồ Tát Hạnh Nguyện (Bodhisattva's Vows/Pranidhàna). Có 4 Đại Nguyện:
Vị độ giả, linh độ (Ai chưa hoàn hảo thì khiến được hoàn hảo)
Vị giải giả, linh giải (Ai chưa giải thoát thì khiến được giải thoát)
Vị an giả, linh an (Ai chưa được an thì khiến được an)
Vị Niết Bàn giả, linh Niết Bàn (Ai chưa được Niết Bàn thì khiến được Niết Bàn).
9. Lực Ba La Mật Đa (Bala-pàramità): Sự toàn hảo của năng lực, vượt qua mọi chướng
ngại, dùng cho Đại Từ Bi.
*
Bồ Đề Tâm
(Mind of Awakenning or Enlightenment = Bodhicitta)
Bodhi: dịch âm là Bồ Đề, dịch nghĩa là Giác Ngộ (Awakenning or Enlightenment).
Bồ Đề Tâm dịch nghĩa đen là Tâm Giác Ngộ (Awakenning or Enlightenment Mind). Đó là Tâm
Đại Từ bi muốn tự mình đạt Giác ngộ để hóa độ Chúng Sinh đạt Giác ngộ (như mình).
Hành giả thực hành được Bồ Đề Tâm chính là bậc Bồ Tát và thực hành qua con đường Bồ Tát
Thừa.
Do đó khởi đầu Bồ Tát Thừa, hành giả phải "Phát Bồ Đề Tâm" (Aspiration of Bodhicitta =
Bodhicittotpàda). Phát Bồ Đề Tâm bằng Tứ Hoằng Nguyện Thệ:
1. Chúng sinh vô biên, thệ nguyện độ. Ấy lấy Khổ Đế làm duyên mà phát thệ.
2. Phiền não vô số, thệ nguyện đoạn. Ấy là lấy Tập Đế làm duyên mà phát thệ.
3. Pháp môn vô tận, thệ nguyện học. Ấy là lấy Đạo Đế làm duyên mà phát thệ.
4. Phật đạo vô thượng, thệ nguyện thành. Ấy là lấy Diệt Đế làm duyên mà phát thệ.
Tứ Đại Bồ Tát
Theo Hành Nguyện Phẩm (Gandavyuha) của Hoa Nghiêm Kinh (Avatamsaka sutra), cậu bé
Thiện Tài (Sudhana) phát nguyện đi tìm Tâm Bát Nhã tu hành thành Phật. Văn Thù Bồ Tát
khuyên nên đi cầu học các “Thiện Trí Thức” (tức là xin lời dạy bảo của các thầy hiền và hiểu
biết). Thiện Tài đi gặp 53 vị trong đó có gặp lại Văn Thù Bồ Tát một lần nữa. Trong 53 lần gặp
nầy, Thiện Tài gặp 4 vị Đại Bồ Tát làm tiêu biểu cho Bồ Tát hạnh. Đó là Quan Thế Âm Bồ Tát,
Di Lặc Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát và cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát và thành Đạo.
Đại Thừa Hiển Giáo truyền sang Trung Quốc và Nhật Bản thì không kể đức Di Lặc vì ngài sẽ là
Phật mà thêm Địa Tạng Bồ Tát (cho địa ngục âm phủ) cùng với Quan Thế Âm, Văn Thù và Phổ
Hiền (cho trần thế Ta Bà) là Tứ Đại Bồ Tát:
Quan Thế Âm Bồ Tát: tượng trưng cho Thủy, ở Phổ Đà Sơn
Phổ Hiền Bồ Tát: tượng trưng cho Hỏa, ở Nga Mi Sơn
Văn Thù Bồ Tát: tượng trưng cho Khí, ở Ngũ Đài Sơn
Địa Tạng Bồ Tát: tượng trưng cho Địa, ở Cửu Hoa Sơn.
Do đó trong kinh điển có rất nhiều vị Bồ Tát nhưng chỉ có Tứ Đại Bồ Tát là thường được thờ
trong Phật Giáo Đại Thừa.
Văn Thù Bồ Tát (Manjusri)
*
Chữ Phạm Manjusri dịch âm là Văn Thù Sư Lỵ (Lợi) được gọi tắt là Văn Thù. Do đó từ
Bodhisattva Manjusri, ta có Văn Thù Bồ Tát.
Manjusri dịch nghĩa là Diệu Đức, Diệu Âm hay Diệu Cát Tường.
Đại ý là nói vị Bồ Tát biết rõ Phật Tính có đủ 3 đức Pháp thân, Bát nhã và Giải thoát và đem 3
đức ấy tuyên truyền ra để giáo hóa chúng sinh.
Theo Phóng Bát Kinh Đức Thích Ca Mâu Ni nói:
Nay ta thành Phật là nhờ cái ơn của Văn Thù Sư Lỵ. Về đời quá khứ vô số chư Phật đã
trải qua làm đệ tử của Văn Thù Sư Lỵ, và chư Phật sau nầy ra đời cũng sẽ phải nhờ uy thần của
Văn Thù Sư Lỵ cả. Ví như ở thế gian đứa tiểu nhi phải có cha mẹ, Văn Thù Sư Lỵ là cha mẹ của
Phật giáo.
*
Sách Hoa Nghiêm Sớ chép:
Sau khi Thích Ca Mâu Ni vào Niết Bàn, Văn Thù Bồ Tát cùng với A Nan Đà Tôn Giả
làm ra bộ Hoa Nghiêm Kinh. Khi Kinh làm xong, Long Thần đem xuống để dưới Long cung.
Sáu bảy trăm năm về sau ngài Long Thụ (Nagarjuna) xuống dưới Long cung thấy bộ kinh nầy có
3 bản (thượng, trung và hạ bản). Ngài thấy 2 bản trên nghĩa lý cao và khó quá cho nên ngài chỉ
chép lấy hạ bản đem lên truyền ra ở đời. Những đạo lý trong kinh là do Thích Ca Mâu Ni, Văn
Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát nói ra nên mới gọi là Hoa Nghiêm Tam Thánh. Văn Thù Bồ Tát
tượng trưng cho Trí tuệ và Phổ Hiền Bồ Tát tượng trưng cho Chân lý.
Văn Thù Bồ Tát là biểu thị cho trí tuệ Bát Nhã. Hình tượng của Văn Thù Bồ Tát có 5 búi tóc
biểu thị cho Ngũ Trí (5 cái trí) của Phật, tay cầm thanh kiếm biểu thị cho lợi khí của trí tuệ và
mình cưỡi con sư tử xanh biểu thị cho sức mạnh của trí tuệ.
Văn Thù Bồ Tát hay liên lạc trong kinh với Duy Ma Cật Bồ Tát (Vimalakirti).
*
Ngũ Đài Sơn ở tỉnh Thái Nguyên, Trung Quốc là đạo tràng của Văn Thù Bồ Tát.
Phật nói với ngài Kim Cang Mật Tích trong Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi Bảo Tạng Đà La Ni
Kinh rằng:
“Sau khi ta diệt độ, ở phía đông bắc của Nam Thiên Bộ Châu có một quốc gia tên là Đại
Chấn Na trong đó có một ngọn núi tên là Ngũ Đỉnh. Đó là nơi cư trú sau mỗi lần du ngoạn của
đồng tử Văn Thù và cũng là nơi ngài thuyết pháp cho chúng sanh”.
Nước “Chấn Na” là dịch âm tiếng Phạn còn dịch nghĩa là Trung Hoa. Hình thế ngọn núi có “ngũ
đỉnh” là núi Ngũ Đài Sơn.
Pháp Hoa Kinh (Phẩm Bồ Tát Trú Xứ) có ghi:
“Phía đông có một nơi tên là núi Thanh Lương là nơi sống của các Bồ Tát. Nay có Bồ
Tát Sư Lợi cùng với hơn một vạn chư Bồ Tát thân thuộc thường diễn thuyết ở đó”.
Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra)
*
Samantabhadra dịch âm là Tam Man Đa Ba Đa La (hay Tam Mạn Đa Bạt Đà Ni) và dịch nghĩa
là Phổ Hiền (=phổ hóa hiền lương khắp nơi).
*
Phổ Hiền là nói cái tính thể bao la khắp cả hết thảy, tức là nói cái chân lý trị được những vô minh
rất vi tế mới khởi lên và đứt được những vô minh hoặc gần ngang bằng Phật. Như vậy Phổ Hiền
là vị Bồ Tát chủ về chân lý, về thiền định và sự hành vi của chư Phật. Tượng ngài ngồi lên con
voi trắng biểu thị cái chân lý chắc chắn trong sạch.
Thiên Hành Nguyện Phẩm trong kinh Hoa Nghiêm có ghi Thập Chủng Quảng Đại Hành Nguyện
của Phổ Hiền Bồ Tát.
*
Nga Mi Sơn thuộc tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc là đạo tràng của Phổ Hiền Bồ Tát.
Pháp Hoa Kinh (Phẩm Bồ Tát Trú Xứ) có ghi:
“Phía tây nam có 1 quả núi tên là Quang Minh từ xưa đến nay chư Bồ Tát đều đến đó để
trú ngụ. Hiện giờ có Hiền Thắng Bồ Tát (tức là Phổ Hiền) cùng với 3000 người thân thuộc
thường xuyên tổ chức thuyết pháp ở đó”. Nhà Phật cho rằng núi Quang Minh nói trên chỉ là núi
Nga Mi vì ở đây ban ngày thì có “Phật Đăng” ban đêm thì có “Thánh Đăng” lúc nào cũng sáng
rực (quang minh).
Tạp Hoa Kinh có ghi:
“Ngài Phổ Hiền ở đạo tràng nhập vào chúng sinh hiện tướng mênh mông như biển ở ngay
núi Nga Mi để âm thầm dẫn dắt người đời nhờ đó mà thông thạo giác tính”.
(Hoa Nghiêm Tam Thánh)
Địa Tạng Bồ Tát (Kshitigarbha)
*
Kshitigarbha dịch âm là Khất Xoa Để Nghiệt Sa và dịch nghĩa là Địa Tạng.
Địa Tạng là nói cái nghĩa yên nhẫn (yên lặng và chịu đựng chắc chắn), bất động như đất lớn,
nghĩ ngợi sâu xa kín đáo như cái kho kín chứa đồ báu.
*
Địa Tạng Bồ Tát ở tầng trời Điêu Lị có câu phát nguyện:
“Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Chúng sinh tận độ, phương chứng bồ đề” (Địa
ngục chưa sạch không, thề không thành Phật. Chúng sinh độ hết mới chứng đạo bồ đề).
Địa Tạng Bản Nguyện Kinh chép:
Khi Thích Ca Mâu Ni lên tầng trời Điêu Lị thuyết pháp ngài ân cần phó chúc (dặn dò)
cho Địa Tạng Bồ Tát rằng “Ta đem việc chúng sinh ở cõi trời và cõi người chưa thoát khỏi tam
giới lục đạo còn bị trong hỏa ngục, nhờ cậy ở Bồ Tát. Bồ Tát đừng để cho chúng sinh ấy đày
đọa trong mọi nơi ác đạo”. Lục đạo là 6 cõi gồm cõi trời, cõi người, cõi A tu la, cõi ngạ quỉ, cõi
súc sinh và cõi địa ngục.
Địa Tạng Bản Nguyện Kinh cũng chép:
Ở vào khoảng sau khi đức Thích Ca Mâu Ni diệt độ, mà đức Di Lặc chưa ra đời thì Địa
Tạng Bồ Tát thường hiện thân vào cõi nhân gian, cõi thiên giới và cõi địa ngục để cứu khổ chúng
sinh.
*
Tượng của Địa Tạng Bồ Tát thường làm đầu tròn một tay cầm bảo châu và một tay cầm gậy tích
trượng. Ngài biến hóa thành Lục Địa Tạng để để hóa độ trong lục đạo:
Đàn Đà Địa Tạng: cầm tràng phang đầu người hóa độ nơi địa ngục
Bảo Châu Địa Tạng: cầm bảo châu hóa độ ngạ quỉ
Bảo Ấn Địa Tạng: cầm như ý bảo ấn hóa độ loài súc sinh
Trì Địa Địa Tạng: cầm cõi đại địa hóa độ loài A tu la
Trừ Cái Chướng Địa Tạng: hóa độ loài người và trừ bỏ mọi sự che lấp trở ngại
Nhật Quang Địa Tạng: hóa độ cõi trời trừ mọi điều khổ não.
(Địa Tạng Bồ Tát)
*
Địa Tạng Bản Nguyện Kinh cũng chép: Khi người ta chết rồi cứ 7 ngày vong nhân bị một lần xét
hỏi về cái nghiệp quả của mình, đến ngày thứ 49 (7x7) thì định xong: ai có cái nghiệp thế nào
phải chịu (đầu thai) như thế. Kinh cũng tả rất tường tận các tầng thứ của âm phủ.
*
Cửu Hoa Sơn ở tỉnh An Huy, Trung Quốc là đạo tràng của Địa Tạng Bồ Tát.
Tương truyền vào đời nhà Đường có Tăng nhân người xứ Tân La (thuộc Triều Tiên) tên là Kim
Kiều Giác đến Trung Quốc tu ở Cửu Hoa Sơn được Sơn chủ ở núi nầy là Mẫn Công cùng với
con là Đạo Minh xuất gia theo Kim Kiều Giác và quyên tiền dựng chùa ở đây. Sau khi Kim
Kiều Giác nhập tịch được gọi là hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát do đó Cửu Hoa Sơn thành đạo
tràng của Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát thường thờ chung với Mẫn Công và Đạo Minh.
Avalokiteshvara (Quan Tự Tại / Quan Thế Âm)
Avalokiteshvara Bodhisattva là vị Bồ Tát phổ thông nhất của Phật Giáo Đại Thừa được mệnh
danh là Bồ Tát của Từ Bi (Bodhisattva of Compassion).
Avalokiteshvara có từ Đại Thừa Hiển Giáo Ấn Độ truyền sang Trung Quốc với tên dịch là Quan
Tự Tại. Tên nầy có trong kinh đầu tiên của Đại Thừa là kinh Bát Nhã. Từ Cưu Ma La Thập,
ngài có tên dịch thứ nhì là Quan Thế Âm, nó trở thành tên chính và thay thế hoàn toàn danh hiệu
Quan Tự Tại. Hình tượng của Quan Tự Tại là đàn ông nhưng hình tượng của Quan Thế Âm từ
đàn ông theo thời gian đổi thành hình tượng đàn bà. Từ đó Quan Thế Âm (hình tượng đàn bà)
truyền sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam và khắp nơi trên thế giới.
Từ Đại Thừa Quan Thế Âm được tôn thờ trong tất cả các Tông Đại Thừa kể cả Mật Tông và
Chân Ngôn Tông. Trong Tịnh Độ Tông, Quan Thế Âm có trong Di Đà Tam Tôn với A Di Đà
Phật và Đại Thế Chí Bồ Tát.
(Hình vẽ Quan Âm thời nhà Tống vào thế kỷ thứ 11 là thời kỳ chuyển tiếp hình tượng Quan Âm
từ đàn ông sang đàn bà. Hình cho thấy Quan Âm là đàn bà nhưng có râu.
Hình nầy lấy từ trong sách "The Iconography of Chinese Buddhism in Traditional China").
Avalokiteshvara có trong Mật Giáo Ấn Độ và truyền sang Tây Tạng. Ngài là vị Bồ Tát đứng đầu
của Kim Cang Thừa, là Báo Thân chính của Pháp Thân A Di Đà Phật. Giáo chủ của Phật Giáo
Tây Tạng Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Avalokiteshvara. Ngoài tên Tây Tạng,
Avalokiteshvara được dịch sang Hán Việt từ kinh điển Kim Cang Thừa với cả hai danh hiệu:
Quan Tự Tại và Quan Thế Âm.
Những sách Phật Giáo cũ viết là Avalokitesvara thay vì Avalokiteshvara.
Quan Tự Tại Bồ Tát
*
Avalokitesvara được dịch nghĩa là Quan Tự Tại trong Kinh Bát Nhã. “Quan” là khảo xét khắp
trong thế giới (thế gian) “Tự Tại” là bao giờ cũng tự kỷ thường tại để trừ khổ não cho chúng
sanh. Ngài có một Phẩm riêng trong Pháp Hoa Kinh.
Theo Đại Thừa ở Ấn Độ và các nơi khác trước khi vào Trung Quốc (và Nhật Bản, Hàn Quốc,
Việt Nam…), ngài luôn luôn thuộc Nam Giới với tên là Quan Tự Tại dịch đúng nghĩa từ
Avalokitesvara hay Lokesvara. Ava=khắp mọi nơi; Lokita=nhìn, thấy được (khắp nơi);
Isvara=vị chúa tể, bậc có quyền hành động tự do, thế tôn; Loka=thế gian. Lokesvara còn được
dịch nghĩa là Thế Tự Tại Vương.
