30
1

LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

  • Upload
    others

  • View
    7

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

1

Page 2: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

2

LỜI NÓI ĐẦU

Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của nền kinh tế Việt

Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và

cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế

cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh

tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong

kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền

kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ

mới có thể mong muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các

nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền

kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở nước ta hiện nay, chống lạm

phát giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát

triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và

đề xuất các phương án khác. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình

trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có

lạm phát, giá cả của hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng

giảm nhanh.

Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20 ở nước ta lạm phát diễn ra

nghiêm trọng và kéo dài mà nguồn gốc của nó là do hậu quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu

kinh tế bất hợp lý kéo dài. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ nền kinh tế, phương hại đến tất cả các

mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế- xã hội.

Bài tiểu luận với đề tài “Lạm phát ở Việt Nam” xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm

phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt thấy được tầm quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lực

lượng kiến thức còn hạn chế, em thiết nghĩ nghiên cứu đề tài này cũng là một phương pháp để

hiểu nó một cách thấu đáo hơn, sâu sắc hơn

Page 3: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

3

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT

I/ Định nghĩa lạm phát

Lạm phát là vấn đề không mấy xa lạ, hầu hết quảng đại quần chúng đều có thể chứng

kiến hay trải qua thời kỳ lạm phát ở những mức độ khác nhau. Nhưng hiểu chính xác lạm phát

là gì không phải dễ. Ngay cả các nhà kinh tế học cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về

định nghĩa lạm phát.

- Quan niệm cổ điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền vượt quá số lượng tiền cần

thiết trong lưu thông”. Tuy nhiên định nghĩa này không giải thích được hiện tượng lạm phát chi

phí đẩy (xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 hoặc ở Việt nam năm 2005) do loại lạm phát

này vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổnđịnh. Nếu chỉ coi là lạm phát khi sự tăng giá là

kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ dẫn đến coi thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy

ra.

- Một quan điểm phổ biến khác cho rằng: Lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức giá

chung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Tuy nhiên không phải mọi sự

tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá cả chỉ tăng tạm thời, trong ngắn hạn, chẳng hạn

như dịp gần Tết Nguyên đán ở Việt nam, sau đó lại giảm xuống thì đó là kết quả của những

biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực hơn là tiêu cực tới nền kinh tế.

Những trường hợp như vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ dẫn đến sự cường điệu hoá nguy cơ

lạm phát.

- Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là Milton Friedman

đã định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong một thời gian dài”.

Theo trường phái này, sự tăng lên của mức giá chung mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của

lạm phát, bản chất của lạm phát được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá đó: đó là sự tăng giá

với tốc độ cao và kéo dài. Chính sự tăng giá cao và liên tục từ thời gian này đến thời gian khác

mới tạo ra những tác động đặc thù của lạm phát. Cũng vì vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng

tháng mà chúng ta có thể nghe trên đài, báo hay vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi

bao nhiêu phần trăm so với tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể

Page 4: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

4

chỉ là sự thay đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ là tạm thời chứ không kéo dài. Chỉ khi nào

tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi là biểu hiện của lạm phát cao.

Định nghĩa này cũng được các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes ủng hộ. Định

nghĩa này cũng đặc biệt thích hợp với các nhà điều hành chính sách tiền tệ vì Ngân hàng trung

ương chỉ có thể điều chỉnh giá cả trong dài hạn chứ không thể điều chỉnh trong ngắn hạn.

Những cố gắng điều chỉnh giá cả trong ngắn hạn thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ

sẽ chỉ làm cho diễn biến giá cả thêm phức tạp.

II/ Phân loại lạm phát

1) Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một

năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế

hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện:

giả cá tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra với tình trạng mua bán và tích

trữ hàng hóa với số lượng lớn…

Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu

nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn

sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.

2) Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3

con số một năm. Ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến

động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hóa. Lúc này người dân tích trữ hàng hóa, vàng

bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã

trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.

3) Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát

phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng

nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin

không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình

trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xảy ra.

Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển thường diễn

ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh

tế đã chia lạm phát thành 3 loại: Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới

50% một năm; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.

Page 5: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

5

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

I/ Lịch sử của lạm phát ở Việt Nam

Câu chuyện lạm phát ở Việt Nam không phải là mới. Đã từng có thời kỳ tỉ lệ lạm phát

lên đến 3 chữ số.

Đổi tiền và lạm phát năm 1986 gọi là lạm phát năm 1986 vì đó là năm có tỉ lệ tăng cao

nhất, nhưng lạm phát thực sự đã xuất hiện từ nhiều năm trước đó. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ

1981-1985 lần lượt tăng là: 70%, 95%, 50%, 65% và 92%. Chỉ có điều lúc đó không ai thừa

nhận có lạm phát trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, không ai dám đưa vấn đề ra để phân tích,

bàn luận công khai. Không có giải pháp tổng thể nào được đưa ra trong một thời gian dài cho

đến khi xảy ra cuộc đổi tiền vào năm 1985.Có lẽ có quan niệm cho rằng đổi tiền sẽ khôi phục

lại giá trị đồng bạc Việt Nam và lạm phát sẽ chấm dứt nên mới có qui định “Sức mua của đồng

tiền mới bằng 10 lần sức mua của đồng tiền cũ” (Quyết định 01/HĐBT-TĐ ngày 13/9/1985).

Nhưng sau đổi tiền, CPI năm 1985 tăng đến 92%, năm 1986 lên tới 775%, nền kinh tế

bước vào thời kỳ lạm phát dữ dội với tỉ lệ tăng 3 chữ số kéo dài trong 2 năm tiếp theo. Phải đến

cuối năm 1988 và qua năm 1989, nhiều biện pháp về tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát mới được

đưa ra. Một trong những quyết định quan trọng ghi nhận được lúc đó là việc lần đầu tiên mạnh

tay nới lỏng tỷ giá USD/VND vào cuối năm 1988 và tiếp tục cơ chế linh hoạt đến năm 1991,

trước khi bước vào giai đoạn đóng băng tỷ giá từ năm 1992.

Trước tháng 12/1988, tỷ giá do ngân hàng Vietcombank công bố thường thấp hơn thị

trường tự do hàng chục lần. Các công ty xuất khẩu lẩn tránh việc đưa ngoại tệ vào ngân hàng

bằng cách nhập khẩu hàng hóa quay vòng.

Vào tháng 12/1987, Vietcombank công bố tỷ giá ngoại tệ là 3.000 đồng/USD. Đây là

bước tăng vọt so với tỷ giá 368,2 đồng công bố từ đầu năm, tuy vẫn còn thấp hơn mức giá

4.300 đồng ở thị trường tự do. Trong các tháng tiếp theo, tỷ giá được điều chỉnh với biên độ

chênh lệch khoảng 10% so với giá thị trường. Sự thay đổi tỉ giá đã có tác động rất mạnh đến

cán cân thương mại. Nếu chỉ xét trong khu vực giao dịch bằng USD, xuất khẩu trong giai đoạn

từ 1989 đến 1992 bình quân tăng 50% mỗi năm. Tỉ lệ nhập siêu so với xuất khẩu đã lập tức

giảm mạnh từ 47,6% trong năm 1986 xuống gần như cân bằng vào năm 1989 và thậm chí đã có

xuất siêu vào năm 1990.

Page 6: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

6

Đến cơn sốt tín dụng đầu thập kỷ 1990. Năm 1989, với cơ chế rất thoáng trong việc

thành lập quỹ tín dụng, hàng loạt quỹ tín dụng ra đời để huy động vốn, cho vay lòng vòng, sau

một thời gian thì đổ bể. Lãi suất tiết kiệm năm 1989 cực kỳ cao, có lúc lên đến hơn 12%/tháng

cùng với cơ chế rất thoáng. Lãi suất cho vay đầu năm 1989 là 10,5%/tháng, cuối năm giảm

xuống còn xấp xỉ 4%/tháng và duy trì ở mức trên dưới 3%/tháng trong các năm từ 90 đến 92.

Tình hình kinh tế xã hội vào lúc đó cũng còn hết sức gay gắt, mặc dù lạm phát đã giảm mạnh

so các năm 86-88. Tỷ giá VND/USD tăng vọt lên trên 13.000 VND/USD trong tháng cuối năm

1991, giảm đột ngột còn 11.000 VND/USD đến năm 1992, sau đó và được neo giữ ở mức thấp

trong suốt nhiều năm từ 1992 đến 1996 trong khoảng từ 10.500 đến 11.000 VND/USD.

Tình trạng lỗ lãi, nợ nần mà không có cơ chế phá sản làm cho hàng loạt công ty đang

hoạt động hết sức khốn đốn. Chính phủ đã ra quyết định lập Ban thanh toán công nợ quốc gia

để thanh toán chéo nhưng kết quả không đáng kể. Nội lực của nền kinh tế bị thương tổn

nghiêm trọng. Tăng trưởng kinh tế của VN từ 1992 đến 1996 đạt đến 9% năm, nhưng từ 1997

thì giảm dần. Một số báo cáo cho rằng do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế châu Á. Đó là

cách lý giải mà ngay từ lúc đó cũng không có sức thuyết phục. Dấu ấn của chính sách tỷ giá,

tiền tệ các năm đó lớn hơn là ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Chính là cơ chế

cứng nhắc cùng với tỷ giá đồng nội tệ cao đã làm mất đi cơ hội của đất nước khi mà dòng FDI

thế giới đang hướng mạnh vào.