*
Về hình tượng, Quan Tự Tại (Avalokitesvara) nguyên thủy có 1 đầu và 2 cánh tay như hình
người với những thể hình và danh hiệu:
Padmàni (Liên Hoa Thủ): tay cầm hoa sen (liên hoa)
Đứng hay Ngồi (royal ease)
Padmàni có khi với hóa thân của 12 Bồ Tát
Avalokita (?): Ngồi (legs locked)
Lokesvara hay Lokeshvara (Thế Tự Tại Vương) của Cambodia
Simhanàda-Avalokitesvara hay Simhanàda-Lokesvara (Sư Tử Hống)
Ngồi trên Sư Tử
Simhanàda-Lokesvara có khi với hóa thân của 5 vị Phật
Quan Thế Âm Bồ Tát
*
Khi truyền sang Trung Quốc thì Cưu Ma La Thập dùng từ Quan Thế Âm để dịch Avalokitesvara
rồi gọi tắt là Quan Âm. Tương truyền rằng vì kỵ chữ Thế trong tên Lý Thế Dân của vua Đường
Thái Tông nên người Trung Quốc chỉ gọi là Quan Âm. Từ đó tên Quan Âm được dùng ở Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và kể cả Việt Nam.
Từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 11, hình tượng của Quan Âm từ thuộc Nam Giới biến sang Nữ Giới.
Điều này có nhiều lý do hữu lý nhưng không chắc chắn.
Nguồn gốc của danh hiệu Quan Thế Âm có lẽ từ trong Pháp Hoa Kinh, Phật giải thích rõ cho Vô
Tận Ý Bồ Tát về ý nghĩa của danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát là do vị Bồ Tát nầy khi nghe âm
thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì "tầm thanh" để cứu khổ. Nếu có vô lượng trăm
ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát một lòng xưng
danh ngài thì ngay khi đó Quan Thế Âm Bồ Tát tức thì quan sát âm thanh ấy và khiến cho họ đều
được giải thoát. Nguyên văn: “Khổ não chúng sinh, nhất tâm xưng danh, Bồ Tát tức thì quan kỳ
âm thanh, giai đắc giải thoát. Dĩ thị danh Quan Thế Âm.”
Theo lời Quan Thế Âm Bồ Tát trong Lăng Nghiêm Kinh: “Về vô số kiếp đời xưa có Đức Phật ra
đời danh hiệu là Quan Thế Âm Như Lai. Ta đến trước Đức Phật nầy mà phát Bồ Đề Tâm. Đức
Phật dạy ta theo 3 phép Văn, Tư, Tu nghĩa là theo lời giảng dạy, suy nghĩ về đạo lý và tu hành
mà vào Tam Ma Đề (Samadhi). Đức Phật khen ta chóng chứng được viên thông Pháp môn và
tức thì ở ngay đại hội thụ ký cho ta danh hiệu Quan Thế Âm”.
*
Phổ Đà Sơn là đạo tràng của Quan Thế Âm Bồ Tát.
Tương truyền vào đời Ngũ Đại có một vị Tăng người Nhật Bản là Tuệ Ngạc (Huệ Ngạc) có thỉnh
được một tượng Quan Âm ở Ngũ Đài Sơn đem đi đường biển về Nhật. Trên đường đi qua 1 đảo
nhỏ trong quần đảo Châu Sơn, Trung Quốc thì bị gió lớn và đá ngầm ngăn trở không thể đi được
nữa. Sư Tuệ Ngạc nghỉ rằng Quan Âm muốn ở lại đây nên mới cùng cư dân ở đây dựng 1 ngôi
chùa trên núi tại đảo nầy và gọi tên là Phổ Đà Sơn. Tên chùa là “Bất Khẳng Khứ Quan Âm
Viện”. Từ đó Phổ Đà Sơn ở Nam Hải là đạo tràng của Quan Âm. Quần đảo Châu Sơn thuộc
tỉnh Triết Giang, Trung Quốc.
Phổ Đà Sơn là đọc trại âm từ núi Potala (Bố Ta Lạc Da) theo “Đại Đường Tây Vực Ký” của
Trần Huyền Trang là nơi thường đến của Quan Tự Tại Bồ Tát (Quan Âm) ở nước Thiên Trúc
(Ấn Độ) cách Trung Quốc hàng vạn dặm.
*
Chuyện Quan Âm Diệu Thiện của Trung Hoa.
Đây là câu chuyện Quan Âm hóa thân thành Công Chúa Diệu Thiện (Miao Shan) của một vị vua
tên là Diệu Trang Vương được nhà sư Jiang Zhiqi ở Trung Hoa tìm ra vào thế kỷ 11.
Vua cha muốn con gái mình là Diệu Thiện lấy chồng. Cô đồng ý với điều kiện là hôn
nhân giải thoát được Lão Bệnh Tử của chúng sinh. Nhà Vua hỏi làm sao được như vậy thì cô xin
lấy một vị lương y. Nhà Vua không chịu bắt cô phải lấy một người có quyền lực và giàu sang.
Khi cô từ chối, Vua bắt cô phải đói khát và làm việc cực nhọc.
Sau đó theo lời yêu cầu của Diệu Thiện, nhà Vua cho cô vào tu viện nhưng để các tu sĩ
hành hạ bắt cô làm việc suốt ngày đêm. Động vật đến giúp đỡ Diệu Thiện. Nhà Vua sợ nên cho
đốt tu viện nhưng Diệu Thiện dùng tay không dập tắt lửa. Vua lại càng sợ nên đem Diệu Thiện
ra xử tử nhưng đao kiếm cung tên đều bị gảy khi Đao phủ thủ dùng để giết Diệu Thiện. Tuy
nhiên Diệu Thiện cũng chịu chết vì sợ Đao phủ thủ sẽ bị vua cha làm tội.
Khi chết xuống Địa Ngục, vì lòng từ bi Diệu Thiện dùng phước đức từ những công quả
qua nhiều kiếp của mình mà giải thoát nhiều người được đầu thai. Diêm La Vương sợ nên đưa
Diệu Thiện về trần gian.
Diệu Thiện về ở núi Hương Sơn. Có thuyết cho rằng Diệu Thiện không chết xuống Địa
Ngục mà được một con hổ thần cõng về Hương Sơn.
Sau đó vua cha của Diệu Thiện bị bệnh nặng không chữa được. Tu sĩ bảo rằng chỉ chữa
được với thuốc làm từ cánh tay và mắt của một người hiền lành (không giận) và người đó chỉ tìm
được ở núi Hương Sơn. Khi đó Diệu Thiện hy sinh 2 cánh tay và 2 đôi mắt của mình (để chữa
lành bệnh cho cha). Sau khi lành bệnh và đến Hương Sơn để gặp ân nhân thì nhà Vua mới biết
là con gái mình. Khi đó nhà Vua xin được tha thứ.
Câu chuyện chấm dứt là Diệu Thiện biến thành Thiên Thủ Quan Âm và gia đình (Vua
cha, Hoàng Hậu và 2 người chị) cất một chùa cho Diệu Thiện ở trên núi nầy. Thay vì về Tịnh
Độ, Quan Âm Diệu Thiện ở lại thế giới nầy để cứu độ cho hết nhân loại vì lòng từ bi. Khi trở về
Quan Âm Diệu Thiện ở một thời gian ở Phổ Đà Sơn rồi sẽ về Tịnh Độ.
Chuyện Quan Âm Diệu Thiện của Việt Nam.
Truyền thuyết Quan Âm Diệu Thiện được truyền miệng trong dân gian Việt Nam qua lối truyện
thơ. Bài thơ viết theo thể lục bát nói về một vị công chúa đã xuất gia ở Việt Nam để độ hoá cho
vua cha có nhiều tội ác. Sự tích này cũng có một dị bản lưu hành ở Trung Hoa như kể trên.
Vị công chúa này, nguyên ở nước Hùng Lâm thuộc Ấn Độ, là người con gái thứ ba của
một vị vua. Trước khi sinh công chúa Diệu Thiện thì nhà vua rất mong có hoàng tử nên đã cầu
xin rất nhiều nhưng đứa con chào đời lại là một công chúa. Điều này đã làm cho nhà vua sinh
lòng oán hận.
Khác hẳn hai người chị, nàng công chúa này lớn lên chỉ say mê kinh kệ và có lòng quy y
Phật. Vì cự tuyệt việc lấy chồng nên cô bị giam hãm phía sau hoàng cung. Không thuyết phục
được con mình hoàn tục, vua giả vờ cho phép con tu ở chùa Bạch Tước rồi ngầm ra lệnh cho các
sư sãi phải tìm cách thuyết phục cho công chúa hoàn tục. Nếu không sẽ giết hết các sư sãi trong
chùa. Nhưng mọi cách đều không lung lạc được ý quyết của công chúa.
Giận con, vua ra lệnh đốt chùa để giết cô công chúa nhưng trời bỗng có mưa dập tắt lửa.
Chưa hết giận, vua bèn hạ lệnh xử chém, thì trời bỗng giông tố, tạo ra sét đánh văng búa của đao
phủ thủ. Vua tức giận ra lệnh xử giảo công chúa nhưng ngay lúc đó xuất hiện một con cọp trắng
xông ra cõng công chúa mang đến chùa Hương.
Diệu Thiện tu hành ở đó và cảm hoá được muông thú. Trong khi đó, vua trong triều đột
nhiên bị chứng bệnh hủi không chữa được, dần dần hai bàn tay bị rơi rụng và mắt trở nên mù.
Công chúa tu đã đến kỳ đắc đạo trở về thăm cha và đã hy sinh hai mắt cùng hai tay để cho cha.
Sau đó công chúa nhập Niết Bàn và cứu độ cha mẹ và hai chị cùng thành Phật.
Chuyện Quan Âm Thị Kính của Việt Nam
Một sự tích được phổ biến tại Việt Nam là Quan Âm Thị Kính, kể rằng ngài đã đầu thai
và tu hành 9 kiếp. Trong kiếp thứ 10, ngài được đầu thai làm một con gái trong một gia đình họ
Mãng ở nước Cao Ly (ở bán đảo Triều Tiên/Đại Hàn ngày nay), và được đặt tên là Thị Kính.
Lớn lên, nàng tài sắc nết na lại hiếu thảo hết lòng. Thị Kính được gả cho Thiện Sĩ của gia đình
họ Sùng. Khi ở nhà chồng, Thị Kính giữ phận làm dâu, tôn kính phụng dưỡng bố mẹ chồng. Một
hôm, khi Thiện Sĩ đang ngủ sau khi đọc sách, Thị Kính thấy ở cằm của chồng mình có mọc sợi
râu. Thị Kính đang may vá nên cầm một con dao nhíp trong tay và sẵn tiện cắt đứt sợi râu. Thiện
Sĩ giật mình thức giấc, thấy vợ đang cầm dao gần cổ, tưởng rằng Thị Kính đang định giết mình
nên la lên.
Sau khi Thị Kính kể lể đầu đuôi, cha mẹ chồng vẫn ngờ rằng Thị Kính có âm mưu giết
chồng, bắt Thiện Sĩ phải bỏ vợ. Thị Kính phải trở về nhà cha mẹ mình, quyết định xuất gia đi tu.
Bà cải trang thành một người nam giới, trốn nhà đến chùa xin đi tu, lấy pháp danh là Kính Tâm.
Vì là gái giả trai nên Kính Tâm có tướng mạo đẹp đẽ, cho nên có nhiều tín nữ ngưỡng mộ. Thị
Mầu, con của một trưởng giả giàu có, trêu ghẹo Kính Tâm, nhưng không được đáp lại. Thị Mầu
lại có thai với người đầy tớ. Khi bị tra hỏi, Thị Mầu khai rằng Kính Tâm là cha của thai nhi.
Kính Tâm tuy kêu oan nhưng không dám tiết lộ ra bí mật của mình. Sau đó, Kính Tâm phải tu ở
ngoài cổng chùa để chùa không bị mang tiếng.
Thị Mầu sinh ra được một đứa con trai, đem đứa nhỏ đến chùa gửi cho Kính Tâm. Kính
Tâm vì tính thương người, nhận đứa trẻ vào nuôi dưỡng. Khi đứa trẻ lên 3 tuổi thì Kính Tâm bị
bệnh nặng. Biết mình sắp chết, Kính Tâm dặn dò đứa trẻ đưa thư cho sư cụ của chùa và cho ông
bà họ Mãng.
Sau khi đọc rõ sự tình, sư cụ kêu người khám xét thi thể Kính Tâm, mới biết rằng Kính
Tâm là gái giả trai. Thị Mầu xấu hổ, đành phải tự tử. Thiện Sĩ ăn năn, bèn đi tu, sau này biến
thành một con chim.
Quan Âm Bồ Tát (Thị Kính sau khi chết) cũng cứu độ đứa con nuôi, con ruột của Thị
Mầu, đem về Nam Hải, để làm người hầu.
Do đó, người ta họa hình Quán Thế Âm Bồ Tát đội mũ ni xanh, mặc áo tràng trắng, ngự
trên tòa sen, bên tay mặt có con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, bên dưới có đứa trẻ bận khôi
giáp chắp tay đứng hầu.
Sự tích Quan Âm này trong văn học Việt Nam có mặt qua bản truyện thơ Quan Âm Thị Kính.
*
Lịch sử hình tượng của Quan Thế Âm:
- Quan Âm thuộc Nam Giới
Liên Hoa Thủ (Padmàni): Đứng hay Ngồi (royal ease)
Có khi Liên Hoa Thủ với 8 mặt (tương ứng với Bát Nạn)
Nhóm:
Nhóm Bát Nạn Quan Âm
Nhóm Tam Thập Nhị Tướng Quan Âm
Theo kinh Pháp Hoa thì Quan Thế Âm Bồ tát có 32 ứng hóa hiện thân là thân Phật, Bích Chi
(Duyên Giác), Thanh Văn, Phạm Vương, Đế Thích, Đại Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại, Thiên Đại
tướng Quân, Tỳ Sa Môn, Tiểu Vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Tể tướng, Bà la môn, Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Phụ nữ, Đồng nam, Đồng nữ, Thiên, Long, Dạ xoa, Càn-thát-bà,
Ca-lâu-la, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân, Thần chấp Kim Cang.
- Quan Âm thuộc Nữ Giới
Nguyên Thủy:
Liên Hoa Thủ (Padmàni): Đứng
Sư Tử Hống (Simhanada): ngồi trên Sư Tử
Dạ Minh Châu: ngồi cầm Minh Châu (Sở Châu Thủ)
Tống Tử Quan Âm: Quan Âm bồng đứa bé
Thánh (Arya-Avalokitésvara) hay Chánh Quan Âm: Đứng hay Ngồi Xếp Bằng
(Avalokita). Thánh Quan Âm thường có Thiện Tài và Long Nữ làm Thị giả đứng 2 bên.
33 Quan Âm của Trung Quốc và Nhật Bản
Chuyện Quan Âm với Thiện Tài (Sudhana):
Theo truyền thuyết có một cậu bé tật nguyền tên là Thiện Tài (Sudhana) từ Ấn Độ muốn
học đạo nên tìm đến Phổ Đà Sơn tìm Quan Âm. Quan Âm muốn thử cậu bé Thiện Tài nầy nên
cho biến ra 3 tên hải tặc tấn công mình rồi giả bộ rớt xuống sườn núi. Thiện Tài dù tật nguyền
nhưng cũng ráng bò lên đỉnh và xuống sườn núi để cứu Quan Âm. Khi Thiện Tài rớt xuống
(sườn núi) thì Quan Âm làm phép cho cậu lơ lửng giữa từng trời. Ngay khi đó Thiện Tài hết tật
nguyền và trở thành xinh đẹp. Từ đó Quan Âm truyền đạo pháp cho Thiện Tài.
Chuyện Quan Âm với Long Nữ:
Con của Long Vương ở Nam Hải một hôm bị mắc lưới và bị đem bán ở chợ. Quan Âm
sai Thiện Tài đem tiền đến mua nhưng không đủ. Quan Âm hiện ra và thuyết phục những ngư
phủ thả ra. Để đền ơn Long Vương sai cháu nội của là một cô gái gọi là Long Nữ đem Minh
Châu (Pearl of Light) dâng cho Quan Âm. Long Nữ xin ở lại học đạo với Quan Âm. Quan Âm
nhận lời với điều kiện là Long Nữ là sở hữu chủ của hột Minh Châu nầy.
Trong hình tượng thường là Quan Âm với 2 bên là Thiện Tài và Long Nữ. Hình Long Nữ có
cầm một cái chén hay thoi (với sự tích Minh Châu) còn Thiện Tài với 2 bàn tay nắm lại và đầu
gối khum xuống (chứng tỏ có một thời bị tật nguyền).
(Quan Thế Âm Bồ Tát)
*
Tam Thập Tam (33) Quan Âm của Trung Hoa và Nhật Bản
Tam Thập Tam Quan Âm (33) là hóa thân của Quan Âm không những dựa vào Kinh sách (nhất
là Pháp Hoa Kinh) mà còn dựa vào tư tưởng hóa độ lục đạo kết hợp với 32 Ứng hóa thân trên
pha trộn với tín ngưỡng dân gian của Trung Hoa và Nhật Bản mà tạo thành, đó là các Hồng
Danh:
1. Dương Liễu Quan Âm (Yoryù)
2. Long Đầu Quan Âm (Ryùzu)
3. Trì Kinh Quan Âm (Jikyò)
4. Viên Quang Quan Âm (Enkò)
5. Du Hý Quan Âm (Yùge)
6. Bạch Y Quan Âm (Byakue)
7. Liên Ngọa Quan Âm (Renga)
8. Lang Kiến Quan Âm (Takimi)
9. Thí Dược Quan Âm (Seyaku)
10. Ngư Lam Quan Âm (Gyoran),
11. Đức Vương Quan Âm (Toku-ò)
12. Thủy Nguyệt Quan Âm (Suigetsu)
13. Nhất Diệp Quan Âm (Ichiyò)
14. Thanh Cảnh Quan Âm (Shòkyò)
15. Uy Đức Quan Âm (Itoku)
16. Diên Mạng Quan Âm (Enmei)
17. Chúng Bảo Quan Âm (Shùhù)
18. Nham Hộ Quan Âm (Iwato)
19. Năng Tĩnh Quan Âm (Nòjyò)
20. A Nậu Quan Âm(Anoku)
21. Vô Úy Quan Âm (Amadai)
22. Diệp Y Quan Âm (Hae)
23. Lưu Ly Quan Âm (Ruri)
24. Đa La Quan Âm (Tarason)
25. Cáp Lỵ Quan Âm (Kòri)
26. Lục Thời Quan Âm (Rokuji)
27. Phổ Bi Quan Âm (Fuhi)
28. Mã Lang Phụ Quan Âm (Meròfu)
29. Hiệp Chưởng Quan Âm (Gasshò)
30. Nhất Như Quan Âm (Ichinyo),
31. Bất Nhị Quan Âm (Funi)
32. Trì Liên Quan Âm (Jiren)
33. Sái Thủy Quan Âm (Shasui).
Ngoài Pháp Hoa Kinh và chuyện Quan Âm Diệu Thiện, 33 Quan Âm còn dựa trên những chuyện
như dưới đây.
Chuyện Ngư Lam Quan Âm (10):
Quan Âm thấy một con sông không có cầu. Ngài hóa thân thành một mỹ nữ cầm giỏ cá
và ra điều kiện ai ném nhiều tiền nhất vào giỏ cá được thì sẽ cưới làm chồng nhưng nếu ném
không trúng vô giỏ cá thì phải bỏ ra khoảng tiền để xây cầu. Không ai ném vào được trong giỏ
cá nên phải đem tiền đến, tiền chất thành đống che lấp không còn nhìn thấy mỹ nữ, nhưng khi
mọi người nhìn lên thì thấy Quan Âm hiện thân lại đứng trên mặt nước của con sông.
Chuyện Lưu Ly Quan Âm (23):
Vào thời Bắc Ngụy, tướng Tôn Kính Đức trấn ở biên cương luôn thờ Quan Âm. Khi ông
bị Di Địch bắt sắp đem xử tử thì ông tụng “Diên Mạng Thập Cú Quan Âm Kinh”. Khi ra pháp
trường thì bị chém 3 lần mà không bị thương tích nên được tha.
Chuyện Cáp Lỵ Quan Âm (25):
Vua Đường Văn Tông thích ăn con sò (cáp lỵ). Một hôm vua ăn một con sò rất lớn
nhưng dùng dao mở hoài mà không được. Vua đốt hương cầu thì con sò hóa ra Quan Âm Đại Sĩ.
Từ đó vua một lòng thờ Quan Âm.
Chuyện Mã Lang Phụ Quan Âm (28):
Đời Đường có một mỹ nữ được nhiều thanh niên tranh nhau xin cưới. Nàng ra điều kiện
nếu làm được sẽ lấy làm chồng. Điều kiện thứ nhất là thuộc (lòng) Phẩm Phổ Môn (của Pháp
Hoa Kinh) trong 1 đêm thì có 20 người làm được. Điều kiện kế tiếp là thuộc Kim Cang Kinh
trong 1 đêm thì có 10 người làm được. Điều kiện thứ ba là thuộc Pháp Hoa Kinh trong 3 ngày
thì chỉ có một người trai họ Mã (Mã Lang) làm được do đó cô phải lấy người nầy. Nhưng đến
ngày đám cưới thì mỹ nữ đột nhiên qua đời biến thành áng sáng bay mất lên Trời.
33 Quan Âm được xếp thành những nhóm:
-Hình Tượng Chánh:
Bạch Y Quan Âm (6): mặc áo trắng
-Hình Tượng theo Đặc tính của bậc Bồ Tát:
Trì Kinh Quan Âm (3): còn gọi là Thanh Văn Quan Âm, thông thạo Kinh.
Viên Quang Quan Âm (4): đã viên mãn
Du Hý Quan Âm (5): vui mừng mà giáo hóa (chúng sinh)
Thí Dược Quan Âm (9): bố thí dược phẩm
Dược Vương Quan Âm (1 = Dương Liễu Quan Âm): Dược Vương trị bệnh
Uy Đức Quan Âm (15): có uy và đức, cầm “Kim Cang Xử”
Năng Tĩnh Quan Âm (19): làm yên tịnh (khắp nơi)
Lục Thời Quan Âm (26): dành cả (6) thời giờ (cho chúng sinh)
Phổ Bi Quan Âm (27 = hiện thân Đại Tự Tại Thiên): từ bi trong Tam Giới
Hiệp Chưởng Quan Âm (29): trừ “Tham, Sân, Si”
Nhất Như Quan Âm (30): giác ngộ Chân Như
Bất Nhị Quan Âm (31): “có 1 không 2” (Non-Duality)
-Hình Tượng Ngồi Trên:
Long Đầu Quan Âm (3): ngồi trên con rồng
Liên Ngọa Quan Âm (7): ngồi trên hoa sen (trắng)
Nhất Diệp Quan Âm (13): ngồi trên lá sen nổi trên mặt nước (cứu vớt chúng sinh)
Vô Úy Quan Âm (21): ngồi trên sư tử, 3 mắt và 4 tay (Mật Tông). Vô úy=không sợ
-Hình Tượng có Tay Cầm:
Dương Liễu Quan Âm (1 = Dược Vương Quan Âm): cầm Dương Liễu
Ngư Lam Quan Âm (10): cầm giỏ cá
Uy Đức Quan Âm (15): cầm Kim Cang Xử (Mật Tông ?)
Chúng Bảo Quan Âm (17): cầm vàng bạc châu báu
Lưu Ly Quan Âm (23): cầm lưu ly màu xanh
Mã Lang Phụ Quan Âm (28): cầm kinh Pháp Hoa
Sái Thủy Quan Âm (33): cầm chén nước cam lộ (rưới xuống)
Đa La Quan Âm (24): cầm hoa sen màu xanh (danh hiệu Đa La từ Mật Tông?)
-Hình Tượng “Nhìn”:
Lang Kiến Quan Âm (8, còn gọi là Phi Bộc): nhìn nước (tượng trưng cho thanh tịnh)
Thủy Nguyệt Quan Âm (12, Thủy Cát Tường): nhìn từ lòng bàn tay có dòng nước chảy
xuống có hình mặt trăng
A Nậu Quan Âm (20): nhìn động tỉnh của đại hải (ngồi trên bệ đá)
-Hình Tượng với Chỗ Ngồi:
Nham Hộ Quan Âm (18): ngồi trong hang động hiểm trỡ
Cáp Lỵ Quan Âm (25): ngồi trong vỏ sò
-Hình Tượng là Hiện Thân:
Đức Vương Quan Âm (11): hiện thân Phạm Vương
Phổ Bi Quan Âm (27): hiện thân Đại Tự Tại Thiên
-Hình Tượng ảnh hưởng của Mật Tông: trong ý nghĩa hay trong hình tượng (nhiều hơn 2 tay và
có khi có nhiều đầu):
Thanh Cảnh Quan Âm (14): có 4 tay. Cổ biến thành màu xanh vì uống thuốc độc thay
cho chúng sinh
Diên Mạng Quan Âm (16): có 20 tay. Bảo hộ tất cả thọ mạng (mạng sống)
Vô Úy Quan Âm (21): có 4 tay và 3 con mắt. Ngồi trên sư tử
Diệp Y Quan Âm (22): có 4 tay. Trên đầu có hình A Di Đà Phật
Đa La Quan Âm (24): từ Đa La của Mật Tông
Bất Nhị Quan Âm (31): từ “bất nhị” (Non Duality) của Mật Tông
*
Mật Tông Quan Âm
Đại Thừa ở Đài Loan, Nhật Bản, Việt Nam, Trung Quốc… vẫn thờ Mật Tông Quan Âm với
những dẫn tích từ Mật Giáo nhưng là Nữ Giới:
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm (Sahasrabhùja Sahasranetra)
Thập Nhất Diện Quan Âm (Ekàdasamukha)
Như Ý Luân Quan Âm (Cintàmanicakra)
Bất Không Quyện Sách Quan Âm (Amoghapàsa)
Mã Đầu Quan Âm (Hayagrìva)
Chuẩn Đề Quan Âm (Cundì)
Tùy Lý Câu Đê Quan Âm (Bhrkutì): Quan Âm “nhíu mày” chỉ có ỏ Nhật Bản.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm:
Theo kinh “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại
Đại Bi Tâm Đà La Ni” của Mật Giáo, Quan Thế Âm nghe được vị Thiên Quang Vương Tĩnh
Chú Như Lai nói một câu: “đại bi tâm đà la ni” liền phát nguyện muốn lợi ích an lạc cho tất cả
chúng sinh, thế là lập tức trên người mọc ra 1000 tay và 1000 con mắt. 1000 cánh tay biểu thị sự
che chỡ và bảo vệ chúng sinh cón 1000 con mắt để biểu thị sự quan sát toàn bộ thế gian.
(Thiên Thủ Quan Âm)
Thập Nhất Diện Quan Âm:
Quan Âm có 11 mặt (đầu). 10 đầu tượng trưng cho Thập Địa là 10 Tu tập của Bồ Tát
trong Hoa Nghiêm Kinh và 1 đầu là thành Phật Quả (Buddhahood).
Như Ý Luân Quan Âm:
Hình tượng có 6 cánh tay: Tay thứ nhất bên phải bắt Tư Duy Tướng Ấn, Tay thứ 2 bên
phải cầm vòng Như Ý (Như Ý Luân) bảo biểu thị rằng có thể thỏa mãn mọi ý nguyện của chúng
sinh, Tay thứ 3 bên phải cầm niệm châu biểu thị hóa độ tất cả chúng sinh; Tay thứ nhất bên trái
bắt ấn Minh Sơn tỏ ý là làm cho lòng tin của chúng sinh không dao động, Tay thứ hai bên trái
cầm hoa sen tượng trinh cho sự tinh khiết và Tay thứ ba bên trái cầm Bảo Luân biểu thị hoằng
dương Phật Pháp (Chuyển Pháp Luân).
Bất Không Quyện Sách Quan Âm:
Thường có 6 Tay cầm: dây quyện sách, hoa sen, tam xoa, búa, như ý bảo trượng và bắt ấn
Thí Vô Úy. Dây quyện sách giữ chúng sinh không rơi vào khổ nạn. Cũng có hình mặc áo da nai
nên gọi là Lộc Bì Quan Âm. Bồ Tát nầy được ghi trong Bất Không Quyện Sách Thần Biến Chân
Ngôn Kinh, Bất Không Quyện Sách Tâm Vương Mẫu Chân Ngôn Đà La Ni Kinh và Bí Tàng
Ký.
Mã Đầu Quan Âm:
Hình Quan Âm có đầu ngựa lấy từ Mã Đầu Minh Vương (cùng tên tiếng Phạn là
Hayagrìva) là dạng Phẫn Nộ của Quan Thế Âm (Quan Tự Tại) của Mật Giáo
Chuẩn Đề Quan Âm:
Thường có nhiều Tay (có khi trên 80). Rất nổi tiếng với công đức cứu độ chúng sinh.
Còn gọi là Thất Câu Chi Phật Mẫu. Thất Câu Chi là “7000 phương”, đây là Phật Mẫu của những
vị Phật quá khứ. Thường có hình tượng ngồi trên hoa sen và 2 bên có 2 Long Vương.
Tam Thân Phật
Đại Cương
Theo lý thuyết Tam Thân của Đại Thừa Phật Giáo thì Phật có 3 Thân (Kàya=Body)
1. Pháp Thân (Law-body=Dharma-kàya).
= Tự Tánh Thân (Substantial-body=Swabhàva-kàya)
2. Báo Thân (Reward-body=Sambhoga-kàya)
= Thọ Dụng Thân (Enjoyment-body=Sambhoga-kàya)
= Đồng Thân (Homogeneous-body=Nisyanda-body) tức là Phật Thân ở Pháp Giới
(Dharma-dhàtu).
3. Ứng Thân (Manifest-body=Nirmàna-kàya)
= Hóa Thân (Transformed-body=Nirmàna-kàya)
Thuyết Tam Thân Phật thực tế bắt đầu áp dụng trên bàn thờ Phật Giáo ở Trung Quốc từ Thiên
Thai Tông cho tới Thiền Tông. Tịnh Độ Tông không hoàn toàn áp dụng thuyết Tam Thân Phật.
Tam Thân Phật của Thiên Thai Tông và Hoa Nghiêm Tông:
Tỳ Lô Giá Na Phật là Pháp Thân
Lô Xá Na Phật là Báo Thân
Thích Ca Mâu Ni Phật là Ứng Thân
Tam Thân Phật của Pháp Tướng Tông:
Tỳ Lô Giá Na Phật là Tự Tính Thân
Lô Xá Na Phật là Thọ Dụng Thân
Thích Ca Mâu Ni Phật là Hóa Thân
Tam Thân Phật của Thiền Tông:
Phật Đại Nhật (Vairocana) là Pháp Thân
Phật A Di Đà là Báo Thân
Phật Thích Ca Mâu Ni là Hóa Thân
Tỳ Lô Giá Na Phật và Lô Xá Na Phật:
Chữ Phạn (Sanskrit) đều dùng Vairocana (hay Maha Vairocana) cho 2 danh hiệu khác
nhau: Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật (tiếng Nhật là Birushana Butsu) và Báo Thân Lô Xá Na
Phật (tiếng Nhật là Rushana Butsu).
Tỳ Lô Giá Na Phật = Đại Nhật Như Lai
*
Vairocana thường được biết nhiều hơn là Pháp Thân Phật của Đại Thừa từ kinh Hoa Nghiêm với
thuyết lý Tam Thân của Đại Thừa.
Vairocana (hay Maha Vairocana) dịch âm là Tỳ Lô Giá Na và dịch nghĩa là Đại Nhật. Thường
gọi là Tỳ Lô Giá Na Phật nhưng lại là Đại Nhật Như Lai.
Theo Tam Thân của Đại Thừa, Đại Nhật hay Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân là nguồn gốc của tất cả
chư Phật (Báo Thân và Hóa Thân).
Theo Chơn Ngôn Tông và Mật Tông, Đại Nhật Như Lai cũng là Pháp Thân và là nguồn gốc của
chư Phật và chư Bồ Tát. Tuy nhiên Đại Nhật Như Lai có từ Đại Nhật Như Lai Bản Sinh Kinh
của Chơn Ngôn Tông và Mật Tông (chứ không dựa theo Hoa Nghiêm kinh như Đại Thừa Hiển
Giáo).
*
Pháp Thân Vairocana của Đại Thừa có những bức tượng nổi danh trên thế giới.
Tỳ Lô Giá Na Phật (Đại Nhật) là hình tượng của Buddha of Bamyan, tượng bằng đá đục trong
núi ở Afghanistan. Buddha of Bamyan có 2 tượng: tượng cao (53 m) là tượng của Đại Nhật và
tượng thấp hơn (35 m) là tượng của Thích Ca Mâu Ni. Cả hai được xây vào thế kỷ thứ 6 dọc
theo Đường Tơ Lụa (Silk road) và đều bị Taliban phá hủy hoàn toàn vào năm 2001.