Thâm hụt thương mại do tỷ giá và cũng được giải quyết bởi tỷ giá. Kết quả kỳ diệu của

cơ chế tỷ giá năm 1997. Đồng nội tệ đã bị đánh giá cao cùng với tỷ giá bị cố định cứng trong

khoảng thời gian dài từ 1992 đến 1996 đã thúc đẩy nhập khẩu ồ ạt. Do vậy, thâm hụt thương

mại liên tục tăng để lên đến đỉnh cao hơn 45% vào năm 1995. Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế

xơ cứng của tỷ giá được điều chỉnh và kết quả thật kỳ diệu. Liên tục trong 4 năm thâm hụt

thương mại giảm mạnh để chỉ còn -1% vào năm 2000. Các năm 1999-2000 chỉ số giá chỉ tăng

0,1% và -0,6%. Tăng trưởng của GDP cũng thấp: 4,8% năm 1999 và 6,7% năm 2000. Giải

pháp được đưa ra lúc này là kích cầu tăng trưởng thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư của

các doanh nghiệp nhà nước. Chi tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên

trên 8% từ sau năm 2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40%

từ năm 2004 đến nay (2007). Từ đây các nhân tố lạm phát được nuôi dưỡng.

Page 7: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

7

Tốc độ tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính cho 2008. Đến hôm nay lạm

phát quay trở lại. Năm 2004 đã xuất hiện những dấu hiệu của cuộc lạm phát mới và được xác

nhận lại vào năm 2005 nhưng đã không có những giải pháp thoả đáng. Thậm chí đến giữa năm

2007 dấu hiệu trở nên rõ ràng hơn thì một lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyên bố mạnh

mẽ “lạm phát không thể đến mức hai con số”. Nếu nhìn lại trong vòng 3 thập kỷ qua, tính chu

kỳ của nền kinh tế bộc lộ rõ hơn: cứ 10 năm lặp lại một lần. Suy thoái diễn ra vào các năm x7,

x8 sau khi đạt được đỉnh tăng trưởng trong các năm x4, x5, x6. Tuy nhiên, đến nay liệu chúng

ta đã có đủ kinh nghiệm để không bị cuốn theo chu kỳ? Kiểm chứng về chính sách từ lạm phát

và hậu lạm phát năm 86 đến nay, cho thấy những lúc khó khăn nhất thì có nhiều tiếng nói và có

sự lắng nghe hơn, xuất hiện những cải cách mạnh mẽ. Nhưng vào những lúc nền kinh tế đạt

được tốc độ tăng trưởng cao dần thì nhiều quyết định được đưa ra rất bất ngờ, ít được tham vấn,

tiếng nói đóng góp cũng ít xuất hiện. Phải chăng đây là căn bệnh cố hữu không thể vượt qua?

II/Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi xảy ra lạm phát

Cuộc chiến chống lạm phát của nền kinh tế Việt Nam giúp phát hiện hai vấn đề: Một về

cơ cấu và một về điều hành kinh tế vĩ mô.

- Về cơ cấu, nền kinh tế của chúng ta đang đối mặt với một vấn đề nghiêm trọng về

sung dụng tài nguyên. Sung dụng tài nguyên không hiệu quả đã làm lãng phí đồng vốn, lãng

phí nhân lực, lãng phí tài nguyên thiên nhiên trong một thời gian dài. Hệ số ICOR cao (4,5) cho

thấy nền kinh tế Việt Nam là một trong những nền kinh tế có đầu tư kém hiệu quả nhất trong

khu vực, và có năng lực cạnh tranh rất thấp. Những hệ quả tiếp theo của nó càng ngày càng lộ

rõ như thâm hụt cán cân thương mại ngày càng nghiêm trọng (chỉ riêng năm tháng đầu năm

2008, con số này đã lên đến 14,4 tỉ USD), khiếm hụt ngân sách luôn được duy trì ở mức 5%

GDP trong nhiều năm, và kết quả tất nhiên của nó là tốc độ lạm phát của nền kinh tế ngày càng

gia tăng (theo một ước lượng đáng tin cậy, nếu loại trừ tác động tăng giá của thị trường thế giới

như giá dầu và giá lương thực, tốc độ lạm phát do tác động nội tại của nền kinh tế mà chủ yếu

xuất phát từ vấn đề sử dụng tài nguyên không hiệu quả, đã lên đến từ 8- 10%/năm). Tuy nhiên,

giải quyết vấn đề cơ cấu là một việc làm lâu dài, đòi hỏi một quyết tâm chính trị rất cao. Bài

toán về cơ cấu là bài toán không thể có lời giải một sớm một chiều, nhưng đó là một bài toán

phải kiên trì giải quyết ngay từ bây giờ, vì rằng đó là bài toán sinh tử, quyết định tương lai phát

triển và cường thịnh hay không của nền kinh tế Việt Nam.

Page 8: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

8

- Về điều hành kinh tế vĩ mô, chúng ta đang gặp phải các vấn đề trong chính sách ngân

sách và chính sách tiền tệ. Nếu mục tiêu của chính sách ngân sách vẫn là duy trì một mức

khiếm hụt lên đến 5%/GDP tiếp tục trong thời gian dài, những nỗ lực kiểm soát lạm phát nhằm

ổn định kinh tế vĩ mô sẽ rất khó thành công. Mục tiêu cân bằng ngân sách cần phải là một mục

tiêu được hướng tới kể từ bây giờ. Những nỗ lực chống lạm phát trước hết phải được thể hiện

bởi một quyết tâm từ phía Chính phủ, cụ thể hóa bởi các hành động tiết kiệm ngân sách: tinh

giản bộ máy hành chính, tiết kiệm công chi, giảm đầu tư công. Tất cả những điều đó sẽ giúp

cho việc sung dụng tài nguyên quốc gia trở nên hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích phát

triển đầu tư tư nhân trong và ngoài nước ngay trong các lĩnh vực cần nguồn vốn lớn như xây

dựng cơ sở hạ tầng. Một ngân sách cân bằng sẽ có tác dụng tích cực hai mặt: giảm thiểu tốc độ

lạm phát và tăng cường hiệu quả của việc sung dụng tài nguyên.

- Về chính sách tiền tệ, chúng ta đang lúng túng giải quyết bài toán lãi suất và tỷ giá. Sự

lúng túng này đang gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp. Điều đáng

quan tâm hơn là nó làm xói mòn niềm tin và tâm lý lạc quan đã có trước đây của các nhà đầu tư

trong và ngoài nước. Một năm trước đây, kỳ vọng lạc quan đã là động lực thúc đẩy đầu tư và sự

tăng trưởng của các thị trường: thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường bất động

sản, thị trường chứng khoán. Tâm lý lạc quan thái quá có thể tạo ra sự tăng trưởng bong bóng

của một số thị trường nhưng một thái độ lạc quan vẫn luôn luôn cần thiết để duy trì không

những sự tăng trưởng kinh tế mà cả sự ổn định.

III/ Nguyên nhân gây lạm phát ở Việt Nam

Lạm phát bên cạnh việc làm méo mó giá cả, nó còn làm sói mòn tiết kiệm và không

khuyến khích đầu tư, hạn chế tăng trưởng kinh tế, gây ra những bất ổn chính trị và xã hội.

Chính vì vậy, lạm phát được xem như một căn bệnh nguy hiểm buộc chính phủ các nước phải

kiềm chế nó bằng mọi giải pháp. Do vậy, lạm phát đã có xu hướng giảm từ cuối những năm

của thập kỷ 80 trở lại đây, nhất là đối với những nền kinh tế mới nổi.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát gia tăng: Như sự biến động bất thường về

giá cả của một số mặt hàng nhiên liệu, lương thực, thực phẩm do những cú sốc tiêu cực của

cung - ví dụ như sự bất ổn chính trị trên thế giới vừa qua làm tăng giá dầu, hoặc cú sốc đột biến

của cầu - ví dụ như nhu cầu thép tăng đột ngột của Trung Quốc v.v, còn có những nguyên nhân

từ yếu tố tiền tệ. Trường phái tiền tệ mà điển hình là Milton Friedman đã nhận định rằng “lạm

Page 9: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

9

phát là một hiện tượng tiền tệ”. Nhận định này được rút ra trên cơ sở các chứng cứ thực nghiệm

nghiên cứu về sự tăng trưởng tiền tệ kéo dài gắn với sự gia tăng lạm phát (lạm phát và sự tăng

trưởng tiền tệ tại Mỹ la tinh 1980-1990 và siêu lạm phát ở Đức 1921-1923 v.v). Bên cạnh đó,

những phân tích quan điểm lạm phát của trường phái Keynes cho thấy rằng, sự gia tăng lạm

phát có thể xuất phát do những cú sốc về cung hoặc cầu, nhưng nếu cung tiền không tăng theo

hay không thay đổi thì chỉ trong một thời gian ngắn, kết quả ròng của cú sốc cung (cầu) sẽ làm

dịch chuyển cả đường tổng cung lẫn đường tổng cầu và đưa mức giá về mức ban đầu. Do vậy

những cú sốc về cung (cầu) không phải là nguồn gốc của lạm phát cao (nhưng là nguồn gốc

làm tăng mức giá trong ngắn hạn).

Trong các nguyên nhân dẫn đến lạm phát do yếu tố tiền tệ, theo tổng kết của IMF

thường xuất phát từ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ (CSTT): Sự thâm hụt ngân sách

kéo dài được bù đắp bằng việc in tiền, và/hoặc sự chi tiêu quá mức và thất thoát lớn trong xây

dựng cơ bản của chính phủ sẽ là nguyên nhân gây ra lạm phát, hoặc CSTT quá nới lỏng, dẫn tới

tăng cung tiền, tăng đầu tư tín dụng quá mức v.v. cũng là nguyên nhân gây lạm phát. Do vậy,

để kiểm soát lạm phát ở mức mục tiêu luôn đòi hỏi sự phối hợp rất chặt chẽ trong điều hành

CSTT và chính sách tài khóa. Xét trong giác độ điều hành CSTT để kiểm soát lạm phát (lạm

phát được coi là mục tiêu cuối cùng của CSTT), tùy điều kiện kinh tế, mức độ phát triển của thị

trường tiền tệ, khả năng điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Trung ương (NHTW) mà NHTW các

nước sử dụng các công cụ khác nhau để kiểm soát lạm phát. Thực tế hiện nay cho thấy, đối với

những nước phát triển, là những nước có thị trường tiền tệ, thị trường vốn phát triển, đặc biệt là

những nước theo đuổi khuôn khổ CSTT hướng tới mục tiêu lạm phát (Inflation targeting),

NHTW thường không quan tâm đến sự gia tăng của cung tiền (Money supply-M2), mà chỉ

quan tâm đến sự thay đổi của lãi suất có ảnh hưởng như thế nào đến sự gia tăng lạm phát, qua

đó họ điều chỉnh lãi suất chỉ đạo của NHTW nhằm đạt được lạm phát mục tiêu. Nhưng đối với

những nước đang phát triển, thị trường tài chính phát triển ở mức độ thấp, thì việc kiểm soát

lạm phát thường thực hiện thông qua việc kiểm soát cung tiền.

Đứng trên giác độ cung tiền là nhân tố tác động làm gia tăng lạm phát, thì để kiểm soát

được cung tiền cần kiểm soát được những nhân tố làm tăng cung tiền. Xét về mặt lý thuyết

M2=k.MB (tiền cung ứng của NHTW), có nghĩa là M2 tăng lên khi NHTW phát hành tiền cho

nền kinh tế và/ hoặc hệ số tạo tiền tăng lên. Nói một cách cụ thể hơn (qua bảng cân đối tiền tệ

Page 10: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

10

toàn ngành), khi MB tăng lên sẽ làm tăng và/hoặc tín dụng nền kinh tế, tài sản có ngoại tệ, cho

vay chính phủ ròng, qua đó làm tăng M2. Đối với nền kinh tế bị đôla hoá, M2 tăng lên ngoài

nhân tố do MB tăng lên, còn do nguồn ngoại tệ huy động trong dân tăng hoặc dòng vốn đầu tư

nước ngoài vào nhiều. Do vậy, đối với nền kinh tế đôla hoá, NHTW kiểm soát M2 sẽ gặp nhiều

khó khăn hơn nhiều so với nền kinh tế không bị đôla hoá.

Tình hình giá cả và lạm phát ở Việt Nam thời gian qua, đặc biệt là những biến động bất

thường trong năm 2004 đẩy chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) lên 9,5% (trong khi chỉ số này của

năm 2003 là 3%), vượt xa con số 5% theo kế hoạch đề ra, đã buộc công luận phải lên tiếng. Để

giải tỏa những bức xúc của dân chúng và các nhà sản xuất kinh doanh, đã có nhiều buổi tọa

đàm, cuộc hội thảo được tổ chức và được các phương tiện thông tin đại chúng loan tải. Qua đó

đã toát ra nhiều vấn đề còn tranh cãi về quan điểm về lạm phát, nguyên nhân của lạm phát,

cách tính chỉ số lạm phát, các giải pháp nhằm khắc phục lạm phát. Dưới đây là các nguyên

nhân lạm phát ở Việt Nam hiện nay.

Lạm phát là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có vị trí quan trọng hàng đầu trong điều hành

chính sách của mỗi một quốc gia. Đây cũng là một ttrong hai mục tiêu mà Ngân hàng Trung

ương các nước đều hướng tới. Khái niệm chung về lạm phát được khoa học kinh tế đưa ra là sự

tăng giá chung theo thời gian, khi đó mặt bằng chung về giá cả hàng tiêu dùng trên thị trường

tăng lên. Còn lạm phát tiền tệ hoặc lạm phát giá cả được gọi theo cách nhìn nhận ở góc độ

nguyên nhân của lạm phát. Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại, lạm phát do ba nguyên nhân:

cầu kéo, chi phí đẩy và quá thừa mức tiền cung ứng trong lưu thông. Tuy nhiên trong thực tế,

lạm phát gia tăng còn do một số nguyên nhân nữa, thí dụ: Tâm lý của dân chúng, sự mất cân

đối trong cơ cấu đầu tư...

Lạm phát tiền tệ được hiểu là mức tiền cung ứng cho lưu thông vượt quá mức cần thiết,

biểu hiện là sự mất giá của đồng bản tệ.

Lạm phát giá cả được hiểu là giá cả hàng hóa và dịch vụ nói chung tăng lên do cầu lớn

hơn cung (cầu kéo), hoặc do chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ tăng lên (chi phí đẩy).

Trong thực tế hai loại lạm phát nói trên ít khi xảy ra cùng một lúc, mà thường hoặc là

lạm phát giá cả, hoặc là lạm phát tiền tệ.

Page 11: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

11

Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam hiện nay:

Trên cơ sở nghiên cứu về biến động của giá cả và lạm phát ở Việt Nam, lạm phát ở Việt

Nam thời gian qua (đặc biệt là năm 2004) là do những nguyên nhân sau:

* Về phương pháp tính:

Phương pháp tính chỉ số CPI của các nước khác với Việt Nam. Một là, các nước thường

loại trừ giá lương thực, dầu mỏ ra khi tính toán...; Hai là, giá đó là giá giao dịch mua buôn, bán

buôn trên thị trường hàng hóa của các nhà kinh doanh, còn giá bán lẻ cho người tiêu dùng đối

với nhiều mặt hàng thì vẫn ổn định; Ba là, các mặt hàng đó chiếm tỷ trọng nhỏ trong các nhóm

hàng hóa và dịch vụ tính CPI.

Ở Việt Nam theo phương pháp tính CPI hiện nay, giá cả của nhóm hàng lương thực,

thực phẩm chiếm quyền số lớn nhất, tới 47,9% trong rổ hàng hóa tính CPI. Trong các năm

trước đây, mặc dù nhiều nhóm mặt hàng khác có biến động tăng đáng kể, nhưng nhóm mặt

hàng lương thực, thực phẩm, nhất là giá lúa gạo, giá cao su, cà phê, hạt điều, thịt lợn, rau hoa

quả biến động thất thường. Trong các năm 1991, 1993, 1994, 1998, ... giá lương thực và thực

phẩm tăng rất cao, kèm theo đó là chỉ số giá chung cũng tăng cao. Ngược lại, trong các năm

1997, 1999, 2000,... các mặt hàng lương thực, thực phẩm có giá bán giảm thấp, khó tiêu thụ,

nên đã làm cho CPI ở mức rất thấp, thậm chí là âm. Nhưng năm 2004 nhóm mặt hàng này đã

tăng tới 15%; trong đó giá lương thực tăng 12,5% và giá thực phẩm tăng 16,8%, đã tác động

mạnh làm gia tăng cao chỉ số CPI nói chung. Do đó nếu loại bớt được sự tăng giá đột biến gây

những cú sốc trong tính toán, thì rõ ràng chỉ số lạm phát không cao như đã công bố.

* Điều tiết vĩ mô kém.

Một thực tế cần phải thừa nhận là điều tiết vĩ mô của chúng ta trước những biến động

bất thường cả từ trong và ngoài nước để nhằm bình ổn thị trường trong nước là còn nhiều bất

cập. Thí dụ, đến khi giá thuốc tân dược leo thang hàng ngày và được bán ở mức rất cao, gây rối

loạn thị trường thuốc chữa bệnh, lúc đó chúng ta mới nghĩ đến vấn đề dự trữ quốc gia về thuốc

tân dược; Các quyết định quản lý được đưa ra để điều tiết thị trường thường là chậm trễ, vì thế

hiệu quả điều tiết kém. Thí dụ: việc điều chỉnh giảm thuế thép, phôi thép mặc dầu được kiến

nghị từ tháng 1/2004 nhưng đến tháng 3/2004 mới được thực hiện, vào lúc này giá phôi thép đã

tăng lên 480-500 USD/tấn và giá thép xây dựng đã tăng lên tới 500-520 USD/tấn. Do vậy các

doanh nghiệp khi nhập khẩu tại thời điểm này khó có khả năng cạnh tranh với các doanh

Page 12: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

12

nghiệp đã nhập phôi thép trước đó; Tình trạng độc quyền, đầu cơ trục lợi vẫn còn phổ biến dẫn

đến thao túng, gây rối loạn thị trường; Cũng do quản lý kém đã dẫn đến tình trạng tham nhũng,

lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản là rất lớn. Hệ lụy tất yếu của những tình trạng trên là thị

trường trong nước thêm rối loạn; Khi chỉ số lạm phát gia tăng nhanh chóng trong những tháng

đầu năm 2004, mặc dù tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế là phù hợp với các chỉ số

kinh tế vĩ mô (sẽ được phân tích ở phần dưới đây), nhưng dưới sức ép của dư luận, Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam lại thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm mức cung ứng

tiền tệ. Như vậy Ngân hàng Nhà nước đã khắc phục bất hợp lý này bằng một bất hợp lý khác.

Hệ quả của nó là đẩy lãi suất lên cao, tăng chi phí đầu tư, hạn chế đầu tư, kìm hãm sản xuất và

tăng thất nghiệp.

* Cung ứng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước

Tổng phương tiện thanh toán, bao gồm tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi tại ngân hàng

thương mại và tổ chức tín dụng (nội và ngoại tệ). Nhân tố này về nguyên lý là thường tác động

có độ trễ, tức là tổng phương tiện thanh toán tăng lên trong kỳ này, thì ảnh hưởng của nó phát

sinh ở kỳ sau, trong ngắn hạn là 6 tháng, trung và dài hạn thường là từ 1 năm trở lên. Trong 14

năm qua, mức tăng tổng phương tiện thanh toán bình quân 23%-26%/năm, phù hợp với tốc độ

tăng trưởng kinh tế và không thấy tác động rõ rệt về lạm phát, cũng như giảm phát. Năm 1999

tổng phương tiện thanh toán tăng cao nhất, tới 39,25%, nhưng các năm 1999, 2000 và 2001 tốc

độ tăng chỉ số CPI ở mức thấp, thậm chí năm 2000 còn giảm 0,6%. Các năm 1994, 1995, 1998,

chỉ số CPI tăng cao, nhưng các năm đó và năm trước đó tốc độ tăng tổng phương tiện thanh

toán vẫn ở mức trung bình nhiều năm. Năm 1998, tổng phương tiện thanh toán tăng thấp nhất,

chỉ có 20,33%, nhưng CPI lại tăng tới 9,2%. Trong 6 tháng đầu năm nay tổng phương tiện

thanh toán tăng 7,26%, thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm 2003 là 8,28%. Song chỉ số tăng giá

trong 6 tháng đầu năm 2004 đã là 7,2%. Còn trong năm 2004, tổng phương tiện thanh toán, tốc

độ tăng trưởng vốn huy động và tăng dư nợ cho vay, ... đều thấp hơn mức cùng kỳ năm ngoái,

nhưng CPI đã là 9,5%. Tất nhiên như đã nói ở trên là có độ trễ về mặt thời gian, thường từ 6

tháng đến 1 năm.