(Tỳ Lô Giá Na = Đại Nhật, tượng Buddha of Bamyan cao 53 m ở Afghanistan)
Có tượng bằng đồng của Pháp Thân Vairocana được hoàn thành vào năm 2002, sau khi tượng
Phật bằng đá ở Bamyan, Afghanistan bị Taliban phá hủy hoàn toàn (năm 2001). Tượng mang
tên là Trung Nguyên Đại Phật ở chân núi Nghiêu Sơn thuộc huyện Lỗ Sơn, tỉnh Hà Nam, Trung
Quốc. Đó là bức tượng cao thứ nhì trên thế giới. Nó cao 128 m bao gồm tòa sen (cao 20 m).
(Đại Nhật = Tỳ Lô Giá Na Phật, tượng Trung Nguyên Đại Phật ở Nghiêu Sơn, Hà Nam)
Thuyết Tam Thân Phật
*
Thuyết Tam Thân Phật của Phật Giáo Đại Thừa có từ Vô Trước trình bày rõ nhất, lấy từ quan
điểm của Đại Chúng Bộ (Mahasànghika) thuộc Phật Giáo Nguyên Thủy.
Phật Lục của Trần Trọng Kim giới thiệu Tam Thân:
Phật là thể tính thanh tịnh của vũ trụ, thường hằng và toàn tri. Trong không gian vô tận
có vô lượng thế giới vô số chúng sinh, Phật (và Bồ Tát).
Các Phật xuất hiện trên trái đất là hiện thân của Pháp Thân vì lòng từ bi mà đến với con
người, vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Nói tóm lại Pháp Thân là trỏ cái thế sở chứng được, Báo
Thân và Ứng Thân là trỏ cái dụng nhờ ở cái thế ấy mà phát ra. Vậy nên tuy nói là 3 Thân nhưng
thực là chỉ có 1 Thể. Một Thể tức là một Phật.
Một Phật (Pháp Thân) nghĩa là một cái minh giác linh diệu chung khắp cả vũ trụ. Cái
minh giác linh diệu ấy lưu chuyển phát hiện ra những thân khác tức là thành ra chư Phật. Được
cái phúc đức trí tuệ (Báo Thân) hay do sự biến hóa phổ ứng ở đời (Ứng Thân) thì có nhiều Phật
nhưng do cái thuần lý thì chỉ có một Phật (Pháp Thân). Một mà hóa ra nhiều, nhiều mà vẫn là
một.
Lấy ngay chư Phật nói ở trong các kinh mà xét thì biết rằng hết thảy chư Phật đều là một
Pháp Thân cả. Đức A Di Đà là Báo Thân của Phật và đức Thích Ca Mâu Ni là Ứng Thân của
Phật. Hay là nói ngược lại: đức Thích Ca Mâu Ni đã thành Phật là được Pháp Thân của Phật, đời
ngài hiện ra ở thế gian mà thuyết pháp và giáo hóa chúng sinh là Ứng Thân của Phật; đức A Di
Đà ở Tây Phương Cực Lạc hưởng thụ yên vui cứu độ chúng sinh là Báo Thân của Phật. Hay nói
theo cách khác: đức Đại Nhật Như Lai là Pháp Thân của đức Thích Ca Mâu Ni, đức A Di Đà là
Báo Thân của đức Thích Ca Mâu Ni và đức Thích Ca Mâu Ni là Ứng Thân của đức Đại Nhật
Như Lai.
Vậy xét về Pháp Thân thì chư Phật là đồng một thể tức là chỉ có một (Pháp Thân) Phật
mà thôi (là Đại Nhật Như Lai). Mà xét về Báo Thân thì có A Di Đà Phật và những Phật khác và
xét về Ứng Thân thì có Thích Ca Mâu Ni Phật cùng chư Phật khác trong quá khứ đã giáng thế
mà tu thành chánh giác và thuyết pháp độ chúng sinh.
*
Pháp Thân và Tam Thân dựa trên triết lý của Phật Giáo Đại Thừa (Tập Đế).
Thuyết Tam Thân có từ Du Già Hành Phái của Phật Giáo Đại Thừa lấy Chân Như làm căn bản.
Mỗi sinh mạng (each being), kể cả con người (human being) có 1 Thực Thể Tuyệt Đối (ultimate
truth) có sẵn từ nguyên thủy là Chân Như. Khi đồng nhất với Chân Như thì (một sinh mạng)
Giác Hạnh Viên Mãn (gồm có Giác ngộ và Giác tha) đạt Phật Quả (Buddhahood) mà thành Phật
(Buddha).
Pháp Thân của Phật chính là Chân Như của Phật. Do đó còn gọi là Tự Tánh Thân vì
Chân Như là tự tánh của Phật (Phật Tánh).
Báo Thân của Phật chính là Giác Hạnh Viên Mãn của Phật hay Phật Quả của Phật. Báo
Thân Phật không ở thế giới Ta Bà của chúng sanh mà ở thế giới Tịnh Độ (Pháp Giới) nên còn
gọi là Đồng Thân. Mỗi Báo Thân Phật có một cõi Tịnh Độ riêng. Thí dụ Phật A Di Đà có thế
giới Tịnh Độ riêng của mình là thế giới (Tây Phương) Cực Lạc. Gọi là Báo Thân vì "báo" là
"nhận kết quả" của Phật Quả (Buddhahood). Nhận cũng có nghĩa là "hưởng thụ" Phật Quả nên
còn gọi là Thọ Dụng Thân.
Ứng Thân hay Hóa Thân của Phật cũng chính là Giác Hạnh Viên Mãn hay Phật Quả của
Phật. Ứng Thân Phật ở thế giới Ta Bà của chúng sanh, có thân thể (sắc thân) như chúng sanh.
Ứng Thân Phật cũng là "nhân loài" như Phật Thích Ca và những Nhân gian Phật khác. Ứng Hóa
là ứng dụng để hóa độ (chúng sanh thành Phật) do đó gọi là Ứng Thân hay Hóa Thân. Như vậy,
trong thế giới Ta Bà thì chúng sanh được hóa độ từ Ứng Thân Phật và Bồ Tát.
Do đó, Ứng Thân Phật là Nhân Gian Phật (Manushi Buddha) hay Nhân Phật (Human Buddha) vì
là người ở nhân gian như chúng ta nhưng Pháp Thân và Báo Thân thì không phải là người nên có
khi sách Tây phương gọi là Thiên Phật (Celestial Buddha).
Tam Thân Phật:
1. Pháp Thân (Law-body=Dharma-kàya).
= Tự Tánh Thân (Substantial-body=Swabhàva-kàya)
2. Báo Thân (Reward-body=Sambhoga-kàya)
= Thọ Dụng Thân (Enjoyment-body=Sambhoga-kàya)
= Đồng Thân (Homogeneous-body=Nisyanda-body) tức là Phật Thân ở Pháp Giới
3. Ứng Thân (Manifest-body=Nirmàna-kàya)
= Hóa Thân (Transformed-body=Nirmàna-kàya)
Mọi sinh mạng đều có "một" Chân Như" nhưng mỗi sinh mạng thành Phật thì khác nhau. Mọi
Phật Quả (Báo Thân và Ứng Thân) đều có một Chân Như. Chân Như là "căn bản" của mọi sinh
mạng (= chúng sinh) và mọi Báo Thân và Ứng Thân. Chân Như của một sinh mạng hay một
Báo Thân hoặc Ứng Thân đều là Pháp Thân. Chân Như (= Pháp Thân) có sẵn trong mỗi sinh
mạng từ nguyên thủy dù sinh mạng đó thành Phật hay không. Có thể nói chỉ có 1 Pháp Thân
nhưng có nhiều Báo Thân và nhiều Ứng Thân.
Phật Lục của Trần Trọng Kim viết:
Pháp Thân Phật là Phật căn bản và nguồn gốc của Vạn Hữu (mọi sự vật = all things and
beings) hay Vạn Pháp (all dharmas) kể cả chư Phật. Pháp Thân là là thể mà Phật và Chúng Sinh
có chung.
Pháp Thân thì thường hằng vô tướng nhất nguyên, là thể tính chung của các vị Phật, là
dạng tồn thật sự của chư Phật. Từ một Pháp Thân Phật sinh ra tất cả Báo Thân Phật và Hóa
Thân Phật và chư Phật đều qui về (một) Pháp Thân Phật.
Pháp Thân là Chân Như nên Pháp Thân cũng đồng nghĩa với những đồng nghĩa khác của Chân
Như như là Như Lai Tạng, Phật Tánh, Tánh Không, Pháp Tánh, Pháp Giới (theo Hoa Nghiêm
Tông) và Bản Tâm (theo Kim Cang Thừa).
Pháp Thân dùng cho Phật còn những đồng nghĩa khác dùng cho Chúng sanh nhất là cho Hành
giả tu hành.
Thuyết Tam Thân lấy căn bản trên một bộ phái là Đại Chúng Bộ của Phật Giáo Nguyên Thủy.
Pháp Thân chính là (Phật) Pháp, một trong Tam Bảo (Phật Pháp Tăng) được Phật Thích Ca
giảng dạy. Chỉ có (Phật) Pháp là tuyệt đối theo Phật Thích Ca do đó chỉ có Pháp Thân là tuyệt
đối.
Đại Thừa mượn ý niệm Pháp Thân tuyệt đối của Phật Giáo Nguyên Thủy nên vẫn giữ danh hiệu
"pháp thân" mặc dù giải nghĩa theo Đại Thừa. Do đó dễ gây hiểu lầm về nghĩa của từ ngữ
"pháp" của Pháp Thân. Từ Pháp Thân, Đại Thừa sáng tạo ra Báo Thân và Ứng Hóa Thân. Báo
Thân và Ứng Thân không có trong Phật Giáo Nguyên Thủy.
Ngay cả "thân" (body) của Tam Thân cũng không có nghĩa là thân thể.
*
Theo Thiền Tông, Tam Thân là 3 cấp của Chân Như nhưng liên hệ với nhau trong một thể thống
nhất:
Pháp Thân là Tâm Thức của vũ trụ là thể tính nằm ngoài suy luận. Đó là nơi phát sinh tất
cả, từ loài hữu tình đến vô tình, tất cả những hoạt động thuộc về tâm thức. Pháp Thân đó hiện
thân thành Phật Đại Nhật (Vairocana).
Báo Thân là Tâm Thức hỉ lạc khi đạt giác ngộ, kiến tính, ngộ được tâm chư Phật và tâm
mình là một. Báo Thân đó là hiện thân của Phật A Di Đà.
Hóa Thân là Thân Phật hóa thành người. Đó là Phật Thích Ca.
Thí dụ: Pháp Thân là toàn bộ kiến thức Y học
Báo Thân là chương trình học tập của một Y sĩ
Ứng Thân là Y sĩ đó áp dụng kiến thức Y học mà chửa bệnh cho người.
Báo Thân Phật và Tịnh Độ
Tịnh Độ
Từ Tam Thân Phật, Đại Thừa chú trọng tới Báo Thân Phật là những vị Phật ở những thế giới
riêng của Phật (Phật Giới) thường được gọi là Pháp Giới (Dharmahàtu), những thế giới trong
sạch khác với thế giới ô uế Ta Bà của nhân loại và Phật Thích Ca Mâu Ni (Ứng Thân Phật).
Từ đó những Pháp Giới nầy có tên là thế giới Tịnh Độ và mỗi Báo Thân Phật có một Tịnh Độ
riêng biệt.
Tịnh Độ = Tĩnh Thổ = Pure Land = đất trong sạch. (Độ = Thổ).
Từ thời ngài Long Thụ đã có những thế giới Tịnh Độ của Báo Thân Phật trong Kinh. Từ đó
truyền sang Trung Quốc:
Thế giới Tịnh Độ Đông Phương của A Sơ Phật
Thế giới Tịnh Độ Đông Phương của Đa Bảo Phật
Thế giới Tịnh Độ Đông Phương của Dược Sư Phật
Thế giới Tịnh Độ Tây Phương của A Di Đà Phật
Trung Quốc thường hay thờ Tam Thế Phật gồm có Thích Ca Mâu Ni Phật (Thế giới Ta Bà) ở
chính giữa với 2 bên là Dược Sư Phật (Thế giới Đông Phương) và A Di Đà Phật (Thế giới Tây
Phương). “Thế” ở đây là thế giới, không gian chứ không phải là thời gian (quá khứ, hiện tại và
tương lai).
Thuyết Tịnh Độ còn phát triển sâu rộng về phương diện tín ngưỡng:
Ngoài vị Phật, giáo chủ ở Tịnh Độ, còn có những vị Bồ Tát "dưới quyền" của vị Phật gọi
là Thị giả.
Phật và Bồ Tát sẽ xuống thế gian (có khi dưới hình thức Hóa Thân) không những hóa độ
chúng sanh như Đại Thừa mà còn trực tiếp cứu độ chúng sanh thoát Khổ.
A Sơ Phật (Aksobhya)
A Sơ Phật Quốc Kinh và Đại Bảo Tích Kinh:
Ở phương Đông có nước gọi là Diệu Hỷ (Thiên Lạc) có đức Phật ở nước nầy là Đại Mục
Như Lai hay A Sơ Phật (Aksobhya) khi là Tỳ khưu có 39 điều nguyện (23 Tịnh độ nguyện và 16
Tự hành nguyện), sau khi hành nguyện viên mãn thì thành Phật. Điều kiện vãng sinh tới nước
nầy là phải tu Bồ Tát hạnh, pháp Lục Độ và niệm danh hiệu Ngài.
Đa Bảo Phật (Prabhutaratna)
Pháp Hoa Kinh/Kiến Bảo Tháp Phẩm:
Khi Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp Hoa Kinh thì bỗng nhiên dưới đất hiện ra Bảo Tháp có
xá lợi toàn thân của Đa Bảo Phật. Tháp nầy được trang sức bằng kim ngân lưu ly 7 loại bảo vật.
Trong tháp phát ra âm thanh lớn tán tụng rằng: “Lành thay, lành thay”. Thích Ca Mâu Ni Phật
nói với đại chúng nghe kinh rằng bảo tháp nầy có toàn thân Như Lai là Phật của Đông Phương
thế giới Bảo Tịnh quốc thổ xưa kia hiệu là Đa Bảo (Phật). Theo lời khẩn nguyện của Thích Ca
Mâu Ni Phật, chư Bồ Tát mở cửa tháp hiện rõ thân (của) Đa Bảo Phật. Lúc đó Đa Bảo Phật
trong bảo tháp nhường chỗ ngồi cho Thích Ca Mâu Ni Phật. Liền đó Thích Ca Mâu Ni Phật vào
bảo tháp cùng ngồi kiết già với Đa Bảo Phật giảng thuyết kinh (Pháp Hoa).
Dược Sư Phật (Bhaisajyaguru)
(Dược Sư Phật = Medicine Buddha, hình tượng luôn có cầm bình thuốc)
Dược Sư Lưu Ly Quang Bản Nguyện Kinh (Bhaisajyaguru Sutra) chép:
Văn Thù Bồ Tát bạch Thích Ca Mâu Ni Phật rằng: “Xin Phật diễn thuyết danh hiệu và
những đại nguyện của chư Phật cho đệ tử nghe”. Phật đáp: “Ở phương Đông cách cõi đất nầy
gấp 10 lần cát ở sông Hằng có một thế giới gọi là Tỉnh Lưu Ly. Ở cõi thế giới ấy có đức Phật
hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Khi ngài ở ngôi Bồ Tát có 12 lời đại nguyện. Bởi có
những lời đại nguyện ấy cho nên những khi người ta làm chay đàn hoặc khi ai có bệnh tật thường
hay tụng kinh Dược Sư để cầu tiêu giải bệnh tật và tai nạn.
Điều nguyện thứ sáu của Dược Sư Phật: “Nguyện khi ta được chứng đạo bồ đề, chúng sinh có ai
thân hình bất cụ hoặc bị các bệnh tật xấu xa khổ sở, thì đều được đầy đủ ngay lành đẹp tốt”.
Dược Sư Phật (Bhaisajyaguru) của thế giới Tịnh (Độ) Lưu Ly Đông Phương (Eastern Pure
Land=The realm of Vaiduryanirbhâsa)
Dược Sư Phật thường có 2 Thị giả:
(Nhóm 1)
Dược Vương Bồ Tát (Bhaisajyaràjà)
Dược Thược Bồ Tát (Bhaisajyasamudgata)
(Nhóm 2)
Nhật Quang (Biến Chiếu) Bồ Tát (Sùryaprabha)
Nguyệt Quang (Biến Chiếu) Bồ Tát (Candraprabha)
A Di Đà Phật và Tịnh Độ Tông
Đại Cương
Từ lý thuyết về Tịnh Độ tạo ra Tịnh Độ Tông. Tây Phương Tịnh Độ của A Di Đà Phật trở thành
tín ngưỡng và niềm tin Tịnh Độ của Tịnh Độ Tông. A Di Đà Phật với Bồ Tát Quan Thế Âm cứu
khổ cứu nạn toàn nhân loại.
Từ Báo Thân Phật chính của Đại Thừa, A Di Đà Phật trở thành vị Phật chính của Tịnh Độ Tông.
Từ 1 trong Tứ Đại Bồ Tát của Đại Thừa đến Bồ Tát chính của Tịnh Độ Tông, Quan Thế Âm
(Quan Âm) là vị Bồ Tát độc nhất của Phật Giáo Đại Thừa được tôn thờ khắp nơi và trong khắp
các Tông Phái kể cả Thiền Tông.
Bàn thờ của Tịnh Độ Tông gồm có A Di Đà Phật với 2 Thị giả là Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại
Thế Chí Bồ Tát và sau nầy có thêm Địa Tạng Bồ Tát của Đại Thừa.
Tịnh Độ Tông và Thế giới Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc của A Di Đà Phật dựa trên 3 Tịnh Độ
Kinh (Pure Land Sutras):
1. A Di Đà Kinh (Amitàbha Sùtra)
= Bản ngắn của Vô Lượng Thọ (Trang Nghiêm) Kinh (Shorter Sukhàvatìvyùha Sùtra)
2. Vô Lượng Thọ (Trang Nghiêm) Kinh
= Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (Sukhàvativyùha Sutra)
= Phật Thuyết A Di Đà Kinh (Amitàbhavyùha Sùtra) = Vô Lượng Quang Kinh
(Amitàyus Sùtra)
3. Quán Vô Lượng Thọ Kinh (Amitàyurdhyàna Sùtra)
= Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh
Di Đà Tam Tôn
A Di Đà là dịch âm từ tiếng Phạn Amitàbha. Thật ra A Di Đà Phật có 2 tên: Amitàbha (dịch
nghĩa là Vô Lượng Quang Phật) và Amitayus (dịch nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật).
A Di Đà Phật có 2 Thị giả ở Thế giới Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc và trong Tịnh Độ Tông là:
Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) và Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahasthamaprapta) được gọi
chung trên bàn thờ là Di Đà Tam Tôn.
Sự hiện hữu của A Di Đà Phật và 2 Thị giả Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát được
nhấn mạnh qua những Kinh dưới đây.
Kinh Pháp Hoa, Phẩm Hóa Thành Dụ thứ 7 với chuyện “Bồ Tát Sa Di”:
Đức Đại Thông Trí Thắng Phật khi còn ở ngôi Quốc Vương có 16 con trai đều xuất gia
làm Sa di. 16 Sa di thành Phật ngự ở đạo tràng mười phương thế giới. Vị Sa di thứ 16 thành
Phật ở cõi Ta Bà hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật. Vị Sa di thứ 9 hiện tại thành Phật ở Cực Lạc thế
giới tức là A Di Đà Phật.
Kinh Nhứt Hướng Xuất Sanh Bồ Tát với chuyện “Thái Tử Thắng Công Đức”:
Thái tử Bất Tư Nghì Thắng Công Đức xuất gia tu tập Pháp Bổn Đà La Ni Kinh 9 muôn
năm phát Bồ Đề Tâm. Thái tử Thắng Công Đức là tiền thân của A Di Đà Phật.
Kinh Bi Hoa (Đại Bi Liên Hoa) với chuyện “Quốc Vương Vô Trách Nhiệm và 2 Vương Tử”:
Hằng hà sa số kiếp về trước ở thế giới San Đà Lam, con trai của Phụ Tướng Bảo Hải xuất
gia tu thành Phật là Bảo Tạng Như Lai. Nghe giảng dạy của Bảo Tạng Như Lai, Quốc Vương
Vô Trách Nhiệm và Phụ Tướng Bảo Hải phát Bồ Đề Tâm. Quốc Vương Vô Trách Nhiệm thời
nguyện trang nghiêm Tịnh Độ để nhiếp thọ chúng sanh (là tiền thân của A Di Đà Phật). Phụ
Tướng Bảo Hải thời nguyện thành Phật ở uế độ hầu ngự phục mọi loài (là tiền thân của Thích Ca
Mâu Ni Phật).
Bảo Tạng Như Lai nói: “Quá trăm nghìn muôn ức Phật độ về Tây Phương có thế giới của
Tôn Âm Vương Như Lai. Một hằng hà sa số a tăng kỳ kiếp sau, thế giới đó đổi tên là Cực Lạc.
Bây giờ Quốc Vương sẽ thành Phật nơi ấy hiệu là Vô Lượng Thọ Như Lai. Và Phụ Tướng sẽ
thành Phật là Thích Ca Mâu Ni ở Ta Bà thế giới”.
Thái tử Bất Huyến (con trưởng Quốc Vương Vô Trách Nhiệm) phát Bồ Đề Tâm và phát
nguyện: “Sau nầy, thời gian tôi tu Bồ Tát hạnh, có chúng sanh nào gặp phải sự khổ não khủng
bố…sầu lo cô cùng không ai cứu hộ, không ai cậy nương, kẻ ấy nhớ đến tôi xưng danh hiệu của
tôi được thiên nhĩ tôi nghe đến thiên nhãn tôi thấy đến. Nếu những chúng sanh đó chẳng được
thoát khỏi các sự khổ não khủng bố thì tôi thề trọn không thành bậc Chánh Giác. Và khi vua cha
thành Phật ở Cực Lạc thế giới thì tôi thường ở Cực Lạc thật hành Bồ Tát đạo và hộ trì chúng
sanh.
Bảo Tạng Như Lai bảo: “Ông quan sát tất cả chúng sanh mà sinh lòng đại bi, muốn dứt
tất cả sự khổ não của chúng sanh, và muốn làm cho chúng sanh được an lạc, nay nên đặt hiệu
cho ông là Quan Thế Âm. Về sau lúc đó Vô Lượng Thọ Phật nhập niết bàn, cõi Cực Lạc đổi tên
là Nhất Thiết Trân Bửu Thành Tựu thế giới, ông sẽ thành Phật nơi ấy hiệu là Biến Xuất Nhất
Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai.
Vương tử Ni Ma (con thứ của Quốc Vương Vô Trách Nhiệm) cũng phát nguyện đem
công đức hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Lúc Thái tử Bất Huyết thành Phật, người sẽ là vị Bồ Tát
chuyển pháp kuân trước nhứt cũng thường ở luôn một bên Sơn Vương Như Lai giúp hoằng hóa
sẽ thành Phật ở thế giới ấy hiệu là Thiện Trụ Công Đức Bửu Vương Như Lai. Thái tử Bất Huyết
là tiền thân của Quan Thế Âm Bồ Tát và Vương tử Ni Ma là tiền thân của Đại Thế Chí Bồ Tát.
Kinh Thuyết Vô Lượng Thọ (=Kinh Đại Bổn A Di Đà) với chuyện “Pháp Tạng Bồ Tát”:
Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni cho (Tôn giả A Nan Đà) biết (rằng) hôm nay ngài nghĩ đến
bổn sư bổn nguyện và bổn hạnh của Đấng Giáo chủ Cực Lạc thế giới, Đức Phật A Di Đà.
Đức Bổn sư phán tiếp:
Vô lượng vô số kiếp về trước nhằm lúc Thế Tự Tại Vương Như Lai xuất thế giáo hóa
chúng sanh, có một Quốc Vương phát Bồ Đề Tâm tự bỏ ngai vàng xuất gia làm Sa môn hiệu là
Pháp Tạng đảnh lễ Phật Thế Tự Tại Vương cầu được Phật truyền dạy công hạnh trang nghiêm
Tịnh Độ nhiếp thủ chúng sanh. Sa môn Pháp Tạng phát khởi tâm niệm thù thắng vô thượng.
Sau 5 kiếp, ngài chọn lấy công hạnh trang nghiêm thanh tịnh Phật độ (thời ấy Phật Thích Ca thọ
10 kiếp).
Tu tập xong, Pháp Tạng Bồ Tát đối đức Phật Thế Tự Tại Vương thuật 48 điều đại nguyện
xong thời khắp cõi đất đều rung động hoa báu mưa xuống trên mình người và giữa hư không có
tiếng nhạc vang lừng “quyết chắc sẽ thành Phật”. Sau đó trải vô lượng vô kiếp Pháp Tạng Bồ
Tát tu hành thực hiện hoàn toàn các điều nguyện trên và người đã thành Phật đến nay được 10
kiếp hiện là Phật A Di Đà hiện đang ngự thuyết pháp tại Cực Lạc thế giới cách đây 10 muôn ức
cõi về hướng Tây.
48 Điều Nguyện
A Di Đà Phật có 48 điều nguyện cứu độ và giáo hóa chúng sinh. Điều nguyện thừ 35 có nhiều
tranh cãi (về Nam Nữ).
Điều nguyện thứ 35:
Lúc tôi thành Phật, các người nữ trong vô lượng bất tư nghị thế giới của mười phương
vui mừng tin mến phát Bồ Đề Tâm nhận ghét thân gái. Nếu sau khi mạng chung mà còn làm
thân người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi Chánh Giác.
Điều nguyện nầy trong Phật Lục của Trần Trọng Kim được sửa lại:
Nguyện những người đàn bà trong thập phương vô số thế giới nghe danh hiệu tôi thì
mừng rỡ vui vẻ phát Bồ Đề Tâm. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
(A Di Đà Phật. tượng ở Kamakura, Nhật Bản)
Đại Thế Chí Bồ Tát
Đại Thế Chí Bồ Tát cùng Quan Thế Âm Bồ Tát giúp A Di Đà Phật. Hình tượng 3 người thường
thờ chung với A Di Đà Phật đứng giữa gọi là Di Đà Tam Tôn.
Đại Thế Chí là dịch nghĩa của chữ Phạn Mahasthanaprâta có nghĩa là “thế lực rất lớn rất mạnh
do sự cầu nguyện Phật mà có”.
Theo Tịnh Độ Tông thì Quan Thế Âm Bồ Tát tượng trưng cho Từ Bi còn Đại Thế Chí Bồ Tát
tượng trưng cho Bát Nhã.
Kinh Lăng Nghiêm viết:
Về vô số kiếp đời xưa có Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai ra đời dạy cho ngài tu phép
niệm Phật tam muội thu cả lục căn (nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý) định tâm chuyên nhứt về việc
niệm Phật, bởi thế tâm khai, ngộ đạo viên thông, được danh hiệu là Đại Thế Chí.
Kinh Quan Vô Lượng Thọ viết:
Ngài đem ánh sáng trí tuệ soi khắp hết thảy khiến chúng sinh đều thoát khỏi 3 nơi ác đạo,
mà có cái sức mạnh vô thượng.
(Di Đà Tam Tôn)
Bàn Thờ và Danh Hiệu
Bàn Thờ của Phật Giáo Đại Thừa
*
Bàn thờ của Đại Thừa Hiển Giáo trong các chùa chiền thường thờ:
- Tam Thế Phật:
đại diện của hàng ngàn Phật quá khứ, đại diện của hàng ngàn Phật hiện tại và đại diện của
hàng ngàn Phật tương lai. Thường là 3 tượng Phật giống nhau không đúng hình của đại diện cho
Tam Thế Tam Thiên Phật là Nhiên Đăng Phật (quá khứ), Thích Ca Mâu Ni Phật (hiện tại) và Di
Lặc Phật (tương lai). Chữ “Thế” ở đây có nghĩa là thế gian.
- Tam Thế Phật:
Dược Sư Phật (ở Thế giới Tịnh Độ Đông Phương), Thích Ca Mâu Ni Phật (ở Thế giới Ta
Bà) và A Di Đà Phật (ở Thế giới Tịnh Độ Tây Phương). Hình tượng Dược Sư Phật có cầm bình
thuốc và A Di Đà Phật có Di Đà Ấn nên khác với hình tượng của Thích Ca Mâu Ni Phật. Chữ
“Thế” ở đây có nghĩa là thế giới.
- Tứ Đại Bồ Tát:
Quan Thế Âm, Văn Thù, Phổ Hiền và Địa Tạng. Văn Thù và Phổ Hiền có khi thờ 2 bên
Thích Ca Mâu Ni Phật (Hoa Nghiêm Tam Thánh).
- Phật của tương lai: Phật Tiếu Di Lặc.
- Tịnh Độ Tông có Di Đà Tam Tôn:
A Di Đà Phật với Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát.
- Riêng tại Việt Nam có chùa thờ Tam Thế Phật là A Di Đà Phật (quá khứ), Thích Ca Mâu Ni
(hiện tại) và Di Lặc (tương lai).
*
Trong Chùa Phật Giáo Đại Thừa thường có những "Thiên" (Deva), là những vị Thần ở trên trời
gồm có Vi Đà Thiên (Skanda=Kumara=Kàrttikeya) và Tứ Đại Thiên Vương là 4 vị Thần Hộ
Thế.
Tứ Đại Thiên Vương (4 Lokapalas) = "Phong Điều Vũ Thuận"
Nam: Tỳ Lưu Đà Già (Virùdhaka) =Tăng Trưởng Thiên Vương
cầm kiếm. “Phong”. Thống lãnh 8 Thiên Tướng kể cả Vi Đà Thiên
Tây: Tỳ Lưu Bát Xoa (Vìrùpaksa) = Quảng Mục Thiên Vương
cầm vòng, rắn hay rồng. “Điều”
Bắc: Tỳ Sa Thiên (Vaisravana) = Đa Văn Thiên Vương
cầm dù hay tháp. “Vũ”
Đông: Đề Đa La Sa (Dhrtaràstra) =Trì Quốc Thiên Vương
cầm đàn. “Thuận”
Người Trung Quốc hòa nhập 4 Thiên Vương với 4 nhân vật (là 4 anh em) trong truyện Phong
Thần và dùng tên của 4 người nầy đặt cho 4 Thiên Vương:
Tăng Trưởng Thiên Vương tên là Ma Lý Thanh (anh cả)
Quảng Mục Thiên Vương tên là Ma Lý Hồng (anh thứ nhì)
Đa Văn Thiên Vương tên là Ma Lý Hải (anh thứ ba)
Trì Quốc Thiên Vương tên là Ma Lý Thọ (em út)
Danh Hiệu của Phật
Phật của Đại Thừa Hiển Giáo có 10 danh hiệu khác:
1. Như Lai (Tathàgata): đến và đi như thế.
Tathà=như thế
Gata=đi. Àgata=đến.
Tathà-gata=đi như thế=thus gone và Tathà-àgata=đến như thế=thus come.
Ý chỉ một người đã gặp hay đến từ Tathatà (=Chân Như=Absolute Truth / Ultimate
Truth=Thusness).
2. Tôn Giả (Arhat=Worthy of respect): người được tôn kính. Tiếng thường được dùng cho bậc A
La Hán hay La Hán (=Arhat).
3. Chính Biến Trí (Samyaksambuddha=Omniscient): người hiểu biết đúng tất cả các Pháp.
Samyak=chân chính, đúng đắn, tất cả
Sambuddha=am hiểu trọn vẹn.
Còn được hiểu là “người giác ngộ viên mãn”.
4. Minh Hạnh Túc (Vidyàcaranasampanna=Perfect in knowledge and conduct): người có đủ trí
tuệ và đức hạnh.
Vidyà=sự am hiểu, trí tuệ
Carana=đức hạnh
Sampanna=có được
5. Thiện Thệ (Sugata=Well departed): người đã đi trên con đường thiện.
Su=tốt đẹp
Gata=đã đi.
6. Thế Gian Giải (Lokavid=Understander of the world): người hiểu thấu thế gian.
Loka=thế giới, thế gian
Vid=am hiểu.
7. Vô Thượng (Anuttarapurusa=Unsurpassed): đấng tối cao không ai vượt qua.
Anutta=vô thượng, tốt nhất không ai hay cái gì vượt qua được
Purusa=một đấng, một bậc, một người.
8. Điều Ngự hay Điều Ngự Đại Trượng Phu (Purusadamyasàrathi=Controller of humans): người
đã điều phục được mình và nhân loại.
Purasa=một người, một bậc
Damya=có thể chế ngự điều phục được
Sàrathi=người cầm cương xe, hướng dẫn, lãnh đạo.
9. Thiên Nhân Sư (Sàstà-Devamanusyànàm=Teacher of gods and humans): bậc thầy của cõi
người và cõi trời.
Deva=thiên
Manusyànàm=con người
Sàstà=Thầy (sư).
10. Phật Thế Tôn (Buddhalokanàtha hay Buddhalokajyestha) hay Thế Tôn (Bhagavàn=World-
honored one).
Bhagavàn=người giác ngộ được thế gian tôn kính.
Buddhalokanàtha =Phật, vị chúa tể của thế giới.