Như vậy có thể khẳng định, lạm phát ở Việt Nam trong hơn 14 năm qua nói chung và

năm 2004 nói riêng không phải là lạm phát tiền tệ.

Page 13: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

13

* Do cầu kéo

Trong những năm qua, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hàng hóa và dịch vụ

trên thị trường trong nước dồi dào, đa dạng và phong phú. Do đó hầu như không có tình trạng

khan hiếm hàng hóa trên thị trường dẫn tới tăng giá một hay một số mặt hàng nào đó. Song

trong năm 2004, do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm xẩy ra trên diện rộng và kéo dài, đã làm

giảm mạnh nguồn cung sản phẩm gia cầm, trong khi nhu cầu thực phẩm tiếp tục tăng lên, làm

cho giá cả mặt hàng gia cầm nói riêng tăng đột biến. Đồng thời nhu cầu của người tiêu dùng

được chuyển sang các mặt hàng thực phẩm khác nên đã làm cho nhóm hàng thực phẩm nói

chung tăng cao, tới 16,8% trong 9 tháng đầu năm 2004.

Mặt khác, do biến động mạnh của bất động sản từ cuối năm 1999, do vậy nhu cầu xây

dựng tăng cao, dẫn đến giá cả của vật liệu xây dựng, sắt thép, các mặt hàng trang trí nội thất

đồng lọat tăng lên. Một diễn biến khác cũng xét từ nhân tố cầu kéo, có thể thấy do giá xuất

khẩu gạo của Việt Nam được cải thiện và khối lượng gạo xuất khẩu tăng, thị trường xuất khẩu

thủy sản ổn định và được mở rộng. Do đó giá của các mặt hàng lương thực, thủy hải sản tăng

lên.

* Do chi phí đẩy

Nhân tố này chủ yếu là do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu trên thị trường

thế giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, nguyên liệu nhựa, phân đạm Urê, bột

giấy, thuốc chữa bệnh, vật phẩm y tế..., làm cho giá bán lẻ trong nước cũng tăng lên. Chỉ riêng

mặt hàng xăng dầu trong năm 2004 đã được điều chỉnh tăng 4 lần. Tình hình đó làm cho chi

phí của một loạt lĩnh vực tăng lên, nhất là giao thông vận tải. Giá cước vận chuyển hàng không

tăng 8%, vận tải đường sắt tăng 10% nhằm thực hiện chính sách hòa đồng giá vé giữa người

Việt Nam và người nước ngoài, ... Bên cạnh đó chi phí xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, ...

của người nông dân cũng tăng cao. Giá sắt thép tăng làm cho ngành xây dựng và cơ khí chế tạo

tăng chi phí. Nguyên liệu nhựa và bột giấy tăng... cũng làm cho chi phí của một loạt ngành sản

xuất và một loạt sản phẩm phải tăng giá bán lên.

Đặc biệt là sự biến động lớn của thị trường bất động sản từ năm 1999 đến nay, hệ lụy

của nó là vô cùng lớn. Đáng nhẽ các nguồn tiền nhãn rỗi trong nền kinh tế đặc biệt là trong dân

cư phải được tập trung để đầu tư phát triển sản xuất thì nay mọi người lại dồn hết tiền để kinh

doanh bất động sản gây rối loạn thị trường này, đẩy giá bất động sản tăng hàng chục lần. Do

Page 14: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

14

vậy giá thuê mặt bằng để sản xuất, thuê cửa hàng để kinh doanh cũng tăng lên tương ứng, đẩy

chi phí sản xuất lên cao.

* Do tâm lý dân chúng

Khi thị trường bất động sản ở Việt Nam đang rối loạn, giá cả một số mặt hàng đang leo

thang hàng ngày, gây tâm lý bất ổn trong dân chúng thì tiếp đó (đầu năm 2004) Bộ Nội vụ công

bố dự kiến tăng lương mới (thực tế tăng từ 1/10/2004) đã kích thích tâm lý tăng tiêu dùng của

dân chúng, làm cho giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng nhanh từ đầu năm (thông thường là tăng

vào cuối năm). Mặt khác khi dân chúng đang lo sợ sự sụt giá của đồng tiền Việt Nam thì

NHNN Việt Nam lại phát hành thêm loại tiền mệnh giá 100.000 đồng mới vào lưu thông (gấp

đôi mệnh giá lớn nhất trước đó). Vào cuối năm 2003, NHNN Việt Nam lại đưa tiếp loại tiền

polyme mới với các mệnh giá 50.000, 500.000, 100.000 vào lưu thông. Đặc biệt là đồng tiền

với mệnh giá 500.000 (lớn gấp 10 lần so với đồng tiền có mệnh giá lớn nhất trước đó) đã tiếp

tục tác động xấu đến tâm lý của dân chúng. Dân chúng cho rằng NHNN Việt Nam đang đưa

thêm vào lưu thông một khối lượng tiền rất lớn và vì vậy giá trị đồng tiền Việt Nam sẽ giảm

mạnh. Do đó dân chúng càng có xu hướng chuyển từ tài sản tiền tệ VNĐ sang các tài sản tài

chính khác và càng khuyến khích tâm lý tiêu dùng. Kết quả là giá cả các mặt hàng trong nền

kinh tế tiếp tục gia tăng.

Như vậy qua nghiên cứu về diễn biến chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng nói chung và diễn

biến lạm phát nói riêng trong hơn 14 năm qua, cũng như riêng năm 2004 có thể khẳng định,

lạm phát ở nứơc ta là lạm phát giá cả. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí đẩy, quản lý vĩ mô

kém, có một yếu tố nhỏ là cầu kéo và yếu tố tâm lý dân chúng.

Page 15: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

15

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHO TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chính phủ nhất trí điều chỉnh mục tiêu chống lạm phát và mức tăng trưởng trong năm

2008 thích hợp trong tình hình mới và nêu 5 giải pháp cần tập trung chỉ đạo và điều hành nhằm

kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng

trưởng của nền kinh tế.

I/ Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng

Chính phủ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên tắc thị trường một

cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,

bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế.

Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính

sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết chặt cho vay... với mục tiêu chung là

kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện những chính

sách này không rẻ chút nào. Bài viết của PGS-TS Trần Ngọc Thơ - ThS Hồ Quốc Tuấn đăng

trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn dưới đây trao đổi về những cái giá mà kinh tế Việt Nam phải

trả khi thực hiện mục tiêu kìm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa đưa ra quyết

định 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu NHNN bằng tiền đồng dưới hình thức bắt

buộc đối với các tổ chức tín dụng. Đây rõ ràng là một biện pháp nằm trong gói giải pháp thắt

chặt tiền tệ để chống lạm phát của Chính phủ, bên cạnh các bài thuốc tăng dự trữ bắt buộc, điều

chỉnh các loại lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn... đã được tiến hành.

Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang rơi vào tình trạng lạm phát cao và đứng trước

nguy cơ suy thoái toàn cầu, ngân hàng trung ương nhiều nước phải đứng giữa lựa chọn khó

khăn là tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát hay giảm lãi suất để kích thích kinh tế, NHNN đã

lựa chọn quan điểm thắt chặt tiền tệ. Nhìn vào động thái của các nước trên thế giới về chính

sách lãi suất và rộng hơn là chính sách tiền tệ, chúng ta có thể thấy rằng Việt Nam đang đi theo

hướng đi của những nước đang có tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định như Hàn Quốc, Trung

Quốc và Úc là ưu tiên chống lạm phát chứ không đi theo con đường cắt giảm lãi suất của Mỹ

hay vài nước ASEAN khác như Thái Lan, Phillipines và Indonesia là chấp nhận lạm phát để

chống suy thoái.

Nguyên nhân NHNN quyết liệt chống lạm phát cũng không khó hiểu.

Page 16: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

16

Từ năm ngoái, áp lực từ phía dư luận về vấn đề lạm phát đã không nhỏ, và nhiều ý kiến

đã đề nghị hy sinh tăng trưởng chống lạm phát. Mặt khác, trong các tháng đầu năm, tỷ lệ lạm

phát đã tăng hơn 14% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,38% trong tháng 1; đồng thời hậu quả

của các đợt rét đậm ở miền Bắc và dịch cúm gia cầm bùng phát đang tạo áp lực tăng giá không

nhỏ trong các tháng tiếp theo. Như vậy, chống lạm phát bằng mọi giá gần như là mục tiêu mà

Chính phủ đang ưu tiên nhất. Vậy những hệ quả của việc thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát là

gì?

Thắt chặt tiền tệ sẽ “tiếp thêm năng lượng” cho cuộc đua tăng lãi suất. Ngay từ tháng 1-

2008, tình hình vốn tiền đồng của các ngân hàng thươngmại đã căng thẳng, ngay từ đầu năm

mới, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc lên đến 25%. Nhiều ngân hàng đã liên tục điều chỉnh lãi

suất theo hướng tăng lên, có nơi điều chỉnh biểu lãi suất 2-3 lần trong một tháng. Như vậy,

quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng

lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt

đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền đồng tăng cao trong khi

thị trường chứng khoán đầu năm không có tín hiệu tốt còn thị trường bất động sản thì đang bị

đánh giá là quá nóng và bị cơ quan quản lý “theo dõi” quá kỹ. Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động

của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng yên. Như vậy, chi phí vay mượn cho sản

xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Ở đây có hai tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp

chuyển hết phần chi phí tăng thêm này vào giá bán và như vậy, giá cả không những không

giảm mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ không thể thực hiện.

Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi phí vay mượn vào giá cả hay không phụ thuộc vào kỳ

vọng lạm phát của người dân và khả năng có các nguồn hàng thay thế trên thị trường. Với

quyết tâm chống lạm phát của Nhà nước và việc nền kinh tế chúng ta đang mở cửa tự do

thương mại sau WTO, khả năng xảy ra tình huống này không lớn. Tuy nhiên, không vì thế mà

ta có thể xem thường, không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu thông hàng hóa, tránh

tình trạng hàng rẻ mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá mắc vì người dân vẫn đang trong tình

trạng lo sợ tăng giá.

Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên, mà doanh

nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ chịu nhiều khó khăn, có thể

dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh. Điều này tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm.

Page 17: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

17

Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc là: Trong tình hình các nhà phân tích và tổ chức quốc tế đều

điều chỉnh dự báo tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ, Nhật, châu Âu và

các người khổng lồ mới nổi ở châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ theo hướng giảm đi, chúng ta

dễ dàng nhận ra kinh tế toàn cầu đang đi chậm lại và đã ở trong vòng xoáy suy giảm tăng

trưởng (có lẽ còn hơi sớm để dùng từ suy thoái kéo dài). Trước tình hình như vậy, quyết định

thắt chặt tiền tệ, như đã bàn ở trên, sẽ tạo áp lực tăng lãi suất ngân hàng, tăng chi phí vay mượn

cho sản xuất kinh doanh trong tình hình nền kinh tế cần nhiều vốn để phát triển (hệ số ICOR

của nền kinh tế còn quá cao nên để duy trì tăng trưởng thì phải đổ nhiều vốn vào), có thể là sự

sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc sau khi thực hiện nhiều biện pháp

thắt chặt tiền tệ đã bị điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng từ hai con số còn 9,6%, còn tăng

trưởng Việt Nam sau khi thắt chặt tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Mà tăng trưởng không cao thì

sẽ tạo sức ép lên việc làm và thu nhập của người dân. Đây cũng là vấn đề xã hội không nhỏ.

Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp: Trong điều kiện thị trường chứng khoán đầu năm

2008 vẫn chưa mấy khởi sắc, liên tục các quy định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo ra cảm giác cho nhà

đầu tư là NHNN đang “hy sinh thị trường chứng khoán” để chống lạm phát. Điều này có khả

năng sẽ làm xói mòn hơn nữa niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng của thị trường này trong

năm nay. Với một thị trường được xây dựng trên niềm tin, niềm tin bị sụt giảm thì thị trường

khó mà phát triển khỏe mạnh, sẽ không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao nữa. Mà thị trường không tạo

ra tỷ suất sinh lợi cao thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ không còn cảm thấy thị trường Việt Nam

hấp dẫn nữa. Chúng ta không nên chủ quan cho rằng nếu thị trường chứng khoán giảm giá về

mức hấp dẫn thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ thích tham gia vào Việt Nam nhiều hơn. Một số

nghiên cứu trong các năm 2000, 2001 ở các nước đang phát triển cho thấy các nhà đầu tư nước

ngoài là những người mua bán dựa trên kết quả tốt đẹp (positive feedback trader), nghĩa là

tham gia vào một thị trường khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi hấp dẫn trong quá khứ, và thoát khỏi

nó khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi không cao.

Nhìn lại quá trình vốn nước ngoài đổ vào thị trường chứng khoán nước ta, rõ ràng vốn

đổ vào nhiều trong những năm gần đây khi chúng ta trở thành “ngôi sao đang lên”, còn trước

đó, trong những năm trước 2002, nhiều quỹ đầu tư đã rời khỏi Việt Nam sau những giai đoạn

thị trường rơi vào trạng thái trầm lắng. Đó là chúng ta chưa tính đến yếu tố cơ bản là nếu kinh

Page 18: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

18

tế suy giảm tăng trưởng, chi phí vay mượn của doanh nghiệp tăng cao, thì liệu cái nhìn của nhà

đầu tư nước ngoài đối với triển vọng dài hạn của chúng ta sẽ bị bào mòn ít nhiều.

Đồng Việt Nam sẽ tiếp tục lên giá: Lãi suất tiền đồng (VND) được đẩy lên cao trong

tình hình lãi suất đô la Mỹ (USD) trên thế giới đang giảm sẽ tạo áp lực giảm giá lên đồng USD

so với VND. Cho dù lãi suất USD trong nước hiện khá cao so với thế giới, nhưng tính ra vẫn

thấp hơn lãi suất VND khá nhiều, và tốc độ tăng lãi suất VND trong thời gian sắp tới nhiều khả

năng sẽ nhanh hơn nhiều do mức độ căng thẳng vốn tiền đồng đã đến mức báo động ở nhiều

ngân hàng. Áp lực tăng giá VND chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu, vốn

đang đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng xấu từ tình hình suy thoái ở nhiều nước phát triển.

Đứng trước tình hình này, có thể NHNN sẽ tiếp tục bị buộc phải mua USD vào, và như vậy lại

tăng cung tiền ra nền kinh tế. Rồi để trung hòa lượng cung tiền tăng lên này, NHNN sẽ lại phải

tiếp tục phát hành tín phiếu, trái phiếu? Vậy chúng ta đang đi vào một vòng luẩn quẩn? Đó là

chưa kể chúng ta cần để ý đến bài học của Trung Quốc trong bài toán “trung hòa” này: mua

ngoại tệ vào trong lúc lãi suất ngoại tệ thấp, còn phải bán trái phiếu, tín phiếu với lãi suất “hợp

lý”, thì kết quả là khoảng chênh lệch lãi suất là âm, khiến NHNN bị “lỗ nặng”. Với điều kiện

hiện tại, khi mà khoảng hở lãi suất USD-VND đã trở nên quá lớn, liệu NHNN có đủ khả năng

đứng vững trước sức ép phải bù đắp khoảng lỗ do chính sách “trung hòa” này?

Đánh giá chung:

Từ những đánh giá trên, chúng ta có thể nhận ra rằng thực hiện thắt chặt tiền tệ cũng

đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro suy giảm tăng trưởng, đồng tiền tăng giá, thị trường vốn phát

triển chậm lại và bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư gián tiếp. Chấp nhận một rủi ro lớn như vậy,

sẵn sàng trả giá không nhỏ, chỉ là vì chúng ta muốn kiềm chế lạm phát, để tăng trưởng thực sự

mang lại lợi ích cho đại bộ phận người dân. Tuy nhiên, phân tích chính sách này, chúng ta sẽ

nhận thấy có những rủi ro có thể khiến nó không mang lại lợi ích thật sự mà chỉ mang tính

ngắn hạn và không toàn vẹn.

II/ Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước

Hai là tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng

nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ tướng yêu cầu hệ thống chính

trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi chưa

Page 19: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

19

thật cần thiết; thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng, dầu; rà soát và giảm các hạng mục, công

trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu dùng.

Giảm thâm hụt ngân sách để khôi phục sự ổn định vĩ mô: Thông điệp của Thủ tướng

Chính phủ ngày 30/3/2008 về việc phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm

an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững có nhắc tới một câu nói nổi tiếng của Milton Friedman

- Nobel kinh tế năm 1976 - rằng mặc dù do nhiều nguyên nhân, nhưng “lạm phát luôn có

nguyên nhân tiền tệ”. Nếu như Milton Friedman đã đúng khi cho rằng lạm phát ở đâu và khi

nào cũng xuất phát từ những nguyên nhân tiền tệ, thì một câu hỏi tự nhiên tiếp theo sẽ là tại sao

một chính phủ lại chấp nhận chính sách tiền tệ gây ra lạm phát - một trong những điều tối kỵ

nhất của điều hành vĩ mô.

Thâm hụt ngân sách, lạm phát và mất cân đối vĩ mô: Nhìn vào những nước đã từng trải

qua lạm phát cao sẽ thấy rằng, lạm phát ở những nước này thường là hệ quả của việc in tiền

nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Như vậy, thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn

tới việc nhà nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều này đến lượt nó

dẫn tới lạm phát. Từ góc độ này nhìn lại nền kinh tế Việt Nam, mặc dù Luật Ngân sách 1993

không cho phép nhà nước in tiền để tài trợ thâm hụt ngân sách, nhưng với lượng tiền đồng

trong lưu thông lớn như hiện nay (khoảng 16% GDP) thì chỉ cần duy trì tốc độ in thêm tiền

đúng bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế (giả sử là 8%) thì nhà nước cũng đã có thêm được 1,3%

GDP để tài trợ cho thâm hụt ngân sách (chưa kể đến “thuế lạm phát” cao ở Việt Nam trong

mấy năm qua).

Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan khác, thì lạm phát ở Việt Nam còn do đầu tư

công và nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính sự kém

hiệu quả này, đến lượt mình, lại làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng,

và “vòng xoáy đi xuống” của kinh tế vĩ mô sẽ lại tiếp diễn. Cũng cần nhấn mạnh thêm là “dòng

xoáy đi xuống” này một khi đã được khởi động thì rất khó dừng lại chứ đừng nói tới khả năng

đổi chiều. Vì vậy, nhóm giải pháp thứ hai của Thủ tướng yêu cầu “cắt giảm đầu tư công và chi

phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh

nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách” cần phải được thực hiện một cách

triệt để và nhất quán. Nếu không giảm được thâm hụt ngân sách thì nhóm giải pháp thứ nhất -

Page 20: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

20

thắt chặt tiền tệ - sẽ bị vô hiệu hóa đáng kể, và vì vậy không thể đạt được mục tiêu mong muốn

là kiềm chế lạm phát.

Dưới đây sẽ thảo luận thêm một số vấn đề liên quan đến tình trạng thâm hụt ngân sách ở

Việt Nam, sau đó bình luận một số biện pháp nhằm thắt chặt chi tiêu công của Chính phủ, và

cuối cùng trình bày một số khuyến nghị về chính sách.

Tại sao cần giảm thâm hụt ngân sách?

Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay đã tới mức đáng báo động. Theo số liệu chính

thức, thâm hụt ngân sách của nước ta hiện nay là 5% GDP (bao gồm cả tiền trả nợ gốc và

không bao gồm các khoản chi ngoài dự toán). Thế nhưng theo ước tính của Ngân hàng Phát

triển châu Á (ADB) thì thâm hụt ngân sách của Việt Nam - theo cách tính quốc tế, không bao

gồm tiền trả nợ gốc nhưng bao gồm các khoản chi ngoài dự toán - lên tới 7% GDP. Không

những thế, thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong mấy năm trở lại đây luôn được duy trì ở

mức cao, và đặc biệt tăng mạnh trong năm 2007. Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể

dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản

vãng lai. Ở Việt Nam, mặc dù thâm hụt ngân sách tăng đột biến trong năm 2007chưa làm suy

giảm tiết kiệm nội địa và đầu tư tư nhân nhưng nó đã làm tăng mức thâm hụt tài khoản vãng

lai, từ -0,5% năm 2006 lên tới -8% năm 2007. Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói

mòn niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát

kỳ vọng của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ

phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt. Tóm lại, thâm hụt ngân sách cao kéo dài sẽ đe dọa sự ổn

định vĩ mô, và do vậy, khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.

Các biện pháp giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ: Vì được đặt trong bối cảnh

chống lạm phát nên chính sách ngân sách (hay chính sách tài khóa) của Chính phủ trong thời

gian qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công (gồm đầu tư công và chi thường xuyên) và

qua đó giảm tổng cầu. Cụ thể là Chính phủ chỉ thị: (i) Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và

tín dụng nhà nước; (ii) Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của doanh nghiệp

nhà nước (DNNN); (iii) Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp. Tổng đầu tư

của Nhà nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước và thông qua DNNN) luôn chiếm trên dưới

50% tổng đầu tư của toàn xã hội. Vì vậy, không nghi ngờ gì, nếu Nhà nước có thể cắt giảm một

số khoản đầu tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn

Page 21: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

21

sẽ nhẹ đi. Cũng tương tự như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các cơ quan nhà

nước có thể cắt giảm chi thường xuyên (chiếm 56% tổng chi ngân sách năm 2007). Mặc dù

chính sách cắt giảm chi tiêu công là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu lực của những biện pháp cụ

thể đến đâu thì còn chưa chắc chắn vì ít nhất có bốn lý do:

Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng, nhất là khi

những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyết định; đã được đưa vào quy hoạch

của các bộ, ngành, địa phương; đã được triển khai; và nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết

thân của những cơ quan liên quan đến dự án.

Thứ hai, Nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các DNNN, một

mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã

tự thành lập ngân hàng riêng.

Thứ ba, với tốc độ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng mức đầu tư công

theo đúng dự toán cũng đã được coi là một thành tích đáng kể.

Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng vì việc giảm chi thường xuyên rất khó khăn

nên đây thường là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm. Hơn thế, với thực tế ở

Việt Nam thì phạm vi chi thường xuyên có thể cắt giảm không nhiều. Đầu tiên là phải trừ đi

quỹ lương (chiếm khoảng 2/3 tổng chi thường xuyên), sau đó phải trừ đi các khoản phụ cấp có

tính chất lương, chi chính sách chế độ, tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc tế, các khoản

chi thường xuyên đã được thực hiện v.v… Theo ước lượng của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu

tư thì nếu làm thật quyết liệt thì sẽ giảm được khoảng 3.000 tỉ đồng chi hội họp và mua sắm xe

- tức là giảm được khoảng 0,8% tổng chi ngân sách.

Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư công: Chính sách giảm tổng cầu

thông qua thắt chặt chi tiêu công là đúng đắn, cần thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực giảm chi tiêu

công của Chính phủ chỉ thực sự có hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có cơ chế để đảm bảo

những khoản đầu tư còn lại có hiệu quả. Đầu tiên là phải có cơ chế quản lý đầu tư công sao cho

những dự án kém hiệu quả (như chương trình 5 triệu tấn đường hay đánh bắt xa bờ) bị loại bỏ

ngay từ đầu. Sau đó, phải đảm bảo dự án được tiến hành đúng tiến độ và không bị thất thoát,

lãng phí (như dự án

112 và các dự án đầu tư xây dựng cơ bản - được ước lượng là thất thoát trung bình 30%). Một

trong những biện pháp có thể được sử dụng để cải thiện cơ chế quản lý đầu tư công là thành lập

Page 22: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

22

một hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng thất

thoát, lãng phí trong đầu tư công là do quá trình ra quyết định đầu tư của chính quyền địa

phương và các bộ ngành chủ quản chịu ảnh hưởng của các nhóm lợi ích và do vậy thiếu khách

quan. Vì vậy, nhiệm vụ của ủy ban độc lập này là đánh giá, thẩm định một cách toàn diện và

khách quan các dự án có quy mô vượt quá một quy mô đầu tư nhất định nào đó. Kết luận của

Hội đồng thẩm định này sau đó được công bố rộng rãi. Tương tự như vậy, báo cáo kiểm toán

các DNNN và dự án đầu tư công lớn cũng phải được công khai.

Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu, Chính phủ cũng cần

cải thiện các nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều (tới hơn

40%) vào các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách

thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi

con số này ở các nền kinh tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Thật bất công và

kém hiệu quả khi nhiều người sau một đêm trở thành triệu phú nhờ vào việc Nhà nước đầu tư

cơ sở hạ tầng (CSHT) tại nơi họ có bất động sản, trong khi lại không phải đóng góp gì cho

ngân sách nhà nước. Áp dụng thuế bất động sản đúng đắn là một cách đảm bảo sự bền vững

cho ngân sách nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện được các chương trình đầu tư

CSHT vì quốc kế dân sinh.

Những khó khăn hiện tại của nền kinh tế Việt Nam bắt nguồn từ những bất cập trong

chính sách phát triển dài hạn. Chủ trương tăng trưởng nhờ vào số lượng thông qua đầu tư ồ ạt,

dựa vào khu vực nhà nước vốn kém hiệu quả, đồng thời thiếu sự phối hợp đồng bộ trong điều

hành vĩ mô đã đưa nền kinh tế Việt Nam từ bối cảnh sau khi gia nhập WTO vô cùng thuận lợi

đến tình trạng lạm phát và bất ổn vĩ mô như hiện nay. Vẫn còn may là những khó khăn của

Việt Nam hiện nay hoàn toàn có thể giải quyết được nếu Chính phủ có quyết tâm mạnh mẽ và

chính sách đúng đắn, trong đó kỷ luật tài khóa là điều kiện quan trọng nhất. Thắt chặt và nâng

cao hiệu quả của chi tiêu công, đặc biệt là áp đặt kỷ luật nghiêm ngặt đối với hoạt động đầu tư

của các tập đoàn nhà nước là điều kiện tiên quyết để có thể khôi phục lại cân bằng vĩ mô và gia

tăng hiệu quả, tính ổn định và đà tăng trưởng cho nền kinh tế.

Tình trạng kinh tế vĩ mô của Việt Nam thay đổi đột biến từ năm 2004:

Page 23: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

23

Năm

2001 2002 2003 2004 2004 2005

Tăng cung tiền (M2, % thay đổi) 25.5 17.6 24.9 29.5 29.7 33.6

Tác dụng (% thay đổi) 21.5 22.2 28.4 41.6 31.7 25.4

Tổng đầu tư xã hội (% GDP) 31.2 33.2 35.4 35.6 38.9 41.0

Thâm hụt ngân sách nhà nước (% GDP) -4.7 -4.5 -3.3 -4.3 -4.9 -5.0

Chỉ số giá tiêu dùng (% CPI) 0.8 4.0 3.0 9.4 8.4 6.7

III/ Cân đối cung cầu trong nền kinh tế

Ba là Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối cung cầu

các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất như xăng, dầu, gạo, thuốc, xi măng, sắt,

thép, phân bón... gắn liền với kiểm soát chặt chẽ giá cả. Khẳng định không tăng giá bán than

cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu. Nhà nước tiếp tục bù lỗ cho các mặt hàng

này nhằm ổn định giá.

Lãnh đạo các Bộ, ngành cho biết, Chính phủ tiếp tục thực hiện không tăng giá với nhiều

mặt hàng từ nay đến cuối năm. Cùng đó, nhiều biện pháp sẽ được áp dụng để đảm bảo cung

cầu, không biến động giá của những mặt hàng quan trọng.

Tại buổi họp báo sau phiên họp thường kì của Chính phủ, chiều 2/7, Thứ trưởng Bộ Tài

chính Trần Xuân Hà cho biết, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục giữ ổn định giá cả các mặt hàng thiết

yếu. Trong đó, nước sạch, điện, vận tải công cộng sẽ không tăng giá từ nay đến cuối năm. Các

mặt hàng khác được điều chỉnh giá sẽ thực hiện điều chỉnh ở mức hợp lí. Riêng với mặt hàng

xăng dầu, Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công Thương trình Chính phủ lộ trình điều chỉnh giá

bán theo mục tiêu bảo đảm chống lạm phát, phù hợp với khả năng bù lỗ, đồng thời thực hiện hỗ

trợ các đối tượng chính sách. Các công ty kinh doanh xăng dầu đầu mối trong những tháng qua

vẫn lỗ và hiện đã được tạm ứng 95% số lỗ này. Đến thời điểm hiện tại, Chính phủ đã bù lỗ

11.000 tỉ đồng cho các doanh nghiệp kinh doanh của lĩnh vực xăng dầu.Cho dù giá xăng dầu

tăng cao, Chính phủ vẫn chỉ đạo nhập khẩu đủ đảm bảo nhu cầu sản xuất trong nước và nhu

cầu sử dụng của người dân. Trong 6 tháng đầu năm nay, nước ta đã nhập tăng hơn so với 2007

gần 300.000 tấn xăng dầu. Chính Phủ khẳng định, từ nay đến cuối năm “nguồn xăng dầu không

thiếu và nguồn ngoại tệ phục vụ nhập khẩu mặt hàng này cũng không thiếu”.Về xuất, nhập

Page 24: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

24

khẩu than, năm 2008, nước ta xuất khẩu khoảng 20 - 22 triệu tấn than, giảm hơn khá nhiều so

với năm 2007 (32 triệu tấn). Ngoài ra, 6 tháng đầu năm, các doanh nghiệp đã nhập khẩu phôi

thép về nhiều gấp đôi năm ngoái, với giá 750 - 800 USD/tấn.