Buddhalokajyestha =Phật, bậc ưu tú nhất của loài người, tối thượng (cao nhất) của thế
gian. (Buddha=Phật)
Hai danh hiệu thường dùng cho Phật là Như Lai (Tathàgata) và Thế Tôn (Bhagavàn). Thường
thì có thể dùng Như Lai thế cho Phật (thường thấy trong Mật Giáo) như A Di Đà Như Lai thay vì
A Di Đà Phật. Tuy nhiên chỉ có Đại Nhật Như Lai chứ không có thấy dùng Đại Nhật Phật (thế
bằng Tỳ Lô Giá Na Phật).
KIM CANG THỪA
Bàn thờ của Phật Giáo Tây Tạng Kim Cang Thừa phức tạp hơn của Phật Giáo Đại Thừa rất
nhiều: có nhiều Phật và Bồ Tát hơn, có thêm dạng "phẩn nộ" của Báo Thân với những Minh
Vương, Hộ Pháp và Giám Hộ (Hộ Thần). Ngay cả hình thức cũng khác: có thể có nhiều đầu,
nhiều tứ chi và có hình "yab-yum".
Tất cả những vị kể trên được gọi một danh hiệu chung là Deity (dịch theo các sách hiện đại là:
Thiên Thần).
Thuyết Tam Thân Phật và Bồ Tát
*
Sách "The Gods of Northern Buddhism" của Alice Getty tóm tắt thuyết Tam Thân của Kim Cang
Thừa:
Theo thời gian, Kim Cang Thừa biết được có 5 Thế Giới (5 Worlds) từ 1 đến 5 mà chúng ta hiện
đang sống ở Thế Giới thứ 4. Mỗi Thế Giới được tạo lập ra bởi 1 Pháp Thân Phật, khi Thế Giới
nầy suy tàn thì Thế Giới kế tiếp được tạo lập bởi 1 Pháp Thân Phật khác. Pháp Thân Phật khác
nầy chỉ là Hiện thân khác của một Bản Sơ Pháp Thân Phật (A Đề Phật).
Mỗi Thế Giới có Tam Thân (Trikàya): Pháp Thân Phật (Dharmakàya), Báo Thân Bồ Tát
(Sambhogakàya) và Ứng Thân Phật hay Hóa Thân Phật (Nirmanakàya).
- Pháp Thân Phật, hiện thân của Bản Sơ Pháp Thân Phật (A Đề Phật), tạo lập ra Thế Giới
và tạo ra Báo Thân Bồ Tát.
- Báo Thân Bồ Tát và Hóa Thân Phật giữ việc giáo hóa chúng sanh trong Thế Giới (để
đạt giác ngộ):
. Báo Thân Bồ Tát từ năng lực của A Đề Phật qua (hiện thân là) Pháp Thân Phật
sẽ tạo ra Hóa Thân Phật để giáo hóa. Khi Hóa Thân Phật qua đời thì Báo Thân Bồ Tát vẫn tiếp
tục giáo hóa cho đến khi Thế Giới nầy suy tàn và một Thế Giới tiếp theo được tạo lập.
. Báo Thân Bồ Tát cũng hiện thân thành Tulku (Chu cô) để giáo hóa chúng sanh.
Thí dụ như Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Quan Tự Tại Bồ Tát.
- Ứng Thân Phật hay Hóa Thân Phật là con người, có sắc thân, không hiện thân và trực
tiếp truyền bá và giáo hóa cho chúng sanh.
Đây là diễn tiến điển hình theo thời gian của 5 Thế Giới từ 1 đến 5:
1. Thế Giới thứ 1 gồm có:
Pháp Thân: Đại Nhật Như Lai = Tỳ Lô Giá Na Phật (Maha Vairocana Buddha).
Báo Thân và Hóa Thân: như là Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra Bodhisattva) và Câu
Lưu Tôn Phật (Krakucchanda Buddha).
2. Thế Giới thứ 2 gồm có:
Pháp Thân: A Xúc Phật = Bất Động Như Lai (Akshobhya Buddha).
Báo Thân và Hóa Thân: như là Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajrapani Bodhisattva) và Câu
Na Hàm Mâu Ni Phật (Kanakamuni Buddha).
3. Thế Giới thứ 3 gồm có:
Pháp Thân: Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava Buddha).
Báo Thân và Hóa Thân: như là Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapàni Bodhisattva) và Ca Diếp Phật
(Kàsyapa Buddha).
4. Thế Giới thứ 4 gồm có:
Pháp Thân: A Di Đà Phật (Amitabha Buddha / Amitayus Buddha).
Báo Thân và Hóa Thân: như là Quan Tự Tại Bồ Tát = Quan Thế Âm Bồ Tát
(Avalokitesvara Bodhisattva) và Thích Ca Mâu Ni Phật (Sakyamuni Buddha).
5. Thế Giới thứ 5 gồm có:
Pháp Thân: Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi Buddha).
Báo Thân và Hóa Thân: như là Song Kim Cương Thủ Bồ Tát (Visvapàni Bodhisattva) và
Di Lặc Phật (Maitreya Buddha).
Hiện tại chúng ta đang ở Thế Giới thứ 4:
đã được tạo lập bởi Pháp Thân là Phật A Di Đà
Hóa Thân là Phật Thích Ca Mâu Ni đã qua đời.
Báo Thân là Bồ Tát Quan Tự Tại hay Quan Thế Âm vẫn còn chủ trì việc giáo hóa chúng
sanh và Hiện thân của ngài là Đạt Lai Lạt Ma.
Tương lai là sẽ có Thế Giới thứ 5, thay thế Thế Giới thứ 4 nầy:
sẽ được tạo lập bởi Pháp Thân là Bất Không Thành Tựu Như Lai
sẽ có Báo Thân là Song Kim Cương Thủ Bồ Tát, ngài sẽ tạo ra vị Hóa Thân Phật làm
người mà trực tiếp truyền bá và giáo hóa chúng sanh, đó là Phật Di Lặc.
*
Từ đó ta suy ra thuyết Tam Thân của Kim Cang Thừa áp dụng vào Bàn Thờ của Phật Giáo Tây
Tạng:
Pháp Thân là Thiền Na Phật (kể cả Dược Sư Phật) với nguồn gốc là A Đề Phật.
Hóa Thân là Nhân Gian Phật (như Thích Ca Mâu Ni Phật)
Báo Thân là
Bồ Tát dưới dạng "Tịch Tĩnh Sa" (Sànta) từ bi trông hiền lành, thông thường như
các Bồ Tát của Đại Thừa Hiển Giáo (tuy lịch sử và hình tượng có khác) hay đặc biệt của Kim
Cang Thừa ở Tây Tạng và Nepal như Đa La (Tàrà).
Ngoài ra những Báo Thân còn xuất hiện dưới hình dạng "Phẫn Nộ" (Krodha)
trông dữ dằn, như là Minh Vương (Heruka), Thần Giám Hộ hay Hộ Thần (Yidam) và Hộ Pháp
(Dharmapala).
Như vậy Pháp Thân và Ứng Thân của Kim Cang Thừa giống với Hiển Giáo Đại Thừa nhưng
Báo Thân của Kim Cang Thừa thì hoàn toàn khác Hiển Giáo Đại Thừa.
Bàn thờ của Phật Giáo Tây Tạng Kim Cang Thừa phức tạp hơn của Phật Giáo Đại Thừa rất
nhiều: có nhiều Phật và Bồ Tát hơn, có thêm dạng "phẩn nộ" của Báo Thân với những Minh
Vương, Hộ Pháp và Giám Hộ (Hộ Thần). Ngay cả hình thức cũng khác: có thể có nhiều đầu,
nhiều tứ chi và có hình "yab-yum".
Tất cả những vị kể trên được gọi một danh hiệu chung là Deity (dịch theo các sách hiện đại là:
Thiên Thần).
Đạo Đế của Kim Cang Thừa không những chỉ dựa trên triết lý của giáo Pháp (Tập Đế) mà còn
dựa trên Thiên Thần như Thiên Thần Du Già (Deity Yoga).
Thiền Na Phật (Dhyàni Buddha)
(Ngũ Phương Phật = Dhyani Buddhas)
*
Ngũ Phương Thiền Na Phật
Bàn Thờ Phật chính của Kim Cang Thừa là Ngũ (5) Thiền Na Phật biểu hiện của Pháp Thân
(Phật). Còn gọi là Ngũ Ban Thiền Phật (5 Panchen Buddhas, theo từ ngữ của Tây Tạng).
Thường được gọi là Ngũ Phương Phật hay Ngũ Trí Phật.
Ngũ Thiền Na Phật ở ngũ (5) phương nên gọi là Ngũ Phương Phật tương ứng với Tứ Đại của
Kim Cang Thừa (Địa Thủy Hỏa Phong):
Phương Đông: A Xúc Phật = Bất Động Như Lai (Akshobhya) tượng hình màu Xanh Lam
tương ứng với Thủy. (Kim Cương Kiên Cố Tự Tính Thân)
Phương Nam: Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava) tượng hình màu Vàng tương ứng với Địa.
(Phúc Đức Trang Nghiêm Thánh Thân)
Phương Tây: A Di Đà Phật = Vô Lượng Quang Phật (Amitàbha) hoặc Vô Lượng Thọ
Phật (Amitayus) tượng hình màu Đỏ tương ứng với Hỏa. (Thụ Dụng Trí Tuệ Thân)
Phương Bắc: Tác Biến Phật = Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) tượng
hình màu Xanh Lục tương ứng với Phong. (Tác Biến Hóa Thân)
Trung Ương: Đại Nhật Như Lai (Vairocana or Mahavairocana) tượng hình màu Trắng
tương ứng với Không Đại. (Thường Trụ Tam Thế Diệu Pháp Thân)
Ngũ Phương Phật còn gọi là Ngũ Trí Phật tượng trưng cho 5 Trí Tuệ giác ngộ với Ngũ Ấn (5
Mudras) khác nhau:
Đại Viên Cảnh Trí: A Xúc Phật = Bất Động Như Lai (Aksobhya Buddha) ở phương
Đông với Xúc địa Ấn (Bhumispara mudra) dùng tay phải để trên đùi và bàn tay úp xuống chụm
đất để kêu gọi Địa cầu làm chứng và chống lại Sân giận.
Bình Đẳng Tánh Trí: Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava Buddha) ở phương Nam với Tam
Bố Thí Ấn hay Thí nguyện Ấn (Vara mudra) dùng tay phải để trên đùi và bàn tay ngửa lên tương
ứng với Từ thiện và Bố Thí và chống lại Kiêu ngạo.
Diệu Quang Sát Trí: A Di Đà Phật = Vô Lượng Thọ Quang Phật (Amitabha Buddha) ở
phương Tây với Thiền (Định) Ấn hay Di Đà Ấn (Dhyana mudra) dùng 2 tay để ngửa và đặt
trước bụng tương ứng với Thiền định chống lại Tham muốn.
Thành Sở Tác Trí: Tác Biến Phật = Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) ở
phương Bắc với Vô úy Ấn (Abhaya mudra) dùng tay phải đưa ra và lòng bàn tay thẳng hướng về
phía trước tương ứng với Dũng cảm và không Sợ hãi và chống lại Ghen tỵ.
Pháp Giới Thể Tính Trí: Tỳ Lô Giá Na Phật = Đại Nhật Như Lai (Vairocana) ở Trung
tâm đỉnh với Giáo Hóa Ấn (Vitarka mudra) tương ứng với Minh mẩn và Đức độ chống lại Vô
Minh và Chuyển Pháp Luân Ấn hay Thuyết Pháp Ấn (Dharmachakra mudra) dùng 2 bàn tay để
trước ngực.
Trước khi có thuyết A Đề Phật, Đại Nhật Như Lai (Vairocana) là lãnh tụ của 4 vị Thiền Na Phật
kia và nguồn gốc sinh ra tất cả chư Phật. Đại Nhật Như Lai là Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật
(Vairocana) của Đại Thừa Hiển Giáo từ Hoa Nghiêm Kinh. Tuy cùng là "Gốc" của chư Phật,
Đại Nhật Như Lai của Mật Giáo được biết từ kinh chánh của Mật Giáo là Đại Nhật Như Lai
Kinh.
*
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (Bhaisajyaguru-Vaidurya-Prabhasa-Tathagata)
Đôi khi Dược Sư Phật thay thế A Xúc Phật hay Bất Động Như Lai ở Đông Phương trong Ngũ
Phương Phật (Dhyani Buddhas). Do đó thân hình của Dược Sư Phật cũng có màu xanh lam.
(Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai)
Dược Sư Phật (Bhaisajyaguru) cũng được tôn thờ như Đại Thừa Hiển Giáo nhưng thường biết
dưới tên Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật (Bhaisajyaguruvaiduryaprabharaja) hay Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai (Bhaisajyaguru-Vaidurya-Prabhasa-Tathagata).
Theo Phật Giáo Tây Tạng thì có tất cả 8 “Dược Sư Phật” (Medicine Buddhas) là những vị Phật
chữa bệnh cho chúng sanh hay cầm bình thuốc: Suparikirtitanamashri, Svaraghosha,
Suparnabhadra, Ashokattamashri, Dharmakirtisaraghosha, Abhijnaraja,
Bhaisajyaguruvaiduryaprabharaja (Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật), Shrijing shakyamuni
(Thích Ca Mâu Ni Phật). "Dược sư" là Hán ngữ, dịch ra tiếng Nôm là "Thầy thuốc".
A Đề Phật (Àdi Buddha)
A Đề Phật (Àdi Buddha) là nguồn gốc của chư phật. Từ A Đề Phật có Hiện thân là 5 Pháp Thân
là Ngũ Phương Thiền Na Phật nói trên (kể cả Đại Nhật Như Lai).
A Đề Phật còn gọi là Bản Sơ Phật, Tối Thắng Phật hay Tối Thượng Thắng Phật.
A Đề Phật có Danh hiệu là:
Phổ Hiền (Samantabhadra) hay Pháp Thân Phổ Hiền (Dharmakaya Samantabhadra) theo
phái Cựu Dịch (phái Nyingma).
Kim Cương Hữu Tình (Vajrasattva) hay Kim Cương Trì (Vajradhara) theo phái Tân
Dịch.
A Đề Phật không được Chân Ngôn Tông (của Nhật Bản) và Mật Tông (của người Hoa) công
nhận. Hai Tông nầy vẫn giữ Đại Nhật Như Lai là nguồn gốc của chư Phật.
(Kim Cương Trì = Vajradhara)
Nhân Gian Phật (Manushi Buddhas)
Theo thuyết Tam Thân thì có 5 Ứng Thân Nhân Gian Phật (Manushi Buddhas) tương ứng với 5
Pháp Thân Thiền Na Phật (Dhyani Buddhas) theo thứ tự thời gian:
(Nhân Gian Phật) (Thiền Na Phật)
Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda) ............. Đại Nhật Như Lai (Mahavairocana)
Câu Na Hàm Mâu Ni Phật (Kanakamuni) ... Bất Động Như Lai (Akshobhya)
Ca Diếp Phật (Kàsyapa) ............................... Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava)
Thích Ca Mâu Ni Phật (Sakyamuni) ............ A Di Đà Phật (Amitabha hay Amitayus)
Di Lặc Phật (Maitreya) ................................. Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi)
Bồ Tát (Bodhisattva)
*
Thiền Na Bồ Tát (Dhyani Bodhisattvas)
Như trên, Kim Cang Thừa có 5 vị Báo Thân Thiền Na Bồ Tát tương ứng với 5 vị Pháp Thân Ngũ
Phương Thiền Na Phật và 5 vị Ứng Thân Nhân Gian Phật.
Đây cũng là sắp hạng theo thứ tự thời gian:
(Thiền Na Bồ Tát) (Thiền Na Phật)
Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra) .......................................... Đại Nhật Như Lai
Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajrapani) ....................................... Bất Động Như Lai
Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapàni) .................................................... Bảo Sinh Phật
Quan Tự Tại = Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) .......... A Di Đà Phật
Song Kim Cương Thủ Bồ Tát (Visvapàni/Visva-vajrapani) .... Bất Không Thành Tựu Như Lai
Tuy nhiên Kim Cang Thừa cũng thờ 8 vị Đại Bồ Tát (Bát Đại Bồ Tát) chia làm 2 nhóm:
(Nhóm 1)
Quan Tự Tại = Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara)
Hư Không Tạng Bồ Tát (Akàsagarbha)
Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajrapani)
Địa Tạng Bồ Tát (Kshitigarbha)
(Nhóm 2)
Trừ Cái Chướng Bồ Tát (Sarva-nìvarna-vishkhambhin)
Di Lặc Bồ Tát (Maitreya)
Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra)
Văn Thù Bồ Tát (Manjusri)
(Văn Thù Bồ Tát)
Văn Thù Bồ Tát theo Kim Cang Thừa thì không phải ở Ngũ Đài Sơn như Đại Thừa Hiển Giáo
mà có những sự tích lịch sử khác.
Theo truyền thuyết, Văn Thù Bồ Tát đến Nepal từ Trung Quốc trên 2000 năm về trước để
thờ A Đề Phật. Ngài làm cạn nước của hồ Nagadah để tạo nên thung lũng Kathmandu của Nepal
bây giờ nên chúng sinh trồng trọt cày cấy được.
Hình tượng không có cưỡi Sư Tử nhưng thường là “cầm kiếm”.
Theo Kim Cang Thừa, Phổ Hiền (Samantabhadra) là tên của Bồ Tát Phổ Hiền trong 8 vị Đại Bồ
Tát nhưng được biết nhiều hơn là Pháp Thân Phổ Hiền của A Đề Phật.
*
Quan Tự Tại (Avalokitesvara hay Avalokiteshvara)
Đạt Lai Lạt Ma là Hiện thân của Avalokiteshvara (Quan Tự Tại), vị Bồ Tát được kính mến nhất
của Phật Giáo Tây Tạng với biệt hiệu là Bồ Tát của Từ Bi (Bodhisattva of Compassion).
Người Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam thường gọi ngài là Quan Thế Âm.
Avalokiteshvara còn đôi khi gọi là Lokesvara hay Lokeshvara (Thế Tự Tại Vương). Ngài luôn
luôn thuộc Nam Giới trong Mật Giáo Ấn Độ và Kim Cang Thừa Phật Giáo Tây Tạng.
- Avalokiteshvara (Quan Tự Tại) lúc đầu của Mật Giáo ở Ấn Độ có 1 đầu và 2 cánh tay như hình
người thường.
Những hình tượng ngày nay thường tìm thấy ở ngoài Ấn Độ thường ở Nepal và Tây Tạng lẫn lộn
với Kim Cang Thừa:
Padmàni (Liên Hoa Thủ): Đứng hay Ngồi (royal ease). Padmàni với hóa thân của 12 Bồ
Tát
Avalokita: Ngồi (legs locked)
Lokesvara hay Lokeshvara (Thế Tự Tại Vương) ở Cambodia
Simhanàda-Avalokitesvara hay Simhanàda-Lokesvara (Sư Tử Hống): Ngồi trên Sư Tử.
Simhanàda-Lokesvara với hóa thân của 5 vị Phật
Nìlakanthàtyàvalokitesvara (Thanh Cảnh Quan Tự Tại)
Trailokyavasankara-Lokesvara
Harihariharivàhanobdhava-Lokesvara-Avalokita
(Shadakshari Avalokiteshvara: Hiện thân là Đạt Lai Lạt Ma)
- Avalokitesvara (Quan Tự Tại) của Phật Giáo Tây Tạng có 4 cánh tay hay nhiều hơn với những
hình tượng khác nhau:
Shadakshari (Lục Vận Thần Chú): Hiện Thân là Đạt Lai Lạt Ma có 4 cánh tay
Amoghapàsa (Bất Không Quyện Sách Quan Tự Tại): có 20 cánh tay
Namasangìti (dogmatic form): có 12 cánh tay
Trikaya Avalokitesvara (Tam Thân Quan Tự Tại): có 24 cánh tay
Ekadasamukha (Thập Nhất Diện): có 11 diện (mặt) và thường có 8 cánh tay. Có khi có
10 diện với đầu của A Di Đà Phật ở trên chóp đỉnh và 22 cánh tay
Sahasrabhùja (Thiên Thủ): có 1000 cánh tay và thường cũng có 12 diện (mặt). Nếu có
1000 cánh tay và 1000 con mắt thì gọi là Sahasrabhùja Sahasranetra (Thiên Thủ Thiên Nhãn).
Hình Tượng Khác: Rakta-Lokesvara, Padmanartesvara, Màyàjàlakramàryàvalokitesvara,
Halahala-Lokesvara.
*
Nữ Bồ Tát của Phật Giáo Tây Tạng
Tất cả Bát Đại Bồ Tát điển hình của Kim Cang Thừa kể cả Quan Tự Tại (Avalokitesvara) đều
mang hình tượng của đàn ông. Tuy nhiên Kim Cang Thừa cũng có 3 Nữ Bồ Tát chính:
1. Tàrà (Đa La hay Độ Mẫu)
2. Prajnàpàramità (Bát Nhã Ba La Mật Đa): Bồ Tát của kinh Bát Nhã.
3. Cundà = Cuntì (Chuẩn Đề hay Chuẩn Chi): Chuẩn Đề được cho là hóa thân của Kim
Cương Hữu Tình Phật nên còn gọi là Phật Mẫu (mẹ của chư Phật). Ở Trung Quốc và Nhật Bản,
Chuẩn Đề được coi như là một Quan Âm (Chuẩn Đề Quan Âm).
Tàrà (Đa La): có nghĩa là “Nữ Cứu Thế” hay “Độ Mẫu” gồm có 21 Tàrà, đáng kể là:
Sita Tàrà (Bạch Độ Mẫu): Bồ Tát của Từ Bi, Trường Thọ, Lành Bệnh và An Tịnh
Syàma Tàrà (Lục Độ Mẫu): Bồ Tát của Giác Ngộ
Bhrikutì (Hoàng Độ Mẫu): Bồ Tát của Lộc (giàu và trù phú)
Ekajatà = Urga Tàrà (Lam Độ Mẫu): BồTát của Năng Lực và sức mạnh
Kurukulla (Hồng Độ Mẫu): Bồ Tát của Phước, còn là Nữ Tài Thần
(Lục Độ Mẫu) (Bạch Độ Mẫu)
Hai Tàrà chính là:
Lục Độ Mẫu (Syàma Tàrà = Blue Tàrà) phát sinh từ giọt nước mắt bên phải của A Di Đà
Phật và có hiện thân là Công chúa Tritsum của Nepal
Bạch Độ Mẫu (Sita Tàrà = White Tàrà) phát sinh từ giọt nước mắt bên trái của A Di Đà
Phật và có hiện thân là Công chúa Wencheng (Văn Thành) của Trung Quốc (cháu của Hoàng Đế
Đại Đường).
Vua Songtsen Campo (trị vì: 617-649) thống nhất Tây Tạng (lúc đó gọi là Thổ Phồn) và chiếm
đất của Trung Quốc và Nepal. Tương truyền Vua kết hôn với Công chúa của 2 nước nầy: 2
Công chúa Wencheng (Văn Thành) và Tritsum đem Phật Giáo vào Tây Tạng.
Minh Vương (Heruka = Vidyàraja)
Minh Vương=Wisdom Kings=Vidyàràja (tiếng Phạn) = Heruka (tiếng Tây Tạng).
Minh Vương rất phổ thông trong Mật Tông và Chân Ngôn Tông nhưng vẫn có tôn thờ trong Kim
Cang Thừa.
*
Minh Vương, là Bồ Tát thể hiện “Phẫn Nộ” từ Thiền Na Phật hay là dạng “Phẫn Nộ” (Krodha)
của Bát Đại Bồ Tát gọi tắt là Giáo Lệnh Luân Thân của Phật hay Bồ Tát.
Minh Vương đều thuộc Nam giới.
Theo lý luận của Mật Giáo, chư Phật có thể hiển hóa thành: Tự Tính Luân Thân, Chính Pháp
Luân Thân và Giáo Lệnh Luân Thân.
Gọi Tự Tính Luân Thân là Pháp Thân tự tính của chư Phật tức là chân thân của chư Phật.
Gọi Chính Pháp Luân Thân là chư Phật hiển hóa thành Bồ Tát để giáo hóa chúng sinh,
lấy chính pháp độ nhân.
Gọi Giáo Lệnh Luân Thân là Bồ Tát chịu giáo lệnh của Phật mà hóa hình tướng dũng
mãnh phẫn nộ trông dễ sợ làm chúng sinh hốt nhiên tỉnh ngộ phá mê chướng của Tam Độc
(Tham, Sân, Si).
Có 1 Minh Vương đầu tiên không có dạng phẫn nộ là Khổng Tước Minh Vương (Mahàmàyuri).
*
Nhóm Ngũ Đại Minh Vương nầy là giáo lệnh luân thân của 5 vị Thiền Na Phật:
Bất Động Tôn Minh Vương (Acalanàtha)
Giáo lệnh luân thân của Đại Nhật Như Lai (Vairocana)
Hàng Tam Thế Minh Vương (Trailokyavijaya)
Giáo lệnh luân thân của Bất Động Như Lai (Akshobhya)
Quân Trà Lợi Minh Vương (Kundalì)
Giáo lệnh luân thân của Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava)
Đại Uy Đức Minh Vương (Yamantaka=Diêm Mạn Đức Già)
Giáo lệnh luân thân của A Di Đà Phật
Kim Cang Dạ Xoa Minh Vương (Vajrayaksa)
Giáo lệnh luân thân của Bất Không Thành Tựu P. (Amoghasiddhi)
*
Nhóm Bát Đại Minh Vương nầy là giáo lệnh luân thân của nhóm 8 Thiền Na Bồ Tát:
Mã Đầu Minh Vương (Hayagrìva)
Giáo lệnh luân thân của Quan Tự Tại=Quan Thế Âm (Avalokitesvara)
Đại Tiếu Minh Vương (Matarah)
Giáo lệnh luân thân của Hư Không Tạng (Akàsagarbha)
Hàng Tam Thế Minh Vương (Trailokyavijaya hay Vishuddha hay Sri-Samyak)
Giáo lệnh luân thân của Kim Cương Thủ (Vajrapani)
Vô Năng Thắng Minh Vương (Lokastotrapuja)
Giáo lệnh luân thân của Địa Tạng (Kshitigarbha)
Bất Động Tôn Minh Vương (Acalanàtha hay Vajrakilaya)
Giáo lệnh luân thân của Trừ Cái Chướng (Sarvanìvaranavishkhambhin)
Đại Luân Kim Cang Minh Vương (Mahàcakravajra hay Vajramantrabhiru)
Giáo lệnh luân thân của Di Lặc (Maitreya)
Trịch Kim Cang Minh Vương (Padanaksipa hay Vajramrita)
Giáo lệnh luân thân của Phổ Hiền (Samantabhadra)
Đại Uy Đức Minh Vương (Yamàntaka=Diêm Mạn Đức Già)
Giáo lệnh luân thân của Văn Thù (Manjusri)
(Minh Vương)
Những Minh Vương khác:
Khổng Tước Minh Vương (Mahàmajùri=Mayùraràja=Mayurasana) là giáo lệnh luân thân
của Thích Ca Mâu Ni Phật. Mahamajùri còn là 1 trong Ngũ La Sát (Raksas) của Mật Giáo.
Hộ Pháp (Dharmapàla)
*
Cũng là Báo Thân như Bồ Tát, nhưng Hộ Pháp là những vị hình thù phẫn nộ giận dữ phá những
chướng ngại (kể cà nội thân tâm) để giúp chúng sinh giác ngộ.
Hộ Pháp cũng giống như Minh Vương nhưng chỉ có ở Tây Tạng và Népal mà thôi.
Đầu tiên là được biết với nhóm “8 terrible ones”(8 Thiên Thần khủng khiếp):
Kaladevì: Tiếng Tây Tạng gọi là Palden Lha-mo.
Brahmà (Phạm Thiên): Tiếng Tây Tạng gọi là Tsangs-Pa
Beg-tse: Thần Chiến Tranh, tiếng Tây Tạng.
Yama (Diêm La Vương)
Kuvera/Vaisravana (Tài Thần/Tỳ Sa Thiên). Tiếng Tây Tạng gọi là Jambala
Hayagrìva (Bí Mật Mã Đầu Kim Cang)
Mahakàla (Đại Hắc Vương)
Yamàntaka (Diêm Mạn Đức Già)
Theo truyền thống, Palden Lhamo, Hộ Pháp (Dharmapala) ở hồ thánh Lhamo La-tso tự nguyện
là bà sẽ bảo hộ dòng hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma.
(Đại Hắc Vương = Mahakàla)
Danh sách các Hộ Pháp theo học giả Vessantara của Phật Giáo Tây Tạng:
Yamantaka (Destroyer of Yama)
Mahakàla
Shridevi (Paldan Llamo)
Của phái Nyingma: Rahula or Za (Destroyer of Rahu), Ekajata or Ekajati (f), Vajrasadhu.
Dvarapalas: 4 gate keepers=Vijaya, Yamantaka, Hayagriva, Amritakundalin
Danh sách các Hộ Pháp ngày nay theo Wikipedia:
Brahma (Phạm Thiên); Hayagrìva (Bí Mật Mã Đầu Kim Cang); Kurukulla (?);
Mahakàla=Mahakàli (Đại Hắc Vương); Yamàtanka (Diêm Mạng Đức Già); Vaisravana=Kuvera
(Tỳ Sa Thiên=TàiThần); Yama (Diêm La Vương)
Ekajatì; Kalarupa; Maharakta; Takkiraja; Prana Atma
Shridevi (Lha-mo); Kaladevi (Paldan Llamo); Dorje Shugden.
(Yamatanka, Kalarupa và Shridevi đều là hiện thân của Văn Thù Bồ Tát).
*
Dakini (Không Hành Nữ)
(Dakini = Không Hành Nữ)
Dakini dịch nghĩa là Không Hành Nữ (Skygoer or "She who goes through the Air").
Những Dakini là một nhóm Thiên Thần có chung đặc tính: là phái nữ, thường hay lõa thể và bay
trên trời. Dakini bay nhanh "như chớp" (in a flash) nên vượt qua tất cả chướng ngại (trong thế
tục) để giúp chúng sinh giác ngộ.
Những Dakini xuất hiện trong "3 cội rễ" (The Three Roots) của Kim Cang Thừa là Guru (Đạo
Sư), Yidam (Hộ Thần) và Hộ Pháp (Dharmapala).
Thường Dakini là Hộ Pháp.
Trong Thiên Thần Du Già, có khi Dakini là Guru (Đạo Sư) dạy cho Du Già sư hay có khi
là Hộ Thần (Yidam) như những Kim Cương Không Hành Nữ (Vajradakini), trong số đó có Dorje
Neljorma.
Một Dakini được biết trong lịch sử là Yeshe Tsogyal, consort của Padmasambhava (Liên Hoa
Sinh). Có thể nói Dakini xuất xứ từ Padmasambhava (Liên Hoa Sinh).
Hộ Thần = Thần Giám Hộ (Ishta-Devatà = Yidam)
Hộ Thần là Thiên Thần (Deity = Deva) được dùng là mục tiêu quán tưởng để đồng nhất trong
Thiên Thần Du Già.
Tiếng Phạn của Hộ Thần, Ishta Devata, đã mang ý nghĩa nầy. "Ishta Devatà" (= Hộ
Thần) là "Devatà" (= vị Thần) được Du Già sư "ishta" (= ước nguyện) để đồng nhất với vị Thần
nầy.
Tiếng Tây Tạng của Hộ Thần là Yidam, có nghĩa đen là "Bản Tôn" hay "Thần Thể".
Hộ Thần được dùng trong với Thiên Thần Du Già (Deity Yoga).
Có tất cả 15 chương trình Thành Tựu Pháp (Sàdhanas) của Vô Thượng Du Già (Thiên Thần Du
Già từ Nội Tantras), mỗi cái liên hệ với một Thiên Thần hay Hộ Thần (Yidam) riêng biệt.
Những Hộ Thần (Yidam) nầy là những Thiên Thần dùng cho Quán tưởng (visualise) trong Thiên
Thần Du Già.
Hộ Thần có thể là từ Pháp Thân hay Báo Thân của Tam Thân nhưng không là từ Ứng Hóa Thân
(Nhân Gian Phật). Ngoài ra có 5 Hộ Thần chỉ đơn thuần là Hộ Thần (mang tên của 5 Tantras
của Vô Thượng Du Già), cũng xem như Báo Thân.
Những Hộ Thần (Yidam):
- Từ Phật:
A Đề Phật: Vajrasattva
Ngũ Phương Phật: Vairocana, Akshobhya, Ratnasambhava, Amitabha/Amitàyus,
Amoghasiddhi
Dược Sư Phật (= Bhaisajyaguru)
- Từ Bồ Tát:
Vajrapàni, Tàrà, Nìlakantha Avalokitesvara
Manjusri (Văn Thù Bồ Tát): gọi là Manjuvajra (Văn Thù Kim Cương)
- Từ Minh Vương (= Heruka)
- Từ Hộ Pháp (Dharmapala)
Mahàkàla (Đại Hắc Vương)
Hayagrìva (Bí Mật Mã Đầu Kim Cang)
Mahàmayà (Đại Huyển Kim Cang)
Sùrangama
Sitàtapatrà (white parasol)
- Từ Không Hành Nữ (Dakini):
Vajradakini (Kim Cương Không Hành Nữ) như Dorje Neljorma.