Tuy nhiên, phôi thép nhập về không bán được, vẫn nằm ở cảng, trong khi giá mặt hàng

này đã tăng gần 200 USD/tấn nên các doanh nghiệp đã xuất ra bên ngoài. Trước tình hình thép

tăng giá, Bộ Công thương sẽ có biện pháp hạn chế xuất khẩu phôi thép nhằm bình ổn thị trường

trong nước. Riêng muối, do thời tiết bất lợi, chi phí đầu vào tăng nên giá muối bị đẩy lên hơn

so với năm 2007. Chính phủ đã cho xuất 30.000 tấn từ trong kho dự trữ cung cấp cho thị

trường. Tuy nhiên, theo tính toán, năm nay nhu cầu trong nước khoảng 1,3 triệu tấn, trong khi

lượng muối thu hoạch được cộng với lượng muối trong kho chỉ đạt khoảng 1 triệu tấn. Chính vì

vậy, 6 tháng cuối năm sẽ phải nhập khẩu thêm khoảng 100 - 150.000 tấn. Liên quan đến kiểm

soát giá cả, đại diện Bộ Tài chính thông báo, trong sáu tháng qua, các cơ quan thuế và hải quan

khi kiểm tra chống buôn lậu và gian lận thương mại đã xử lý 6.012 vụ vi phạm, thu nộp ngân

sách nhà nước trên 221 tỷ đồng.

Về tỉ giá hối đoái, Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước, Nguyễn Đồng Tiến nhìn nhận,

sau một tuần ngân hàng thực hiện điều chỉnh biên độ, tỉ giá hối tại thị trường tự do đã giảm

dần. Ngân hàng cũng đã có những kiểm tra, kiểm soát hoạt động mua bán ngoại tệ, không để

vượt quá biên độ cho phép. Chính phủ đánh giá, chỉ số giá tiêu dùng, nhập siêu trong 3 tháng

gần đây đã có những chuyển biến tích cực. Thị trường chứng khoán có những dấu hiệu tốt hơn,

hệ thống ngân hàng ổn định hơn và không có khả năng đổ vỡ, chỉ số giá tiêu dùng khả quan

(tháng 6 là 2,14%, thấp nhất trong 6 tháng) nhưng chưa vững chắc, tình hình còn diễn biến khó

lường.

Tăng trưởng GDP đạt 6,5% là khá thấp so với những năm gần đây, nhưng vẫn cao hơn

các nước trong khu vực. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh

để duy trì tăng trưởng. Phấn đấu với tinh thần cao nhất để giải quyết vốn cho các doanh nghiệp,

nhất là vốn lưu động.

Thủ tướng cũng chỉ đạo các Bộ ngành tích cực, chủ động hơn nữa trong việc tháo gỡ

khó khăn. Đặc biệt, các Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của các

tập đoàn, Tổng công ty thuộc bộ mình quản lí.

Page 25: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

25

IV/ Ổn định giá cả thị trường

Bốn là Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các

ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương mại trong

nước, kêu gọi các doanh nghiệp có trách nhiệm với đất nước không đầu cơ trục lợi và tăng giá

các mặt hàng. Chính phủ đã xác định nguyên tắc ưu tiên là từ nay đến cuối năm kiềm chế lạm

phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo đà cho những năm tiếp theo, đảm bảo an sinh xã hội. Và trong

việc ổn định giá các mặt hàng thiết yếu, Thủ tướng đã chỉ đạo, với mặt hàng xăng dầu, trong

bất cứ thời điểm nào, địa điểm nào cũng phải đảm bảo nguồn cung tổng thể. Trong trường hợp

có diễn biến bất thường, Chính phủ sẽ nghiên cứu biện pháp hợp lý để giải quyết. Điều này cho

thấy Chính phủ luôn xác định ưu tiên chống lạm phát là mục tiêu hàng đầu, nhất là đối với

xăng dầu – mặt hàng thiết yếu hàng đầu của nền kinh tế.

Giá tiêu dùng tháng 6/2008 tăng 2,14% so với tháng trước, và là tháng có mức tăng thấp

nhất trong 6 tháng đầu năm nay. Nhập siêu trong những tháng gần đây đã giảm nhanh từ mức

3,2 tỷ USD trong tháng 3, xuống mức 1,3 tỷ USD trong tháng 6.

Với mặt hàng than, Bộ Tài chính đang nghiên cứu xây dựng phương án và lộ trình chặt

chẽ về giá than trong thời gian tới, trong đó, quy định giá bán than cho từng hộ tiêu thụ lớn.

Ông Hoàng Thọ Xuân – Vụ trưởng Vụ chính sách thị trường trong nước - Bộ Công thương cho

biết: Bộ Tài chính và Bộ Công thương đang nghiên cứu một phương án và lộ trình hết sức chặt

chẽ trong thời gian tới.

Điện giữ giá ổn định từ nay đến hết năm thì giá than bán cho điện cũng phải ổn định. Đó

là điều đương nhiên. Còn than bán cho sản xuất xi măng, cho sản xuất phân bón, và ngành sản

xuất giấy cũng đang được Bộ Tài chính tính toán xây dựng lộ trình, bước đi cho phù hợp với

điều kiện hiện nay, trên cơ sở kiềm chế tăng giá tiêu dùng và chống lạm phát là mục tiêu hàng

đầu.

Theo dự báo, giá vật liệu xây dựng trong tháng 7 này sẽ tương đối ổn định do nguồn

cung dồi dào. Riêng đối với xi măng, Bộ Xây dựng đã họp bàn với các doanh nghiệp, với Hiệp

hội xi măng quy định thống nhất cách quản lý giá bán trên thị trường. Vụ trưởng Vụ quản lý

vật liệu xây dựng – Bộ Xây dựng, ông Nguyễn Quang Cung, cho biết: để tăng cường nguồn

cung cho thị trường, trong tháng 7 này, sẽ tiếp tục đưa các dự án xi măng xây dựng mới vào

hoạt động, đảm bảo nguồn cung ổn định cho thị trường.

Page 26: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

26

Theo ông Cung, điều quan trọng nhất là phải đảm bảo nguồn cung ổn định. Trong tháng

7 này, sẽ tiếp tục đưa nhà máy xi măng sông Gianh vào hoạt động. Lượng xi măng do nhà máy

này sản xuất sẽ được đưa vào thị trường phía Nam. Còn về các biện pháp để quản lý thị trường

vật liệu xây dựng, các doanh nghiệp trong ngành đang phối hợp chặt chẽ giữa nhà máy sản xuất

và hệ thống phân phối. Phải công khai giá bán, bán hàng có niêm yết giá, làm cơ sở cho quản lý

thị trường dễ dàng kiểm tra. Các đại lý bán hàng vượt giá thỏa thuận sẽ bị cảnh cáo, hoặc

không tiếp tục ký hợp đồng bán hàng cho nhà máy. Mục tiêu cuối cùng là hài hòa lợi ích của

sản xuất, nhà phân phối và lợi ích người tiêu dùng.

Còn với mặt hàng thép, trước đề nghị mới đây của Hiệp hội Thép Việt Nam về điều

chỉnh tăng giá bán thép xây dựng trước việc giá phôi thép trên thị trường thế giới tăng cao,

quan điểm của Chính phủ là chưa ủng hộ việc tăng giá thép. Trong bối cảnh giá cả tăng mạnh

và Nhà nước chủ trương tiếp tục kiềm chế lạm phát thì các nhà sản xuất thép cần tính toán

giảm chi phí giá thành như thế nào, cắt giảm chi phí sản xuất ra sao, mới có thể quyết định có

cho phép tăng giá hay không.

Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất phân bón đang tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp

để ổn định thị trường phân bón. Ông Phan Đình Đức – Tổng giám đốc Tổng công ty phân đạm

và hóa chất dầu khí cho biết: Đa phần các loại phân bón đều tăng từ 100- 300%, nhưng riêng

phân đạm chỉ tăng 75%. Chính vì có sản lượng chiếm khoảng 40% thị phần và chính sách giá

của Đạm phú Mỹ nên giá đạm của thị trường không tăng nhiều như các loại phân nhập khẩu

khác.

Về những biện pháp bình ổn giá năm nay của Đạm Phú Mỹ, theo ông Phan Đình Đức:

“Chúng tôi xây dựng hệ thống phân phối trực tiếp qua 4 công ty tại miền Đông Nam Bộ, Tây

Nam Bộ, miền Trung, Tây Nguyên và miền Bắc. Hệ thống phân phối này sẽ giúp đưa sản phẩm

đến tay bà con nông dân trong thời gian ngắn nhất, tránh việc mua bán lòng vòng, mua đi bán

lại làm tăng giá, đội giá. Về lâu dài, chúng tôi đang tích cực tìm kiếm các nguồn nhiên liệu,

nguyên liệu đầu vào như các mỏ khí ở nước ngoài để đầu tư ra nước ngoài, xây dựng nhà máy

phân bón và hóa chất ở nước ngoài”.

Cùng với các giải pháp từ Chính phủ, sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong bình ổn giá,

nhất là với các mặt hàng thiết yếu, sẽ góp phần thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát, phát

triển kinh tế bền vững.

Page 27: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

27

V/ Đẩy mạnh xuất khẩu để nhập siêu

Năm là tìm mọi cách đẩy mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu. Thủ tướng nhấn mạnh,

không có xuất khẩu thì không có tăng trưởng nên tập trung đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng

có lợi thế cạnh tranh như thuỷ sản, dệt may và da giầy... Chính phủ sẽ kiểm soát quyết liệt nhập

siêu bằng cả biện pháp thị trường và hành chính vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Bộ Công

thương nghiên cứu hạn chế nhập siêu các mặt hàng không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, phụ

tùng xe máy... phấn đấu kiểm soát nhập siêu trong năm 2008 tương đương năm ngoái, tiến tới

cân bằng cán cân thương mại. Trong đó, 11 tỷ USD là con số nhập siêu trong bốn tháng đầu

năm, chiếm 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Do đó, Thủ tướng yêu cầu phải đẩy mạnh xuất

khẩu, tránh mất cân bằng cán cân thanh toán. Ngoài ra, Thủ tướng cũng chỉ đạo Bộ Công

thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung quản lý chặt việc kiểm soát giá các

mặt hàng xăng, dầu, lương thực, thực phẩm. “Bộ Công thương kiểm soát chặt chẽ tình hình giá

cả tại các địa phương, Bộ Công an phối hợp với các cơ quan xử lý nghiêm các trường hợp đầu

cơ, nâng giá trục lợi” - Thủ tướng nhấn mạnh. Bộ trưởng cho rằng, đẩy mạnh xuất khẩu là một

trong những biện pháp trước nhất để giảm nhập siêu. Cùng với các mặt hàng truyền thống,

doanh nghiệp trong nước cần đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng có tiềm năng như nông sản thực

phẩm, khoáng sản; tập trung xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, có thể mang lại nguồn thu lớn

như dệt may, giày da, đồ gỗ, điện-điện tử, nông-thủy sản, nhất là các sản phẩm công nghệ cao.

Bên cạnh đó, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ để sản xuất các loại máy móc, thiết bị,

nguyên phụ liệu để hạn chế nhập khẩu. Bộ trưởng cho biết, đến khoảng năm 2015, với việc đưa

vào các nhà máy lọc dầu; các nhà máy sản xuất phôi thép ở cả ba miền; nhà máy phân đạm ở

Cà Mau, Ninh Bình và kế hoạch sản xuất 1 tỷ mét vải của ngành dệt may sẽ cải đáng kể việc

phụ thuộc nhập khẩu các sản phẩm trên từ nước ngoài. Bộ trưởng thấy cần thiết phải sớm xây

dựng các biện pháp, rào cản kỹ thuật áp dụng cho các ngành, các sản phẩm phù hợp với quy

định của WTO, các hiệp định mà Việt Namđã ký kết để bảo vệ các sản phẩm trong nước.

Theo Bộ trưởng, mặc dù vậy, bức tranh xuất khẩu chung vẫn có những điểm sáng với

việc nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực tiếp tục đà tăng trưởng tốt, tới hơn 20% so với cùng kỳ

năm ngoái. "Đây là kết quả quan trọng, đặc biệt có ý nghĩa sau 1 năm Việt Nam gia nhập

WTO”, Bộ trưởng nhấn mạnh./.(TTXVN)

Page 28: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

28

VI/Chính sách tỷ giá hối đoái và biện pháp thu hút USD trong việc giảm lạm phát

Các công cụ lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở đã không thành công và gây nên nhiều

biến động khó lường. Lạm phát cần phải có một phương thuốc mới để điều trị phù hợp với tình

hình kinh tế hiện nay. Và tỷ giá hối đoái là công cụ mà chúng ta cần phải xem xét tới để thay

đổi sau một thời gian dài phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Theo phân tích của IMF, một trong

những lí do khiến lạm phát ở Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan được duy trì ở mức tương đối

thấp là nằm ở chính sách tỷ giá hối đoái. Việt Nam đã cố gắng duy trì một đồng tiền yếu trong

những năm trước đây để hỗ trợ cho xuất khẩu, phục vụ cho quá trình tăng trưởng kinh tế của

đất nước nhưng nếu tiếp tục duy trì chính sách này trong khi tình hình kinh tế đã thay đổi liệu

có còn phù hợp. Việc cố gắng “giữ chân” tỷ giá hối đoái trong giai đoạn lạm phát ở mức cao

hiện nay dường như trở thành một bài toán khó tìm lời giải với quá trình điều tiết nền kinh tế.

Nói vậy thì việc giảm tỷ giá hối đoái theo sát với thị trường hơn liệu có thể có tác động tích cực

đối với nền kinh tế hiện nay?

Cần nhớ rằng, khi tỷ giá giảm thì cái lợi đầu tiên là chúng ta sẽ nhập khẩu nguyên, nhiên

liệu với giá rẻ hơn, dẫn đến chi phí sản xuất trong nước giảm làm cho giá cả hàng hóa trong

nước giảm.

Cái lợi thứ hai là xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng cũng sẽ làm tăng tổng cung cho nền

kinh tế trong nước. Tác động gộp của các yếu tố này có thể làm giảm lạm phát.

Nhưng có một hệ quả kèm theo là khi đó người dân sẽ không nắm giữ USD, do VND

đang tăng giá nên họ sẽ chuyển đổi USD sang nắm giữ VND. Các ngân hàng sẽ phải tăng

lượng VND để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi USD của người dân trong khi nhu cầu VND của

chính ngân hàng vẫn chưa được giải quyết đầy đủ. Việc này trước hết sẽ gây bất ổn trong tâm

lý thị trường vốn đã không thực sự ổn định, kế đến là ảnh hưởng đến tính thanh khoản của ngân

hàng cùng với áp lực tăng lượng cung tiền trong lưu thông. Nhự vậy, điều chỉnh tỷ giá hối đoái

không thôi là chưa đủ. Chúng ta cần phải thúc đẩy các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm

giảm bớt tác dụng phụ của chính sách tỷ giá hối đoái. Xét trong tình hình kinh tế như hiện nay,

thị trường chứng khoán chưa có tín hiệu khởi sắc tốt; kinh doanh bất động sản đang được kiềm

chế dần; lạm phát tăng cao khó có thể đo lường được khiến đồng tiền trở nên mất giá, ngay cả

các ngân hàng cũng huy động vốn với lãi suất ngắn hạn cao hơn dài hạn (trước khi Ngân Hàng

Trung ương qui định mức lãi suất trần 12%) để phòng ngừa rủi ro; trong khi giá vàng đang tăng

Page 29: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

29

gần như liên tục. Nhà đầu tư sẽ chọn kênh đầu tư nào? Nhiều người đã nhìn thấy rằng mua

vàng tích trữ sẽ là một kênh đầu tư an toàn hơn. Do đó, khi giảm tỷ giá hối đoái các ngân hàng

cần mở thêm dịch vụ mua vàng trực tiếp bằng USD đối với các nhà đầu tư trong nước, giảm chi

phí, nhanh chóng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho để thu hút lượng USD trong dân chúng, giảm

bớt nhu cầu VND, điều này sẽ làm giảm bớt áp lực lạm phát và tính bất ổn cho nền kinh tế. Mặt

khác, lượng USD mà các ngân hàng mua vào cũng sẽ có được đầu ra do nhu cầu USD của các

doanh nghiệp để nhập khẩu hàng hóa, nguyên, vật liệu. Lượng USD trong lưu thông sẽ giảm,

Ngân Hàng Trung Ương sẽ không lo lắng vì phải bỏ VND ra để mua USD nữa.

Để giải quyết vấn đề lạm phát, một trong những hướng mà Ngân hàng Trung ương có

thể tham khảo là để tỷ giá hối đoái giảm theo xu hướng thực tế của thị trường nhưng ở một

chừng mực nào có giới hạn, để không ảnh hưởng quá lớn đến cán cân thương mại. Chúng ta

phải biết trong giai đoạn này, mục tiêu trước mắt của chúng ta là gì. Luôn luôn có sự đánh đổi

giữa lợi ích và thiệt hại trong các chính sách vĩ mô nhưng với tình trạng lạm phát cao trong bối

cảnh hiện nay.

Chúng tôi cho rằng các biện pháp trên là thích hợp, lợi ích chúng ta nhận được là giảm

lạm phát và chi phí sản xuất, giảm lượng USD quá nhiều mà nền kinh tế chưa thể hấp thụ hết,

ổn định tâm lý của người dân và bảo đảm tính thanh khoản của ngân hàng trong khi chỉ phải trả

một khoản thiệt hại cho thâm hụt cán cân thương mại hay giảm tốc độ tăng trưởng. Như vậy,

nền kinh tế vẫn còn lời?

Page 30: LỜI NÓI ĐẦ - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van-de-tai-cd-dh/file_goc_781714.pdf · 2 LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường

30

KẾT LUẬN

Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày một

ngày hai. Nó là căn bệnh kinh niên nhưng việc xóa bỏ lạm phát hoàn toàn thì cái giả phải trả

không tương xứng với lợi ích đem lại. Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt

Nam rất phức tạp. Lạm phát đã hoành hành công khái khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế

xã hội, xóa bỏ bao cấp, quan liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn

đến khủng hoảng trầm trọng.

Thành công trong cuộc chống lạm phát 1989 đưa nước ta vượt lên chính là sự đổi mới

trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Kinh tế ổn định đã làm tiền đề cơ sở

cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính trị… những

thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong công cuộc chống lạm phát cũng không vì thế mà

chúng ta chủ quan, nới lỏng.

Lạm phát luôn rình rập và đe dọa chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và nhà

nước cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta

phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triên khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của

các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của

riêng ai mà một phần không nhỏ dành cho các nhà doanh nghiệp trẻ góp phần làm rạng danh

đất nước trong nhiều năm tới này.

Lạm phát đang là vấn đề nổi cộm trong lý thuyết Tài chính- Tiền tệ. Em đã cố gắng tới

mức cao nhất hoàn thành đề án trong khả năng của mình. Bài viết này chỉ là những thu nhặt

bước đầu mang tính chất cơ sở cho việc phát triển nhận thức sau này.

Em hy vọng đây là cách tiếp cận có hiệu quả trong quá trình tìm hiểu nền kinh tế nói

chung và lạm phát nói riêng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Tài Chính- Tiền Tệ Ngân Hàng -PGS Nguyễn Văn Tiến

2. Tiền Tệ Ngân Hàng và thị trường Tài Chính – Mishkin.