(Mandala của Thời Luân Pháp Vương / Kalacakra trong tư thế Yab-yum với Shakti)
- 5 Yidams riêng của 5 Vô Thượng Du Già Tantras chính:
1. Từ Guhyasamàja Tantra (Bí Mật Hội Tantra = Esotic Community Tantra) có
Guhyasamaja = Guhyapati (Quan Tự Tại Bí Mật Phật). Tiếng Tây Tạng gọi là Sangdu or
Sangdui.
2. Từ Yamàntaka Tantra (Diêm Mạn Đức Già Tantra) có Yamàntaka; dịch âm là Diêm
Mạn Đức Già, dịch nghĩa là người chinh phục được cái chết (Death Conqueror). Trong phái
Gelug còn có hình dạng khác gọi là Vajrabhairava (= Vajra Terrifier).
3. Từ Hevajra Tantra = O' Vajra' Tantra (Hô Kim Cang Tantra) hoặc Mahamaya Tantra
(Đại ảo kịch Tantra = Great play of illusion Tantra) có Hevajra = Vajra-Heruka (Hô Kim Cang).
4. Từ Cakrasamvara Tantra (Diệu Lạc Luân Tantra = Wheel of great bliss Tantra) có
Samvara (Tam Pha La) = Cakrasamvara (Diệu Lạc Luân) = Heruka Chakrasamvara (Diệu Lạc
Luân Minh Vương). Cakrasamvara có consort trong tư thế yab-yum (trong Tantra) là
Vajravàràhi hay Dorje Pakmo, một Vajrayoginì (Kim Cương Không Hành Nữ trong hình thức
phẫn nộ).
5. Từ Kàlacakra Tantra (Thời Luân Tan Tra = wheel of time Tantra) có Kàlacakra
(Chuyển Luân Pháp Vương hay Thời Luân Pháp Vương).
Consort và Yab-Yum
*
Yab-Yum là tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn là Yuganaddha. Nó dịch theo nghĩa đen là "Phụ-Mẫu"
(Father-Mother).
(Tượng Yab-Yum)
(Yab-Yum trong Thangka)
Yab-Yum thường thấy trong hình tượng Kim Cang Thừa trình bày nam thần nữ thần trong tư thế
giao hợp (đứng hay ngồi). Hình tượng của các Phật, Bồ Tát và Hộ Thần (thường là nam giới)
thường có tư thế “yab-yum” với một “Quyến thuộc nữ nhân” (Shakti = Sakti = Consort).
Yab-Yum biểu tượng sự kết hợp nguyên thủy của Trí Tuệ (wisdom) và Từ Bi (compassion). diễn
tả một Thiên Thần nam giới trong thế giao hợp với consort nữ giới của mình. Người Nam đại
diện Tử Bi và Phương Tiện Thiện Xảo (skillful means) trong khi đó người nữ đại diện cho Trí
Tuệ.
Ngũ Phương Phật và A Đề Phật đều có Shakti của mình:
(Phật) (Consort = Shakti)
Đại Nhật ........................... Sita Tàrà (Bạch Độ Mẫu)
A Di Đà ............................ Pandara
Bất Động NL .................... Locana
Bất Không Thành Tựu ..... Syama Tàrà (Lục Độ Mẫu)
Bảo Sinh ........................... Mamaki
A Đề Phật Phổ Hiền ......... Samantabhadri
A Đề Phật Vajradhara ....... Vajrayogini (Vajravarahi)
Các Yidam chính trong 5 Tantras là Hevajra (Hô Kim Cương), Cakrasamvara (Diệu Lạc Luân
Minh Vương), Kàlacakra (Thời Luân Pháp Vương), Guhyasamaja (Quan Tự Tại Bí Mật Phật) và
Yamantaka (Diêm Mạn Đức Già) đều có Consort (Sakti) riêng của mình với tư thế Yab-Yum
trong hình tượng.
*
Như là 1 trong những Sàdhana (Thành Tựu Pháp), (thế) Yab-Yum của Du Già sư giống như một
loại Mudra gọi là Karmamudrà (Action Seal) là phương pháp tu tập liên quan tới một đồng bạn
thể xác. Nó được dùng trong Thành Tựu Vị (giai đoạn hoàn thành) của Thiên Thần Du Già để
kiểm soát phong khí tạo thành Thân Tinh Tế hay tạo thành Tâm Diệu Lạc (Bliss) từ "bất nhị"
(non-duality).
Trong kinh văn có thuật lời của Tilopa dạy Naropa (phái Kagyu) về phương pháp Yab-Yum:
Khi ngươi nhờ vào một consort, trí tuệ của diệu lạc trống không sẽ sinh khởi, như thế cứ
đi vào giao hợp - sự ban phước của phương tiện và trí tuệ. Đem nó xuống chầm chậm, giữ nó,
đảo ngược nó và kéo nó lên lại. Đem nó tới những chỗ trong thân thể và để cho lan tràn ra khắp
nơi. Khi ngươi không bị ràng buộc bởi tính dục (desire), trí tuệ của diệu lạc trống không sẽ hiện
ra.
Loại Sàdhana Yab-Yum nầy (Karmamudrà) rất hiếm được dùng trong Thiên Thần Du Già,
thường là cho Du Già sư của phái Nyingma và Kagyu sống ngoài tu viện.
CHƠN NGÔN TÔNG VÀ MẬT TÔNG
Cùng một nguồn gốc là Mật Gáo ở Ấn Độ, Chơn Ngôn Tông ở Nhật Bản và Mật Tông của người
Trung Hoa ở Đài Loan hay Đông Nam Á có những khác biệt trong giáo lý và trong sự thờ
phượng.
Bàn Thờ của Chơn Ngôn Tông ở Nhật Bản có những khác biệt với Kim Cang Thừa của Phật
Giáo Tây.
Đại Nhật Như Lai
*
Chơn Ngôn Tông và Mật Tông cũng thờ Ngũ Phương Phật nhưng không thờ A Đề Phật. Đại
Nhật Như Lai (Mahavairocana Tathàgata) là nguồn gốc và lãnh tụ của Ngũ Phương Phật.
Chơn Ngôn Tông có 2 Mandala chính là Kim Cang Giới (Vajradhàtu Mandala) và Thai Tạng
Giới (Garbhadhàtu Mandala).
Mandala Kim Cang Giới có Ngũ Phương Phật với Đại Nhật Như Lai ở chính giữa. Ngũ Phương
Phật giống tên như Kim Cang Thừa.
Mandala Thai Tạng Giới cũng có Đại Nhật Như Lai ở giữa với 4 Phương Phật (đổi tên khác) và
còn thêm 4 Đại Bồ Tát:
Đại Nhật Như Lai (Mahavairocana Tathàgata.)
Bảo Tràng Sanh Như Lai (Ratnaketu Tathàgata.)
Khai Phu Hoa Vương Như Lai (Samkusumita-Ràja-Tathàgata.)
Vô Lượng Thọ Như Lai (Amitayus Tathàgata.)
Thiên Cổ Lôi Như Lai (Divyadumubhi-Meghanizghosa Tathàgata.)
Cùng với 4 Bồ Tát: Quan Âm, Văn Thù, Phổ Hiền và Di Lặc.
(Thai Tạng Giới Mandala)
*
Đại Nhật Như Lai là vị Phật chánh của Chơn Ngôn Tông (và Mật Tông).
Theo Chơn Ngôn Tông và Mật Tông, Đại Nhật Như Lai cũng là Pháp Thân và là nguồn gốc của
chư Phật và chư Bồ Tát. Tuy nhiên Đại Nhật Như Lai có từ Đại Nhật Như Lai Bản Sinh Kinh
của Chơn Ngôn Tông và Mật Tông (chứ không dựa theo Hoa Nghiêm kinh như Đại Thừa Hiển
Giáo).
Todaji (Đông Đại Tự) ở Kyoto, Nhật Bản có tượng Đại Nhật Như Lai bằng đồng nổi tiếng ngồi
giữa 2 Thị giả là Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) và Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajrapani).
(Đại Nhật Như Lai=Tỳ Lô Giá Na Phật=Birushana Butsu=Vairocana)
Quan Âm
Ở Nhật Bản, Avalokiteshvara là Quan Thế Âm thuộc nữ giới, gọi tắt là Quan Âm, kể cả trong
Chơn Ngôn Tông. Tuy nhiên trong Chơn Ngôn Tông còn có khi dùng danh hiệu Quan Tự Tại.
Các danh hiệu Quan Âm của Chơn Ngôn Tông ở Nhật Bản:
- Quan Âm Viện:
Bạch Y Quan Âm (Pànduravàsini)
Bạch Thân Quan Tự Tại (Svetabhagavati)
Cát Tường Đại Minh Quan Tự Tại (Srimahàvidya)
Đại Tùy Cầu Bồ Tát (Mahàpradisàra)
Mã Đầu Quan Âm (Hayagriva)
Chuẩn Đề Quan Âm (Cundi)
Bất Không Quyện Sách Quan Âm (Amoghapasa)
Như Ý Luân Quan Âm (Cintamanichakra)
Bi Diệp Y Quan Âm (Pàlàsambari)
Tùy Lý Câu Đê Bồ Tát (Bhrkuti)
Thủy Cát Tường Bồ Tát (Aryaryudakasri)
- Hư Không Tạng Viện:
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm (Sahasrabhùja Sahasranetra)
Phẫn Nộ Câu Quan Tự Tại (Amoghakrodhajnasaraja)
Bất Không Câu Quan Tự Tại (Ayàmoghajnasa)
- Tô Tất Địa Viện
Thập Nhất Diện Quan Âm (Ekadasamukha)
Thanh Cảnh Quan Âm (Nìlankantì)
Hưng Vương Quan Âm (Gandharàja)
A Ma Hai Quan Âm (Abhetri)
Thủy Nguyệt Quan Âm (Dakacadra)
Mật Tông Quan Âm của người Hoa ở Đông Nam Á:
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm (Sahasrabhùja Sahasranetra)
Thập Nhất Diện Quan Âm (Ekàdasamukha)
Như Ý Luân Quan Âm (Cintàmanicakra)
Bất Không Quyện Sách Quan Âm (Amoghapàsa)
Mã Đầu Quan Âm (Hayagrìva)
Chuẩn Đề Quan Âm (Cundì)
Tùy Lý Câu Đê Quan Âm (Bhrkutì): Quan Âm “nhíu mày” chỉ có ỏ Nhật Bản.
Minh Vương (Wisdom King = Vidyàraja)
Chơn Ngôn Tông và Mật Tông đề cao lý thuyết và tôn thờ Minh Vương nhiều hơn là Kim Cang
Thừa nhưng không có thờ Hộ Pháp và Hộ Thần (do đó không có consort và yab-yum).
Lý thuyết về Minh Vương:
Minh Vương, là Bồ Tát thể hiện “Phẫn Nộ” từ Thiền Na Phật hay là dạng “Phẫn Nộ”
(Krodha) của Bát Đại Bồ Tát gọi tắt là Giáo Lệnh Luân Thân của Phật hay Bồ Tát. Minh Vương
đều thuộc Nam giới.
Chư Phật có thể hiển hóa thành: Tự Tính Luân Thân, Chính Pháp Luân Thân và Giáo
Lệnh Luân Thân. Gọi Tự Tính Luân Thân là Pháp Thân tự tính của chư Phật tức là chân thân
của chư Phật. Gọi Chính Pháp Luân Thân là chư Phật hiển hóa thành Bồ Tát để giáo hóa chúng
sinh, lấy chính pháp độ nhân. Gọi Giáo Lệnh Luân Thân là Bồ Tát chịu giáo lệnh của Phật mà
hóa hình tướng dũng mãnh phẫn nộ trông dễ sợ làm chúng sinh hốt nhiên tỉnh ngộ phá mê
chướng của Tam Độc (Tham, Sân, Si).
Có 1 Minh Vương đầu tiên không có dạng phẫn nộ là Khổng Tước Minh Vương
(Mahàmàyuri).
Nhóm Bát Đại Minh Vương nầy là giáo lệnh luân thân của nhóm 8 Thiền Na Bồ Tát:
Mã Đầu Minh Vương (Hayagrìva)
Giáo lệnh luân thân của Quan Tự Tại/Quan Thế Âm (Avalokitesvara)
Đại Tiếu Minh Vương (?)
Giáo lệnh luân thân của Hư Không Tạng (Akàsagarbha)
Hàng Tam Thế Minh Vương (Trailokyavijaya)
Giáo lệnh luân thân của Kim Cương Thủ (Vajrapani)
Vô Năng Thắng Minh Vương (?)
Giáo lệnh luân thân của Địa Tạng (Kshitigarbha)
Bất Động Tôn Minh Vương (Acalanàtha)
Giáo lệnh luân thân của Trừ Cái Chướng (Sarvanìvaranavishkhambhin)
Đại Luân Kim Cang Minh Vương (Mahàcakravajra)
Giáo lệnh luân thân của Di Lặc (Maitreya)
Trịch Kim Cang Minh Vương (Padanaksipa)
Giáo lệnh luân thân của Phổ Hiền (Samantabhadra)
Đại Uy Đức Minh Vương (Yamàntaka=Diêm Mạn Đức Già)
Giáo lệnh luân thân của Văn Thù (Manjusri)
Nhóm Ngũ Đại Minh Vương nầy là giáo lệnh luân thân của 5 vị Thiền Na Phật:
Bất Động Tôn Minh Vương (Acalanàtha)
Giáo lệnh luân thân của Đại Nhật Như Lai (Vairocana) (*)
Hàng Tam Thế Minh Vương (Trailokyavijaya)
Giáo lệnh luân thân của Bất Động Như Lai (Akshobhya)
Quân Trà Lợi Minh Vương (Kundalì)
Giáo lệnh luân thân của Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava)
Đại Uy Đức Minh Vương (Yamantaka=Diêm Mạn Đức Già) (**)
Giáo lệnh luân thân của A Di Đà Phật
Kim Cang Dạ Xoa Minh Vương (Vajrayaksa) (***)
Giáo lệnh luân thân của Bất Không Thành Tựu P. (Amoghasiddhi)
(*) Tại riêng ở Nhật Bản có thờ một Myò-ò (Minh Vương) gọi là Aizen Myò-ò (Ràgavidyàràja) là
giáo lệnh luân thân của Đại Nhật Như Lai.
(**) Có nơi thờ Lục Túc Kim Cang Minh Vương (Vajrakumàra) thay cho Đại Uy Đức Minh
Vương làm giáo lệnh luân thân của A Di Đà Phật.
(***) Có nơi thờ Tịnh Thân Minh Vương (Ucchusma) thay cho Kim Cang Dạ Xoa Minh Vương
làm giáo lệnh luân thân cho Bất Không Thành Tựu Như Lai.
Những Minh Vương khác:
Khổng Tước Minh Vương (Mahàmajùri/Mayùraràja/Mayurasana) là giáo lệnh luân thân
của Thích Ca Mâu Ni Phật. Mahamajùri còn là 1 trong Ngũ La Sát (Raksas) của Mật Giáo.
PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn
Tài Liệu Tham Khảo
* (Chữ Việt)
1) Phật Lục (Trần Trọng Kim)
2) Phật Giáo (Trần Trọng Kim)
3) Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ (Thượng Tọa Thích Thanh Kiểm)
4) Lịch Sử Phật Giáo Trung Hoa (Thượng Tọa Thích Thanh Kiểm)
5) Thiền Luận quyển 2 và 3 (Daisetz Teitrao Suzuki / Tuệ Sỹ dịch)
6) Các vị Thần trong Phật Giáo Trung Quốc (Mã Thu Điền)
7) Trung Quốc Phật Giáo Đồ Tượng Giảng Thuyết (Nghiệp Lệ Hoa)
* (In English)
1) The Gods of Northern Buddhism (Alice Getty)
2) Buddhism (Louis Frédéric)
3) Popular Deities in Chinese Buddhism (Kuan Ming)
4) The Iconography of Chinese Buddhism in Traditional China (H.A. Van Oort)
5) 100 Buddhists in Chinese Buddhism (Lu Yan Guang)
6) Kuan Yin (Daniela Schenter)
7) Kuan Yin (Chung Fang Yu)
8) Buddhist Deities and Masters (Chandra Shakya)
9) Meeting the Buddhas (Vessantara)
10) 500 Buddhist Deities (Musashi Tachicana)
11) Buddhist Symbolism in Tibetan Thangkas (Ben Meuleabeld)
12) Pagodas, Gods and Spirits of Vietnam (Ann Helen Unger and Walter Unger)
13) The Vision of Buddha (Tom Lowenstein)
14) The Buddhist Tradition (William Theodore de Barry)
15) Essentials of Buddhism (Kogen Mizuno)
16) Google / Wikipedia: related articles in English.
PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn