Upload
others
View
7
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
2
LỜI NÓI ĐẦU
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của nền kinh tế Việt
Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và
cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế
cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh
tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong
kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền
kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ
mới có thể mong muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các
nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền
kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở nước ta hiện nay, chống lạm
phát giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát
triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và
đề xuất các phương án khác. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình
trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có
lạm phát, giá cả của hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng
giảm nhanh.
Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20 ở nước ta lạm phát diễn ra
nghiêm trọng và kéo dài mà nguồn gốc của nó là do hậu quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu
kinh tế bất hợp lý kéo dài. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ nền kinh tế, phương hại đến tất cả các
mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế- xã hội.
Bài tiểu luận với đề tài “Lạm phát ở Việt Nam” xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm
phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt thấy được tầm quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lực
lượng kiến thức còn hạn chế, em thiết nghĩ nghiên cứu đề tài này cũng là một phương pháp để
hiểu nó một cách thấu đáo hơn, sâu sắc hơn
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
I/ Định nghĩa lạm phát
Lạm phát là vấn đề không mấy xa lạ, hầu hết quảng đại quần chúng đều có thể chứng
kiến hay trải qua thời kỳ lạm phát ở những mức độ khác nhau. Nhưng hiểu chính xác lạm phát
là gì không phải dễ. Ngay cả các nhà kinh tế học cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về
định nghĩa lạm phát.
- Quan niệm cổ điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền vượt quá số lượng tiền cần
thiết trong lưu thông”. Tuy nhiên định nghĩa này không giải thích được hiện tượng lạm phát chi
phí đẩy (xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 hoặc ở Việt nam năm 2005) do loại lạm phát
này vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổnđịnh. Nếu chỉ coi là lạm phát khi sự tăng giá là
kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ dẫn đến coi thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy
ra.
- Một quan điểm phổ biến khác cho rằng: Lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức giá
chung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Tuy nhiên không phải mọi sự
tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá cả chỉ tăng tạm thời, trong ngắn hạn, chẳng hạn
như dịp gần Tết Nguyên đán ở Việt nam, sau đó lại giảm xuống thì đó là kết quả của những
biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực hơn là tiêu cực tới nền kinh tế.
Những trường hợp như vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ dẫn đến sự cường điệu hoá nguy cơ
lạm phát.
- Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là Milton Friedman
đã định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong một thời gian dài”.
Theo trường phái này, sự tăng lên của mức giá chung mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của
lạm phát, bản chất của lạm phát được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá đó: đó là sự tăng giá
với tốc độ cao và kéo dài. Chính sự tăng giá cao và liên tục từ thời gian này đến thời gian khác
mới tạo ra những tác động đặc thù của lạm phát. Cũng vì vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng
tháng mà chúng ta có thể nghe trên đài, báo hay vô tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi
bao nhiêu phần trăm so với tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể
4
chỉ là sự thay đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ là tạm thời chứ không kéo dài. Chỉ khi nào
tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi là biểu hiện của lạm phát cao.
Định nghĩa này cũng được các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes ủng hộ. Định
nghĩa này cũng đặc biệt thích hợp với các nhà điều hành chính sách tiền tệ vì Ngân hàng trung
ương chỉ có thể điều chỉnh giá cả trong dài hạn chứ không thể điều chỉnh trong ngắn hạn.
Những cố gắng điều chỉnh giá cả trong ngắn hạn thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ
sẽ chỉ làm cho diễn biến giá cả thêm phức tạp.
II/ Phân loại lạm phát
1) Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một
năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế
hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện:
giả cá tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra với tình trạng mua bán và tích
trữ hàng hóa với số lượng lớn…
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu
nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn
sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
2) Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3
con số một năm. Ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến
động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hóa. Lúc này người dân tích trữ hàng hóa, vàng
bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã
trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
3) Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát
phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng
nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin
không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình
trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xảy ra.
Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển thường diễn
ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh
tế đã chia lạm phát thành 3 loại: Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới
50% một năm; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
5
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I/ Lịch sử của lạm phát ở Việt Nam
Câu chuyện lạm phát ở Việt Nam không phải là mới. Đã từng có thời kỳ tỉ lệ lạm phát
lên đến 3 chữ số.
Đổi tiền và lạm phát năm 1986 gọi là lạm phát năm 1986 vì đó là năm có tỉ lệ tăng cao
nhất, nhưng lạm phát thực sự đã xuất hiện từ nhiều năm trước đó. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ
1981-1985 lần lượt tăng là: 70%, 95%, 50%, 65% và 92%. Chỉ có điều lúc đó không ai thừa
nhận có lạm phát trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, không ai dám đưa vấn đề ra để phân tích,
bàn luận công khai. Không có giải pháp tổng thể nào được đưa ra trong một thời gian dài cho
đến khi xảy ra cuộc đổi tiền vào năm 1985.Có lẽ có quan niệm cho rằng đổi tiền sẽ khôi phục
lại giá trị đồng bạc Việt Nam và lạm phát sẽ chấm dứt nên mới có qui định “Sức mua của đồng
tiền mới bằng 10 lần sức mua của đồng tiền cũ” (Quyết định 01/HĐBT-TĐ ngày 13/9/1985).
Nhưng sau đổi tiền, CPI năm 1985 tăng đến 92%, năm 1986 lên tới 775%, nền kinh tế
bước vào thời kỳ lạm phát dữ dội với tỉ lệ tăng 3 chữ số kéo dài trong 2 năm tiếp theo. Phải đến
cuối năm 1988 và qua năm 1989, nhiều biện pháp về tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát mới được
đưa ra. Một trong những quyết định quan trọng ghi nhận được lúc đó là việc lần đầu tiên mạnh
tay nới lỏng tỷ giá USD/VND vào cuối năm 1988 và tiếp tục cơ chế linh hoạt đến năm 1991,
trước khi bước vào giai đoạn đóng băng tỷ giá từ năm 1992.
Trước tháng 12/1988, tỷ giá do ngân hàng Vietcombank công bố thường thấp hơn thị
trường tự do hàng chục lần. Các công ty xuất khẩu lẩn tránh việc đưa ngoại tệ vào ngân hàng
bằng cách nhập khẩu hàng hóa quay vòng.
Vào tháng 12/1987, Vietcombank công bố tỷ giá ngoại tệ là 3.000 đồng/USD. Đây là
bước tăng vọt so với tỷ giá 368,2 đồng công bố từ đầu năm, tuy vẫn còn thấp hơn mức giá
4.300 đồng ở thị trường tự do. Trong các tháng tiếp theo, tỷ giá được điều chỉnh với biên độ
chênh lệch khoảng 10% so với giá thị trường. Sự thay đổi tỉ giá đã có tác động rất mạnh đến
cán cân thương mại. Nếu chỉ xét trong khu vực giao dịch bằng USD, xuất khẩu trong giai đoạn
từ 1989 đến 1992 bình quân tăng 50% mỗi năm. Tỉ lệ nhập siêu so với xuất khẩu đã lập tức
giảm mạnh từ 47,6% trong năm 1986 xuống gần như cân bằng vào năm 1989 và thậm chí đã có
xuất siêu vào năm 1990.
6
Đến cơn sốt tín dụng đầu thập kỷ 1990. Năm 1989, với cơ chế rất thoáng trong việc
thành lập quỹ tín dụng, hàng loạt quỹ tín dụng ra đời để huy động vốn, cho vay lòng vòng, sau
một thời gian thì đổ bể. Lãi suất tiết kiệm năm 1989 cực kỳ cao, có lúc lên đến hơn 12%/tháng
cùng với cơ chế rất thoáng. Lãi suất cho vay đầu năm 1989 là 10,5%/tháng, cuối năm giảm
xuống còn xấp xỉ 4%/tháng và duy trì ở mức trên dưới 3%/tháng trong các năm từ 90 đến 92.
Tình hình kinh tế xã hội vào lúc đó cũng còn hết sức gay gắt, mặc dù lạm phát đã giảm mạnh
so các năm 86-88. Tỷ giá VND/USD tăng vọt lên trên 13.000 VND/USD trong tháng cuối năm
1991, giảm đột ngột còn 11.000 VND/USD đến năm 1992, sau đó và được neo giữ ở mức thấp
trong suốt nhiều năm từ 1992 đến 1996 trong khoảng từ 10.500 đến 11.000 VND/USD.
Tình trạng lỗ lãi, nợ nần mà không có cơ chế phá sản làm cho hàng loạt công ty đang
hoạt động hết sức khốn đốn. Chính phủ đã ra quyết định lập Ban thanh toán công nợ quốc gia
để thanh toán chéo nhưng kết quả không đáng kể. Nội lực của nền kinh tế bị thương tổn
nghiêm trọng. Tăng trưởng kinh tế của VN từ 1992 đến 1996 đạt đến 9% năm, nhưng từ 1997
thì giảm dần. Một số báo cáo cho rằng do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế châu Á. Đó là
cách lý giải mà ngay từ lúc đó cũng không có sức thuyết phục. Dấu ấn của chính sách tỷ giá,
tiền tệ các năm đó lớn hơn là ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Chính là cơ chế
cứng nhắc cùng với tỷ giá đồng nội tệ cao đã làm mất đi cơ hội của đất nước khi mà dòng FDI
thế giới đang hướng mạnh vào.
Thâm hụt thương mại do tỷ giá và cũng được giải quyết bởi tỷ giá. Kết quả kỳ diệu của
cơ chế tỷ giá năm 1997. Đồng nội tệ đã bị đánh giá cao cùng với tỷ giá bị cố định cứng trong
khoảng thời gian dài từ 1992 đến 1996 đã thúc đẩy nhập khẩu ồ ạt. Do vậy, thâm hụt thương
mại liên tục tăng để lên đến đỉnh cao hơn 45% vào năm 1995. Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế
xơ cứng của tỷ giá được điều chỉnh và kết quả thật kỳ diệu. Liên tục trong 4 năm thâm hụt
thương mại giảm mạnh để chỉ còn -1% vào năm 2000. Các năm 1999-2000 chỉ số giá chỉ tăng
0,1% và -0,6%. Tăng trưởng của GDP cũng thấp: 4,8% năm 1999 và 6,7% năm 2000. Giải
pháp được đưa ra lúc này là kích cầu tăng trưởng thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư của
các doanh nghiệp nhà nước. Chi tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên
trên 8% từ sau năm 2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40%
từ năm 2004 đến nay (2007). Từ đây các nhân tố lạm phát được nuôi dưỡng.
7
Tốc độ tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính cho 2008. Đến hôm nay lạm
phát quay trở lại. Năm 2004 đã xuất hiện những dấu hiệu của cuộc lạm phát mới và được xác
nhận lại vào năm 2005 nhưng đã không có những giải pháp thoả đáng. Thậm chí đến giữa năm
2007 dấu hiệu trở nên rõ ràng hơn thì một lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyên bố mạnh
mẽ “lạm phát không thể đến mức hai con số”. Nếu nhìn lại trong vòng 3 thập kỷ qua, tính chu
kỳ của nền kinh tế bộc lộ rõ hơn: cứ 10 năm lặp lại một lần. Suy thoái diễn ra vào các năm x7,
x8 sau khi đạt được đỉnh tăng trưởng trong các năm x4, x5, x6. Tuy nhiên, đến nay liệu chúng
ta đã có đủ kinh nghiệm để không bị cuốn theo chu kỳ? Kiểm chứng về chính sách từ lạm phát
và hậu lạm phát năm 86 đến nay, cho thấy những lúc khó khăn nhất thì có nhiều tiếng nói và có
sự lắng nghe hơn, xuất hiện những cải cách mạnh mẽ. Nhưng vào những lúc nền kinh tế đạt
được tốc độ tăng trưởng cao dần thì nhiều quyết định được đưa ra rất bất ngờ, ít được tham vấn,
tiếng nói đóng góp cũng ít xuất hiện. Phải chăng đây là căn bệnh cố hữu không thể vượt qua?
II/Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi xảy ra lạm phát
Cuộc chiến chống lạm phát của nền kinh tế Việt Nam giúp phát hiện hai vấn đề: Một về
cơ cấu và một về điều hành kinh tế vĩ mô.
- Về cơ cấu, nền kinh tế của chúng ta đang đối mặt với một vấn đề nghiêm trọng về
sung dụng tài nguyên. Sung dụng tài nguyên không hiệu quả đã làm lãng phí đồng vốn, lãng
phí nhân lực, lãng phí tài nguyên thiên nhiên trong một thời gian dài. Hệ số ICOR cao (4,5) cho
thấy nền kinh tế Việt Nam là một trong những nền kinh tế có đầu tư kém hiệu quả nhất trong
khu vực, và có năng lực cạnh tranh rất thấp. Những hệ quả tiếp theo của nó càng ngày càng lộ
rõ như thâm hụt cán cân thương mại ngày càng nghiêm trọng (chỉ riêng năm tháng đầu năm
2008, con số này đã lên đến 14,4 tỉ USD), khiếm hụt ngân sách luôn được duy trì ở mức 5%
GDP trong nhiều năm, và kết quả tất nhiên của nó là tốc độ lạm phát của nền kinh tế ngày càng
gia tăng (theo một ước lượng đáng tin cậy, nếu loại trừ tác động tăng giá của thị trường thế giới
như giá dầu và giá lương thực, tốc độ lạm phát do tác động nội tại của nền kinh tế mà chủ yếu
xuất phát từ vấn đề sử dụng tài nguyên không hiệu quả, đã lên đến từ 8- 10%/năm). Tuy nhiên,
giải quyết vấn đề cơ cấu là một việc làm lâu dài, đòi hỏi một quyết tâm chính trị rất cao. Bài
toán về cơ cấu là bài toán không thể có lời giải một sớm một chiều, nhưng đó là một bài toán
phải kiên trì giải quyết ngay từ bây giờ, vì rằng đó là bài toán sinh tử, quyết định tương lai phát
triển và cường thịnh hay không của nền kinh tế Việt Nam.
8
- Về điều hành kinh tế vĩ mô, chúng ta đang gặp phải các vấn đề trong chính sách ngân
sách và chính sách tiền tệ. Nếu mục tiêu của chính sách ngân sách vẫn là duy trì một mức
khiếm hụt lên đến 5%/GDP tiếp tục trong thời gian dài, những nỗ lực kiểm soát lạm phát nhằm
ổn định kinh tế vĩ mô sẽ rất khó thành công. Mục tiêu cân bằng ngân sách cần phải là một mục
tiêu được hướng tới kể từ bây giờ. Những nỗ lực chống lạm phát trước hết phải được thể hiện
bởi một quyết tâm từ phía Chính phủ, cụ thể hóa bởi các hành động tiết kiệm ngân sách: tinh
giản bộ máy hành chính, tiết kiệm công chi, giảm đầu tư công. Tất cả những điều đó sẽ giúp
cho việc sung dụng tài nguyên quốc gia trở nên hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích phát
triển đầu tư tư nhân trong và ngoài nước ngay trong các lĩnh vực cần nguồn vốn lớn như xây
dựng cơ sở hạ tầng. Một ngân sách cân bằng sẽ có tác dụng tích cực hai mặt: giảm thiểu tốc độ
lạm phát và tăng cường hiệu quả của việc sung dụng tài nguyên.
- Về chính sách tiền tệ, chúng ta đang lúng túng giải quyết bài toán lãi suất và tỷ giá. Sự
lúng túng này đang gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp. Điều đáng
quan tâm hơn là nó làm xói mòn niềm tin và tâm lý lạc quan đã có trước đây của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Một năm trước đây, kỳ vọng lạc quan đã là động lực thúc đẩy đầu tư và sự
tăng trưởng của các thị trường: thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường bất động
sản, thị trường chứng khoán. Tâm lý lạc quan thái quá có thể tạo ra sự tăng trưởng bong bóng
của một số thị trường nhưng một thái độ lạc quan vẫn luôn luôn cần thiết để duy trì không
những sự tăng trưởng kinh tế mà cả sự ổn định.
III/ Nguyên nhân gây lạm phát ở Việt Nam
Lạm phát bên cạnh việc làm méo mó giá cả, nó còn làm sói mòn tiết kiệm và không
khuyến khích đầu tư, hạn chế tăng trưởng kinh tế, gây ra những bất ổn chính trị và xã hội.
Chính vì vậy, lạm phát được xem như một căn bệnh nguy hiểm buộc chính phủ các nước phải
kiềm chế nó bằng mọi giải pháp. Do vậy, lạm phát đã có xu hướng giảm từ cuối những năm
của thập kỷ 80 trở lại đây, nhất là đối với những nền kinh tế mới nổi.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát gia tăng: Như sự biến động bất thường về
giá cả của một số mặt hàng nhiên liệu, lương thực, thực phẩm do những cú sốc tiêu cực của
cung - ví dụ như sự bất ổn chính trị trên thế giới vừa qua làm tăng giá dầu, hoặc cú sốc đột biến
của cầu - ví dụ như nhu cầu thép tăng đột ngột của Trung Quốc v.v, còn có những nguyên nhân
từ yếu tố tiền tệ. Trường phái tiền tệ mà điển hình là Milton Friedman đã nhận định rằng “lạm
9
phát là một hiện tượng tiền tệ”. Nhận định này được rút ra trên cơ sở các chứng cứ thực nghiệm
nghiên cứu về sự tăng trưởng tiền tệ kéo dài gắn với sự gia tăng lạm phát (lạm phát và sự tăng
trưởng tiền tệ tại Mỹ la tinh 1980-1990 và siêu lạm phát ở Đức 1921-1923 v.v). Bên cạnh đó,
những phân tích quan điểm lạm phát của trường phái Keynes cho thấy rằng, sự gia tăng lạm
phát có thể xuất phát do những cú sốc về cung hoặc cầu, nhưng nếu cung tiền không tăng theo
hay không thay đổi thì chỉ trong một thời gian ngắn, kết quả ròng của cú sốc cung (cầu) sẽ làm
dịch chuyển cả đường tổng cung lẫn đường tổng cầu và đưa mức giá về mức ban đầu. Do vậy
những cú sốc về cung (cầu) không phải là nguồn gốc của lạm phát cao (nhưng là nguồn gốc
làm tăng mức giá trong ngắn hạn).
Trong các nguyên nhân dẫn đến lạm phát do yếu tố tiền tệ, theo tổng kết của IMF
thường xuất phát từ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ (CSTT): Sự thâm hụt ngân sách
kéo dài được bù đắp bằng việc in tiền, và/hoặc sự chi tiêu quá mức và thất thoát lớn trong xây
dựng cơ bản của chính phủ sẽ là nguyên nhân gây ra lạm phát, hoặc CSTT quá nới lỏng, dẫn tới
tăng cung tiền, tăng đầu tư tín dụng quá mức v.v. cũng là nguyên nhân gây lạm phát. Do vậy,
để kiểm soát lạm phát ở mức mục tiêu luôn đòi hỏi sự phối hợp rất chặt chẽ trong điều hành
CSTT và chính sách tài khóa. Xét trong giác độ điều hành CSTT để kiểm soát lạm phát (lạm
phát được coi là mục tiêu cuối cùng của CSTT), tùy điều kiện kinh tế, mức độ phát triển của thị
trường tiền tệ, khả năng điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Trung ương (NHTW) mà NHTW các
nước sử dụng các công cụ khác nhau để kiểm soát lạm phát. Thực tế hiện nay cho thấy, đối với
những nước phát triển, là những nước có thị trường tiền tệ, thị trường vốn phát triển, đặc biệt là
những nước theo đuổi khuôn khổ CSTT hướng tới mục tiêu lạm phát (Inflation targeting),
NHTW thường không quan tâm đến sự gia tăng của cung tiền (Money supply-M2), mà chỉ
quan tâm đến sự thay đổi của lãi suất có ảnh hưởng như thế nào đến sự gia tăng lạm phát, qua
đó họ điều chỉnh lãi suất chỉ đạo của NHTW nhằm đạt được lạm phát mục tiêu. Nhưng đối với
những nước đang phát triển, thị trường tài chính phát triển ở mức độ thấp, thì việc kiểm soát
lạm phát thường thực hiện thông qua việc kiểm soát cung tiền.
Đứng trên giác độ cung tiền là nhân tố tác động làm gia tăng lạm phát, thì để kiểm soát
được cung tiền cần kiểm soát được những nhân tố làm tăng cung tiền. Xét về mặt lý thuyết
M2=k.MB (tiền cung ứng của NHTW), có nghĩa là M2 tăng lên khi NHTW phát hành tiền cho
nền kinh tế và/ hoặc hệ số tạo tiền tăng lên. Nói một cách cụ thể hơn (qua bảng cân đối tiền tệ
10
toàn ngành), khi MB tăng lên sẽ làm tăng và/hoặc tín dụng nền kinh tế, tài sản có ngoại tệ, cho
vay chính phủ ròng, qua đó làm tăng M2. Đối với nền kinh tế bị đôla hoá, M2 tăng lên ngoài
nhân tố do MB tăng lên, còn do nguồn ngoại tệ huy động trong dân tăng hoặc dòng vốn đầu tư
nước ngoài vào nhiều. Do vậy, đối với nền kinh tế đôla hoá, NHTW kiểm soát M2 sẽ gặp nhiều
khó khăn hơn nhiều so với nền kinh tế không bị đôla hoá.
Tình hình giá cả và lạm phát ở Việt Nam thời gian qua, đặc biệt là những biến động bất
thường trong năm 2004 đẩy chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) lên 9,5% (trong khi chỉ số này của
năm 2003 là 3%), vượt xa con số 5% theo kế hoạch đề ra, đã buộc công luận phải lên tiếng. Để
giải tỏa những bức xúc của dân chúng và các nhà sản xuất kinh doanh, đã có nhiều buổi tọa
đàm, cuộc hội thảo được tổ chức và được các phương tiện thông tin đại chúng loan tải. Qua đó
đã toát ra nhiều vấn đề còn tranh cãi về quan điểm về lạm phát, nguyên nhân của lạm phát,
cách tính chỉ số lạm phát, các giải pháp nhằm khắc phục lạm phát. Dưới đây là các nguyên
nhân lạm phát ở Việt Nam hiện nay.
Lạm phát là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có vị trí quan trọng hàng đầu trong điều hành
chính sách của mỗi một quốc gia. Đây cũng là một ttrong hai mục tiêu mà Ngân hàng Trung
ương các nước đều hướng tới. Khái niệm chung về lạm phát được khoa học kinh tế đưa ra là sự
tăng giá chung theo thời gian, khi đó mặt bằng chung về giá cả hàng tiêu dùng trên thị trường
tăng lên. Còn lạm phát tiền tệ hoặc lạm phát giá cả được gọi theo cách nhìn nhận ở góc độ
nguyên nhân của lạm phát. Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại, lạm phát do ba nguyên nhân:
cầu kéo, chi phí đẩy và quá thừa mức tiền cung ứng trong lưu thông. Tuy nhiên trong thực tế,
lạm phát gia tăng còn do một số nguyên nhân nữa, thí dụ: Tâm lý của dân chúng, sự mất cân
đối trong cơ cấu đầu tư...
Lạm phát tiền tệ được hiểu là mức tiền cung ứng cho lưu thông vượt quá mức cần thiết,
biểu hiện là sự mất giá của đồng bản tệ.
Lạm phát giá cả được hiểu là giá cả hàng hóa và dịch vụ nói chung tăng lên do cầu lớn
hơn cung (cầu kéo), hoặc do chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ tăng lên (chi phí đẩy).
Trong thực tế hai loại lạm phát nói trên ít khi xảy ra cùng một lúc, mà thường hoặc là
lạm phát giá cả, hoặc là lạm phát tiền tệ.
11
Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam hiện nay:
Trên cơ sở nghiên cứu về biến động của giá cả và lạm phát ở Việt Nam, lạm phát ở Việt
Nam thời gian qua (đặc biệt là năm 2004) là do những nguyên nhân sau:
* Về phương pháp tính:
Phương pháp tính chỉ số CPI của các nước khác với Việt Nam. Một là, các nước thường
loại trừ giá lương thực, dầu mỏ ra khi tính toán...; Hai là, giá đó là giá giao dịch mua buôn, bán
buôn trên thị trường hàng hóa của các nhà kinh doanh, còn giá bán lẻ cho người tiêu dùng đối
với nhiều mặt hàng thì vẫn ổn định; Ba là, các mặt hàng đó chiếm tỷ trọng nhỏ trong các nhóm
hàng hóa và dịch vụ tính CPI.
Ở Việt Nam theo phương pháp tính CPI hiện nay, giá cả của nhóm hàng lương thực,
thực phẩm chiếm quyền số lớn nhất, tới 47,9% trong rổ hàng hóa tính CPI. Trong các năm
trước đây, mặc dù nhiều nhóm mặt hàng khác có biến động tăng đáng kể, nhưng nhóm mặt
hàng lương thực, thực phẩm, nhất là giá lúa gạo, giá cao su, cà phê, hạt điều, thịt lợn, rau hoa
quả biến động thất thường. Trong các năm 1991, 1993, 1994, 1998, ... giá lương thực và thực
phẩm tăng rất cao, kèm theo đó là chỉ số giá chung cũng tăng cao. Ngược lại, trong các năm
1997, 1999, 2000,... các mặt hàng lương thực, thực phẩm có giá bán giảm thấp, khó tiêu thụ,
nên đã làm cho CPI ở mức rất thấp, thậm chí là âm. Nhưng năm 2004 nhóm mặt hàng này đã
tăng tới 15%; trong đó giá lương thực tăng 12,5% và giá thực phẩm tăng 16,8%, đã tác động
mạnh làm gia tăng cao chỉ số CPI nói chung. Do đó nếu loại bớt được sự tăng giá đột biến gây
những cú sốc trong tính toán, thì rõ ràng chỉ số lạm phát không cao như đã công bố.
* Điều tiết vĩ mô kém.
Một thực tế cần phải thừa nhận là điều tiết vĩ mô của chúng ta trước những biến động
bất thường cả từ trong và ngoài nước để nhằm bình ổn thị trường trong nước là còn nhiều bất
cập. Thí dụ, đến khi giá thuốc tân dược leo thang hàng ngày và được bán ở mức rất cao, gây rối
loạn thị trường thuốc chữa bệnh, lúc đó chúng ta mới nghĩ đến vấn đề dự trữ quốc gia về thuốc
tân dược; Các quyết định quản lý được đưa ra để điều tiết thị trường thường là chậm trễ, vì thế
hiệu quả điều tiết kém. Thí dụ: việc điều chỉnh giảm thuế thép, phôi thép mặc dầu được kiến
nghị từ tháng 1/2004 nhưng đến tháng 3/2004 mới được thực hiện, vào lúc này giá phôi thép đã
tăng lên 480-500 USD/tấn và giá thép xây dựng đã tăng lên tới 500-520 USD/tấn. Do vậy các
doanh nghiệp khi nhập khẩu tại thời điểm này khó có khả năng cạnh tranh với các doanh
12
nghiệp đã nhập phôi thép trước đó; Tình trạng độc quyền, đầu cơ trục lợi vẫn còn phổ biến dẫn
đến thao túng, gây rối loạn thị trường; Cũng do quản lý kém đã dẫn đến tình trạng tham nhũng,
lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản là rất lớn. Hệ lụy tất yếu của những tình trạng trên là thị
trường trong nước thêm rối loạn; Khi chỉ số lạm phát gia tăng nhanh chóng trong những tháng
đầu năm 2004, mặc dù tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế là phù hợp với các chỉ số
kinh tế vĩ mô (sẽ được phân tích ở phần dưới đây), nhưng dưới sức ép của dư luận, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam lại thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm mức cung ứng
tiền tệ. Như vậy Ngân hàng Nhà nước đã khắc phục bất hợp lý này bằng một bất hợp lý khác.
Hệ quả của nó là đẩy lãi suất lên cao, tăng chi phí đầu tư, hạn chế đầu tư, kìm hãm sản xuất và
tăng thất nghiệp.
* Cung ứng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Tổng phương tiện thanh toán, bao gồm tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi tại ngân hàng
thương mại và tổ chức tín dụng (nội và ngoại tệ). Nhân tố này về nguyên lý là thường tác động
có độ trễ, tức là tổng phương tiện thanh toán tăng lên trong kỳ này, thì ảnh hưởng của nó phát
sinh ở kỳ sau, trong ngắn hạn là 6 tháng, trung và dài hạn thường là từ 1 năm trở lên. Trong 14
năm qua, mức tăng tổng phương tiện thanh toán bình quân 23%-26%/năm, phù hợp với tốc độ
tăng trưởng kinh tế và không thấy tác động rõ rệt về lạm phát, cũng như giảm phát. Năm 1999
tổng phương tiện thanh toán tăng cao nhất, tới 39,25%, nhưng các năm 1999, 2000 và 2001 tốc
độ tăng chỉ số CPI ở mức thấp, thậm chí năm 2000 còn giảm 0,6%. Các năm 1994, 1995, 1998,
chỉ số CPI tăng cao, nhưng các năm đó và năm trước đó tốc độ tăng tổng phương tiện thanh
toán vẫn ở mức trung bình nhiều năm. Năm 1998, tổng phương tiện thanh toán tăng thấp nhất,
chỉ có 20,33%, nhưng CPI lại tăng tới 9,2%. Trong 6 tháng đầu năm nay tổng phương tiện
thanh toán tăng 7,26%, thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm 2003 là 8,28%. Song chỉ số tăng giá
trong 6 tháng đầu năm 2004 đã là 7,2%. Còn trong năm 2004, tổng phương tiện thanh toán, tốc
độ tăng trưởng vốn huy động và tăng dư nợ cho vay, ... đều thấp hơn mức cùng kỳ năm ngoái,
nhưng CPI đã là 9,5%. Tất nhiên như đã nói ở trên là có độ trễ về mặt thời gian, thường từ 6
tháng đến 1 năm.
Như vậy có thể khẳng định, lạm phát ở Việt Nam trong hơn 14 năm qua nói chung và
năm 2004 nói riêng không phải là lạm phát tiền tệ.
13
* Do cầu kéo
Trong những năm qua, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hàng hóa và dịch vụ
trên thị trường trong nước dồi dào, đa dạng và phong phú. Do đó hầu như không có tình trạng
khan hiếm hàng hóa trên thị trường dẫn tới tăng giá một hay một số mặt hàng nào đó. Song
trong năm 2004, do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm xẩy ra trên diện rộng và kéo dài, đã làm
giảm mạnh nguồn cung sản phẩm gia cầm, trong khi nhu cầu thực phẩm tiếp tục tăng lên, làm
cho giá cả mặt hàng gia cầm nói riêng tăng đột biến. Đồng thời nhu cầu của người tiêu dùng
được chuyển sang các mặt hàng thực phẩm khác nên đã làm cho nhóm hàng thực phẩm nói
chung tăng cao, tới 16,8% trong 9 tháng đầu năm 2004.
Mặt khác, do biến động mạnh của bất động sản từ cuối năm 1999, do vậy nhu cầu xây
dựng tăng cao, dẫn đến giá cả của vật liệu xây dựng, sắt thép, các mặt hàng trang trí nội thất
đồng lọat tăng lên. Một diễn biến khác cũng xét từ nhân tố cầu kéo, có thể thấy do giá xuất
khẩu gạo của Việt Nam được cải thiện và khối lượng gạo xuất khẩu tăng, thị trường xuất khẩu
thủy sản ổn định và được mở rộng. Do đó giá của các mặt hàng lương thực, thủy hải sản tăng
lên.
* Do chi phí đẩy
Nhân tố này chủ yếu là do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu trên thị trường
thế giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, nguyên liệu nhựa, phân đạm Urê, bột
giấy, thuốc chữa bệnh, vật phẩm y tế..., làm cho giá bán lẻ trong nước cũng tăng lên. Chỉ riêng
mặt hàng xăng dầu trong năm 2004 đã được điều chỉnh tăng 4 lần. Tình hình đó làm cho chi
phí của một loạt lĩnh vực tăng lên, nhất là giao thông vận tải. Giá cước vận chuyển hàng không
tăng 8%, vận tải đường sắt tăng 10% nhằm thực hiện chính sách hòa đồng giá vé giữa người
Việt Nam và người nước ngoài, ... Bên cạnh đó chi phí xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, ...
của người nông dân cũng tăng cao. Giá sắt thép tăng làm cho ngành xây dựng và cơ khí chế tạo
tăng chi phí. Nguyên liệu nhựa và bột giấy tăng... cũng làm cho chi phí của một loạt ngành sản
xuất và một loạt sản phẩm phải tăng giá bán lên.
Đặc biệt là sự biến động lớn của thị trường bất động sản từ năm 1999 đến nay, hệ lụy
của nó là vô cùng lớn. Đáng nhẽ các nguồn tiền nhãn rỗi trong nền kinh tế đặc biệt là trong dân
cư phải được tập trung để đầu tư phát triển sản xuất thì nay mọi người lại dồn hết tiền để kinh
doanh bất động sản gây rối loạn thị trường này, đẩy giá bất động sản tăng hàng chục lần. Do
14
vậy giá thuê mặt bằng để sản xuất, thuê cửa hàng để kinh doanh cũng tăng lên tương ứng, đẩy
chi phí sản xuất lên cao.
* Do tâm lý dân chúng
Khi thị trường bất động sản ở Việt Nam đang rối loạn, giá cả một số mặt hàng đang leo
thang hàng ngày, gây tâm lý bất ổn trong dân chúng thì tiếp đó (đầu năm 2004) Bộ Nội vụ công
bố dự kiến tăng lương mới (thực tế tăng từ 1/10/2004) đã kích thích tâm lý tăng tiêu dùng của
dân chúng, làm cho giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng nhanh từ đầu năm (thông thường là tăng
vào cuối năm). Mặt khác khi dân chúng đang lo sợ sự sụt giá của đồng tiền Việt Nam thì
NHNN Việt Nam lại phát hành thêm loại tiền mệnh giá 100.000 đồng mới vào lưu thông (gấp
đôi mệnh giá lớn nhất trước đó). Vào cuối năm 2003, NHNN Việt Nam lại đưa tiếp loại tiền
polyme mới với các mệnh giá 50.000, 500.000, 100.000 vào lưu thông. Đặc biệt là đồng tiền
với mệnh giá 500.000 (lớn gấp 10 lần so với đồng tiền có mệnh giá lớn nhất trước đó) đã tiếp
tục tác động xấu đến tâm lý của dân chúng. Dân chúng cho rằng NHNN Việt Nam đang đưa
thêm vào lưu thông một khối lượng tiền rất lớn và vì vậy giá trị đồng tiền Việt Nam sẽ giảm
mạnh. Do đó dân chúng càng có xu hướng chuyển từ tài sản tiền tệ VNĐ sang các tài sản tài
chính khác và càng khuyến khích tâm lý tiêu dùng. Kết quả là giá cả các mặt hàng trong nền
kinh tế tiếp tục gia tăng.
Như vậy qua nghiên cứu về diễn biến chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng nói chung và diễn
biến lạm phát nói riêng trong hơn 14 năm qua, cũng như riêng năm 2004 có thể khẳng định,
lạm phát ở nứơc ta là lạm phát giá cả. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí đẩy, quản lý vĩ mô
kém, có một yếu tố nhỏ là cầu kéo và yếu tố tâm lý dân chúng.
15
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHO TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chính phủ nhất trí điều chỉnh mục tiêu chống lạm phát và mức tăng trưởng trong năm
2008 thích hợp trong tình hình mới và nêu 5 giải pháp cần tập trung chỉ đạo và điều hành nhằm
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng
trưởng của nền kinh tế.
I/ Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng
Chính phủ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên tắc thị trường một
cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế.
Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết chặt cho vay... với mục tiêu chung là
kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện những chính
sách này không rẻ chút nào. Bài viết của PGS-TS Trần Ngọc Thơ - ThS Hồ Quốc Tuấn đăng
trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn dưới đây trao đổi về những cái giá mà kinh tế Việt Nam phải
trả khi thực hiện mục tiêu kìm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa đưa ra quyết
định 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu NHNN bằng tiền đồng dưới hình thức bắt
buộc đối với các tổ chức tín dụng. Đây rõ ràng là một biện pháp nằm trong gói giải pháp thắt
chặt tiền tệ để chống lạm phát của Chính phủ, bên cạnh các bài thuốc tăng dự trữ bắt buộc, điều
chỉnh các loại lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn... đã được tiến hành.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang rơi vào tình trạng lạm phát cao và đứng trước
nguy cơ suy thoái toàn cầu, ngân hàng trung ương nhiều nước phải đứng giữa lựa chọn khó
khăn là tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát hay giảm lãi suất để kích thích kinh tế, NHNN đã
lựa chọn quan điểm thắt chặt tiền tệ. Nhìn vào động thái của các nước trên thế giới về chính
sách lãi suất và rộng hơn là chính sách tiền tệ, chúng ta có thể thấy rằng Việt Nam đang đi theo
hướng đi của những nước đang có tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định như Hàn Quốc, Trung
Quốc và Úc là ưu tiên chống lạm phát chứ không đi theo con đường cắt giảm lãi suất của Mỹ
hay vài nước ASEAN khác như Thái Lan, Phillipines và Indonesia là chấp nhận lạm phát để
chống suy thoái.
Nguyên nhân NHNN quyết liệt chống lạm phát cũng không khó hiểu.
16
Từ năm ngoái, áp lực từ phía dư luận về vấn đề lạm phát đã không nhỏ, và nhiều ý kiến
đã đề nghị hy sinh tăng trưởng chống lạm phát. Mặt khác, trong các tháng đầu năm, tỷ lệ lạm
phát đã tăng hơn 14% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,38% trong tháng 1; đồng thời hậu quả
của các đợt rét đậm ở miền Bắc và dịch cúm gia cầm bùng phát đang tạo áp lực tăng giá không
nhỏ trong các tháng tiếp theo. Như vậy, chống lạm phát bằng mọi giá gần như là mục tiêu mà
Chính phủ đang ưu tiên nhất. Vậy những hệ quả của việc thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát là
gì?
Thắt chặt tiền tệ sẽ “tiếp thêm năng lượng” cho cuộc đua tăng lãi suất. Ngay từ tháng 1-
2008, tình hình vốn tiền đồng của các ngân hàng thươngmại đã căng thẳng, ngay từ đầu năm
mới, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc lên đến 25%. Nhiều ngân hàng đã liên tục điều chỉnh lãi
suất theo hướng tăng lên, có nơi điều chỉnh biểu lãi suất 2-3 lần trong một tháng. Như vậy,
quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng
lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt
đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền đồng tăng cao trong khi
thị trường chứng khoán đầu năm không có tín hiệu tốt còn thị trường bất động sản thì đang bị
đánh giá là quá nóng và bị cơ quan quản lý “theo dõi” quá kỹ. Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động
của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng yên. Như vậy, chi phí vay mượn cho sản
xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Ở đây có hai tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp
chuyển hết phần chi phí tăng thêm này vào giá bán và như vậy, giá cả không những không
giảm mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ không thể thực hiện.
Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi phí vay mượn vào giá cả hay không phụ thuộc vào kỳ
vọng lạm phát của người dân và khả năng có các nguồn hàng thay thế trên thị trường. Với
quyết tâm chống lạm phát của Nhà nước và việc nền kinh tế chúng ta đang mở cửa tự do
thương mại sau WTO, khả năng xảy ra tình huống này không lớn. Tuy nhiên, không vì thế mà
ta có thể xem thường, không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu thông hàng hóa, tránh
tình trạng hàng rẻ mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá mắc vì người dân vẫn đang trong tình
trạng lo sợ tăng giá.
Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên, mà doanh
nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ chịu nhiều khó khăn, có thể
dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh. Điều này tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm.
17
Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc là: Trong tình hình các nhà phân tích và tổ chức quốc tế đều
điều chỉnh dự báo tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ, Nhật, châu Âu và
các người khổng lồ mới nổi ở châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ theo hướng giảm đi, chúng ta
dễ dàng nhận ra kinh tế toàn cầu đang đi chậm lại và đã ở trong vòng xoáy suy giảm tăng
trưởng (có lẽ còn hơi sớm để dùng từ suy thoái kéo dài). Trước tình hình như vậy, quyết định
thắt chặt tiền tệ, như đã bàn ở trên, sẽ tạo áp lực tăng lãi suất ngân hàng, tăng chi phí vay mượn
cho sản xuất kinh doanh trong tình hình nền kinh tế cần nhiều vốn để phát triển (hệ số ICOR
của nền kinh tế còn quá cao nên để duy trì tăng trưởng thì phải đổ nhiều vốn vào), có thể là sự
sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc sau khi thực hiện nhiều biện pháp
thắt chặt tiền tệ đã bị điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng từ hai con số còn 9,6%, còn tăng
trưởng Việt Nam sau khi thắt chặt tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Mà tăng trưởng không cao thì
sẽ tạo sức ép lên việc làm và thu nhập của người dân. Đây cũng là vấn đề xã hội không nhỏ.
Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp: Trong điều kiện thị trường chứng khoán đầu năm
2008 vẫn chưa mấy khởi sắc, liên tục các quy định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo ra cảm giác cho nhà
đầu tư là NHNN đang “hy sinh thị trường chứng khoán” để chống lạm phát. Điều này có khả
năng sẽ làm xói mòn hơn nữa niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng của thị trường này trong
năm nay. Với một thị trường được xây dựng trên niềm tin, niềm tin bị sụt giảm thì thị trường
khó mà phát triển khỏe mạnh, sẽ không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao nữa. Mà thị trường không tạo
ra tỷ suất sinh lợi cao thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ không còn cảm thấy thị trường Việt Nam
hấp dẫn nữa. Chúng ta không nên chủ quan cho rằng nếu thị trường chứng khoán giảm giá về
mức hấp dẫn thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ thích tham gia vào Việt Nam nhiều hơn. Một số
nghiên cứu trong các năm 2000, 2001 ở các nước đang phát triển cho thấy các nhà đầu tư nước
ngoài là những người mua bán dựa trên kết quả tốt đẹp (positive feedback trader), nghĩa là
tham gia vào một thị trường khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi hấp dẫn trong quá khứ, và thoát khỏi
nó khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi không cao.
Nhìn lại quá trình vốn nước ngoài đổ vào thị trường chứng khoán nước ta, rõ ràng vốn
đổ vào nhiều trong những năm gần đây khi chúng ta trở thành “ngôi sao đang lên”, còn trước
đó, trong những năm trước 2002, nhiều quỹ đầu tư đã rời khỏi Việt Nam sau những giai đoạn
thị trường rơi vào trạng thái trầm lắng. Đó là chúng ta chưa tính đến yếu tố cơ bản là nếu kinh
18
tế suy giảm tăng trưởng, chi phí vay mượn của doanh nghiệp tăng cao, thì liệu cái nhìn của nhà
đầu tư nước ngoài đối với triển vọng dài hạn của chúng ta sẽ bị bào mòn ít nhiều.
Đồng Việt Nam sẽ tiếp tục lên giá: Lãi suất tiền đồng (VND) được đẩy lên cao trong
tình hình lãi suất đô la Mỹ (USD) trên thế giới đang giảm sẽ tạo áp lực giảm giá lên đồng USD
so với VND. Cho dù lãi suất USD trong nước hiện khá cao so với thế giới, nhưng tính ra vẫn
thấp hơn lãi suất VND khá nhiều, và tốc độ tăng lãi suất VND trong thời gian sắp tới nhiều khả
năng sẽ nhanh hơn nhiều do mức độ căng thẳng vốn tiền đồng đã đến mức báo động ở nhiều
ngân hàng. Áp lực tăng giá VND chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu, vốn
đang đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng xấu từ tình hình suy thoái ở nhiều nước phát triển.
Đứng trước tình hình này, có thể NHNN sẽ tiếp tục bị buộc phải mua USD vào, và như vậy lại
tăng cung tiền ra nền kinh tế. Rồi để trung hòa lượng cung tiền tăng lên này, NHNN sẽ lại phải
tiếp tục phát hành tín phiếu, trái phiếu? Vậy chúng ta đang đi vào một vòng luẩn quẩn? Đó là
chưa kể chúng ta cần để ý đến bài học của Trung Quốc trong bài toán “trung hòa” này: mua
ngoại tệ vào trong lúc lãi suất ngoại tệ thấp, còn phải bán trái phiếu, tín phiếu với lãi suất “hợp
lý”, thì kết quả là khoảng chênh lệch lãi suất là âm, khiến NHNN bị “lỗ nặng”. Với điều kiện
hiện tại, khi mà khoảng hở lãi suất USD-VND đã trở nên quá lớn, liệu NHNN có đủ khả năng
đứng vững trước sức ép phải bù đắp khoảng lỗ do chính sách “trung hòa” này?
Đánh giá chung:
Từ những đánh giá trên, chúng ta có thể nhận ra rằng thực hiện thắt chặt tiền tệ cũng
đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro suy giảm tăng trưởng, đồng tiền tăng giá, thị trường vốn phát
triển chậm lại và bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư gián tiếp. Chấp nhận một rủi ro lớn như vậy,
sẵn sàng trả giá không nhỏ, chỉ là vì chúng ta muốn kiềm chế lạm phát, để tăng trưởng thực sự
mang lại lợi ích cho đại bộ phận người dân. Tuy nhiên, phân tích chính sách này, chúng ta sẽ
nhận thấy có những rủi ro có thể khiến nó không mang lại lợi ích thật sự mà chỉ mang tính
ngắn hạn và không toàn vẹn.
II/ Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước
Hai là tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ tướng yêu cầu hệ thống chính
trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi chưa
19
thật cần thiết; thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng, dầu; rà soát và giảm các hạng mục, công
trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu dùng.
Giảm thâm hụt ngân sách để khôi phục sự ổn định vĩ mô: Thông điệp của Thủ tướng
Chính phủ ngày 30/3/2008 về việc phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm
an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững có nhắc tới một câu nói nổi tiếng của Milton Friedman
- Nobel kinh tế năm 1976 - rằng mặc dù do nhiều nguyên nhân, nhưng “lạm phát luôn có
nguyên nhân tiền tệ”. Nếu như Milton Friedman đã đúng khi cho rằng lạm phát ở đâu và khi
nào cũng xuất phát từ những nguyên nhân tiền tệ, thì một câu hỏi tự nhiên tiếp theo sẽ là tại sao
một chính phủ lại chấp nhận chính sách tiền tệ gây ra lạm phát - một trong những điều tối kỵ
nhất của điều hành vĩ mô.
Thâm hụt ngân sách, lạm phát và mất cân đối vĩ mô: Nhìn vào những nước đã từng trải
qua lạm phát cao sẽ thấy rằng, lạm phát ở những nước này thường là hệ quả của việc in tiền
nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Như vậy, thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn
tới việc nhà nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều này đến lượt nó
dẫn tới lạm phát. Từ góc độ này nhìn lại nền kinh tế Việt Nam, mặc dù Luật Ngân sách 1993
không cho phép nhà nước in tiền để tài trợ thâm hụt ngân sách, nhưng với lượng tiền đồng
trong lưu thông lớn như hiện nay (khoảng 16% GDP) thì chỉ cần duy trì tốc độ in thêm tiền
đúng bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế (giả sử là 8%) thì nhà nước cũng đã có thêm được 1,3%
GDP để tài trợ cho thâm hụt ngân sách (chưa kể đến “thuế lạm phát” cao ở Việt Nam trong
mấy năm qua).
Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan khác, thì lạm phát ở Việt Nam còn do đầu tư
công và nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính sự kém
hiệu quả này, đến lượt mình, lại làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng,
và “vòng xoáy đi xuống” của kinh tế vĩ mô sẽ lại tiếp diễn. Cũng cần nhấn mạnh thêm là “dòng
xoáy đi xuống” này một khi đã được khởi động thì rất khó dừng lại chứ đừng nói tới khả năng
đổi chiều. Vì vậy, nhóm giải pháp thứ hai của Thủ tướng yêu cầu “cắt giảm đầu tư công và chi
phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh
nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách” cần phải được thực hiện một cách
triệt để và nhất quán. Nếu không giảm được thâm hụt ngân sách thì nhóm giải pháp thứ nhất -
20
thắt chặt tiền tệ - sẽ bị vô hiệu hóa đáng kể, và vì vậy không thể đạt được mục tiêu mong muốn
là kiềm chế lạm phát.
Dưới đây sẽ thảo luận thêm một số vấn đề liên quan đến tình trạng thâm hụt ngân sách ở
Việt Nam, sau đó bình luận một số biện pháp nhằm thắt chặt chi tiêu công của Chính phủ, và
cuối cùng trình bày một số khuyến nghị về chính sách.
Tại sao cần giảm thâm hụt ngân sách?
Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay đã tới mức đáng báo động. Theo số liệu chính
thức, thâm hụt ngân sách của nước ta hiện nay là 5% GDP (bao gồm cả tiền trả nợ gốc và
không bao gồm các khoản chi ngoài dự toán). Thế nhưng theo ước tính của Ngân hàng Phát
triển châu Á (ADB) thì thâm hụt ngân sách của Việt Nam - theo cách tính quốc tế, không bao
gồm tiền trả nợ gốc nhưng bao gồm các khoản chi ngoài dự toán - lên tới 7% GDP. Không
những thế, thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong mấy năm trở lại đây luôn được duy trì ở
mức cao, và đặc biệt tăng mạnh trong năm 2007. Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể
dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản
vãng lai. Ở Việt Nam, mặc dù thâm hụt ngân sách tăng đột biến trong năm 2007chưa làm suy
giảm tiết kiệm nội địa và đầu tư tư nhân nhưng nó đã làm tăng mức thâm hụt tài khoản vãng
lai, từ -0,5% năm 2006 lên tới -8% năm 2007. Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói
mòn niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát
kỳ vọng của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ
phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt. Tóm lại, thâm hụt ngân sách cao kéo dài sẽ đe dọa sự ổn
định vĩ mô, và do vậy, khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.
Các biện pháp giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ: Vì được đặt trong bối cảnh
chống lạm phát nên chính sách ngân sách (hay chính sách tài khóa) của Chính phủ trong thời
gian qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công (gồm đầu tư công và chi thường xuyên) và
qua đó giảm tổng cầu. Cụ thể là Chính phủ chỉ thị: (i) Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và
tín dụng nhà nước; (ii) Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của doanh nghiệp
nhà nước (DNNN); (iii) Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp. Tổng đầu tư
của Nhà nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước và thông qua DNNN) luôn chiếm trên dưới
50% tổng đầu tư của toàn xã hội. Vì vậy, không nghi ngờ gì, nếu Nhà nước có thể cắt giảm một
số khoản đầu tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn
21
sẽ nhẹ đi. Cũng tương tự như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các cơ quan nhà
nước có thể cắt giảm chi thường xuyên (chiếm 56% tổng chi ngân sách năm 2007). Mặc dù
chính sách cắt giảm chi tiêu công là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu lực của những biện pháp cụ
thể đến đâu thì còn chưa chắc chắn vì ít nhất có bốn lý do:
Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng, nhất là khi
những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyết định; đã được đưa vào quy hoạch
của các bộ, ngành, địa phương; đã được triển khai; và nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết
thân của những cơ quan liên quan đến dự án.
Thứ hai, Nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các DNNN, một
mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã
tự thành lập ngân hàng riêng.
Thứ ba, với tốc độ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng mức đầu tư công
theo đúng dự toán cũng đã được coi là một thành tích đáng kể.
Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng vì việc giảm chi thường xuyên rất khó khăn
nên đây thường là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm. Hơn thế, với thực tế ở
Việt Nam thì phạm vi chi thường xuyên có thể cắt giảm không nhiều. Đầu tiên là phải trừ đi
quỹ lương (chiếm khoảng 2/3 tổng chi thường xuyên), sau đó phải trừ đi các khoản phụ cấp có
tính chất lương, chi chính sách chế độ, tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc tế, các khoản
chi thường xuyên đã được thực hiện v.v… Theo ước lượng của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu
tư thì nếu làm thật quyết liệt thì sẽ giảm được khoảng 3.000 tỉ đồng chi hội họp và mua sắm xe
- tức là giảm được khoảng 0,8% tổng chi ngân sách.
Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư công: Chính sách giảm tổng cầu
thông qua thắt chặt chi tiêu công là đúng đắn, cần thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực giảm chi tiêu
công của Chính phủ chỉ thực sự có hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có cơ chế để đảm bảo
những khoản đầu tư còn lại có hiệu quả. Đầu tiên là phải có cơ chế quản lý đầu tư công sao cho
những dự án kém hiệu quả (như chương trình 5 triệu tấn đường hay đánh bắt xa bờ) bị loại bỏ
ngay từ đầu. Sau đó, phải đảm bảo dự án được tiến hành đúng tiến độ và không bị thất thoát,
lãng phí (như dự án
112 và các dự án đầu tư xây dựng cơ bản - được ước lượng là thất thoát trung bình 30%). Một
trong những biện pháp có thể được sử dụng để cải thiện cơ chế quản lý đầu tư công là thành lập
22
một hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng thất
thoát, lãng phí trong đầu tư công là do quá trình ra quyết định đầu tư của chính quyền địa
phương và các bộ ngành chủ quản chịu ảnh hưởng của các nhóm lợi ích và do vậy thiếu khách
quan. Vì vậy, nhiệm vụ của ủy ban độc lập này là đánh giá, thẩm định một cách toàn diện và
khách quan các dự án có quy mô vượt quá một quy mô đầu tư nhất định nào đó. Kết luận của
Hội đồng thẩm định này sau đó được công bố rộng rãi. Tương tự như vậy, báo cáo kiểm toán
các DNNN và dự án đầu tư công lớn cũng phải được công khai.
Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu, Chính phủ cũng cần
cải thiện các nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều (tới hơn
40%) vào các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách
thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi
con số này ở các nền kinh tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Thật bất công và
kém hiệu quả khi nhiều người sau một đêm trở thành triệu phú nhờ vào việc Nhà nước đầu tư
cơ sở hạ tầng (CSHT) tại nơi họ có bất động sản, trong khi lại không phải đóng góp gì cho
ngân sách nhà nước. Áp dụng thuế bất động sản đúng đắn là một cách đảm bảo sự bền vững
cho ngân sách nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện được các chương trình đầu tư
CSHT vì quốc kế dân sinh.
Những khó khăn hiện tại của nền kinh tế Việt Nam bắt nguồn từ những bất cập trong
chính sách phát triển dài hạn. Chủ trương tăng trưởng nhờ vào số lượng thông qua đầu tư ồ ạt,
dựa vào khu vực nhà nước vốn kém hiệu quả, đồng thời thiếu sự phối hợp đồng bộ trong điều
hành vĩ mô đã đưa nền kinh tế Việt Nam từ bối cảnh sau khi gia nhập WTO vô cùng thuận lợi
đến tình trạng lạm phát và bất ổn vĩ mô như hiện nay. Vẫn còn may là những khó khăn của
Việt Nam hiện nay hoàn toàn có thể giải quyết được nếu Chính phủ có quyết tâm mạnh mẽ và
chính sách đúng đắn, trong đó kỷ luật tài khóa là điều kiện quan trọng nhất. Thắt chặt và nâng
cao hiệu quả của chi tiêu công, đặc biệt là áp đặt kỷ luật nghiêm ngặt đối với hoạt động đầu tư
của các tập đoàn nhà nước là điều kiện tiên quyết để có thể khôi phục lại cân bằng vĩ mô và gia
tăng hiệu quả, tính ổn định và đà tăng trưởng cho nền kinh tế.
Tình trạng kinh tế vĩ mô của Việt Nam thay đổi đột biến từ năm 2004:
23
Năm
2001 2002 2003 2004 2004 2005
Tăng cung tiền (M2, % thay đổi) 25.5 17.6 24.9 29.5 29.7 33.6
Tác dụng (% thay đổi) 21.5 22.2 28.4 41.6 31.7 25.4
Tổng đầu tư xã hội (% GDP) 31.2 33.2 35.4 35.6 38.9 41.0
Thâm hụt ngân sách nhà nước (% GDP) -4.7 -4.5 -3.3 -4.3 -4.9 -5.0
Chỉ số giá tiêu dùng (% CPI) 0.8 4.0 3.0 9.4 8.4 6.7
III/ Cân đối cung cầu trong nền kinh tế
Ba là Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối cung cầu
các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất như xăng, dầu, gạo, thuốc, xi măng, sắt,
thép, phân bón... gắn liền với kiểm soát chặt chẽ giá cả. Khẳng định không tăng giá bán than
cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu. Nhà nước tiếp tục bù lỗ cho các mặt hàng
này nhằm ổn định giá.
Lãnh đạo các Bộ, ngành cho biết, Chính phủ tiếp tục thực hiện không tăng giá với nhiều
mặt hàng từ nay đến cuối năm. Cùng đó, nhiều biện pháp sẽ được áp dụng để đảm bảo cung
cầu, không biến động giá của những mặt hàng quan trọng.
Tại buổi họp báo sau phiên họp thường kì của Chính phủ, chiều 2/7, Thứ trưởng Bộ Tài
chính Trần Xuân Hà cho biết, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục giữ ổn định giá cả các mặt hàng thiết
yếu. Trong đó, nước sạch, điện, vận tải công cộng sẽ không tăng giá từ nay đến cuối năm. Các
mặt hàng khác được điều chỉnh giá sẽ thực hiện điều chỉnh ở mức hợp lí. Riêng với mặt hàng
xăng dầu, Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công Thương trình Chính phủ lộ trình điều chỉnh giá
bán theo mục tiêu bảo đảm chống lạm phát, phù hợp với khả năng bù lỗ, đồng thời thực hiện hỗ
trợ các đối tượng chính sách. Các công ty kinh doanh xăng dầu đầu mối trong những tháng qua
vẫn lỗ và hiện đã được tạm ứng 95% số lỗ này. Đến thời điểm hiện tại, Chính phủ đã bù lỗ
11.000 tỉ đồng cho các doanh nghiệp kinh doanh của lĩnh vực xăng dầu.Cho dù giá xăng dầu
tăng cao, Chính phủ vẫn chỉ đạo nhập khẩu đủ đảm bảo nhu cầu sản xuất trong nước và nhu
cầu sử dụng của người dân. Trong 6 tháng đầu năm nay, nước ta đã nhập tăng hơn so với 2007
gần 300.000 tấn xăng dầu. Chính Phủ khẳng định, từ nay đến cuối năm “nguồn xăng dầu không
thiếu và nguồn ngoại tệ phục vụ nhập khẩu mặt hàng này cũng không thiếu”.Về xuất, nhập
24
khẩu than, năm 2008, nước ta xuất khẩu khoảng 20 - 22 triệu tấn than, giảm hơn khá nhiều so
với năm 2007 (32 triệu tấn). Ngoài ra, 6 tháng đầu năm, các doanh nghiệp đã nhập khẩu phôi
thép về nhiều gấp đôi năm ngoái, với giá 750 - 800 USD/tấn.
Tuy nhiên, phôi thép nhập về không bán được, vẫn nằm ở cảng, trong khi giá mặt hàng
này đã tăng gần 200 USD/tấn nên các doanh nghiệp đã xuất ra bên ngoài. Trước tình hình thép
tăng giá, Bộ Công thương sẽ có biện pháp hạn chế xuất khẩu phôi thép nhằm bình ổn thị trường
trong nước. Riêng muối, do thời tiết bất lợi, chi phí đầu vào tăng nên giá muối bị đẩy lên hơn
so với năm 2007. Chính phủ đã cho xuất 30.000 tấn từ trong kho dự trữ cung cấp cho thị
trường. Tuy nhiên, theo tính toán, năm nay nhu cầu trong nước khoảng 1,3 triệu tấn, trong khi
lượng muối thu hoạch được cộng với lượng muối trong kho chỉ đạt khoảng 1 triệu tấn. Chính vì
vậy, 6 tháng cuối năm sẽ phải nhập khẩu thêm khoảng 100 - 150.000 tấn. Liên quan đến kiểm
soát giá cả, đại diện Bộ Tài chính thông báo, trong sáu tháng qua, các cơ quan thuế và hải quan
khi kiểm tra chống buôn lậu và gian lận thương mại đã xử lý 6.012 vụ vi phạm, thu nộp ngân
sách nhà nước trên 221 tỷ đồng.
Về tỉ giá hối đoái, Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước, Nguyễn Đồng Tiến nhìn nhận,
sau một tuần ngân hàng thực hiện điều chỉnh biên độ, tỉ giá hối tại thị trường tự do đã giảm
dần. Ngân hàng cũng đã có những kiểm tra, kiểm soát hoạt động mua bán ngoại tệ, không để
vượt quá biên độ cho phép. Chính phủ đánh giá, chỉ số giá tiêu dùng, nhập siêu trong 3 tháng
gần đây đã có những chuyển biến tích cực. Thị trường chứng khoán có những dấu hiệu tốt hơn,
hệ thống ngân hàng ổn định hơn và không có khả năng đổ vỡ, chỉ số giá tiêu dùng khả quan
(tháng 6 là 2,14%, thấp nhất trong 6 tháng) nhưng chưa vững chắc, tình hình còn diễn biến khó
lường.
Tăng trưởng GDP đạt 6,5% là khá thấp so với những năm gần đây, nhưng vẫn cao hơn
các nước trong khu vực. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh
để duy trì tăng trưởng. Phấn đấu với tinh thần cao nhất để giải quyết vốn cho các doanh nghiệp,
nhất là vốn lưu động.
Thủ tướng cũng chỉ đạo các Bộ ngành tích cực, chủ động hơn nữa trong việc tháo gỡ
khó khăn. Đặc biệt, các Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của các
tập đoàn, Tổng công ty thuộc bộ mình quản lí.
25
IV/ Ổn định giá cả thị trường
Bốn là Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các
ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương mại trong
nước, kêu gọi các doanh nghiệp có trách nhiệm với đất nước không đầu cơ trục lợi và tăng giá
các mặt hàng. Chính phủ đã xác định nguyên tắc ưu tiên là từ nay đến cuối năm kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo đà cho những năm tiếp theo, đảm bảo an sinh xã hội. Và trong
việc ổn định giá các mặt hàng thiết yếu, Thủ tướng đã chỉ đạo, với mặt hàng xăng dầu, trong
bất cứ thời điểm nào, địa điểm nào cũng phải đảm bảo nguồn cung tổng thể. Trong trường hợp
có diễn biến bất thường, Chính phủ sẽ nghiên cứu biện pháp hợp lý để giải quyết. Điều này cho
thấy Chính phủ luôn xác định ưu tiên chống lạm phát là mục tiêu hàng đầu, nhất là đối với
xăng dầu – mặt hàng thiết yếu hàng đầu của nền kinh tế.
Giá tiêu dùng tháng 6/2008 tăng 2,14% so với tháng trước, và là tháng có mức tăng thấp
nhất trong 6 tháng đầu năm nay. Nhập siêu trong những tháng gần đây đã giảm nhanh từ mức
3,2 tỷ USD trong tháng 3, xuống mức 1,3 tỷ USD trong tháng 6.
Với mặt hàng than, Bộ Tài chính đang nghiên cứu xây dựng phương án và lộ trình chặt
chẽ về giá than trong thời gian tới, trong đó, quy định giá bán than cho từng hộ tiêu thụ lớn.
Ông Hoàng Thọ Xuân – Vụ trưởng Vụ chính sách thị trường trong nước - Bộ Công thương cho
biết: Bộ Tài chính và Bộ Công thương đang nghiên cứu một phương án và lộ trình hết sức chặt
chẽ trong thời gian tới.
Điện giữ giá ổn định từ nay đến hết năm thì giá than bán cho điện cũng phải ổn định. Đó
là điều đương nhiên. Còn than bán cho sản xuất xi măng, cho sản xuất phân bón, và ngành sản
xuất giấy cũng đang được Bộ Tài chính tính toán xây dựng lộ trình, bước đi cho phù hợp với
điều kiện hiện nay, trên cơ sở kiềm chế tăng giá tiêu dùng và chống lạm phát là mục tiêu hàng
đầu.
Theo dự báo, giá vật liệu xây dựng trong tháng 7 này sẽ tương đối ổn định do nguồn
cung dồi dào. Riêng đối với xi măng, Bộ Xây dựng đã họp bàn với các doanh nghiệp, với Hiệp
hội xi măng quy định thống nhất cách quản lý giá bán trên thị trường. Vụ trưởng Vụ quản lý
vật liệu xây dựng – Bộ Xây dựng, ông Nguyễn Quang Cung, cho biết: để tăng cường nguồn
cung cho thị trường, trong tháng 7 này, sẽ tiếp tục đưa các dự án xi măng xây dựng mới vào
hoạt động, đảm bảo nguồn cung ổn định cho thị trường.
26
Theo ông Cung, điều quan trọng nhất là phải đảm bảo nguồn cung ổn định. Trong tháng
7 này, sẽ tiếp tục đưa nhà máy xi măng sông Gianh vào hoạt động. Lượng xi măng do nhà máy
này sản xuất sẽ được đưa vào thị trường phía Nam. Còn về các biện pháp để quản lý thị trường
vật liệu xây dựng, các doanh nghiệp trong ngành đang phối hợp chặt chẽ giữa nhà máy sản xuất
và hệ thống phân phối. Phải công khai giá bán, bán hàng có niêm yết giá, làm cơ sở cho quản lý
thị trường dễ dàng kiểm tra. Các đại lý bán hàng vượt giá thỏa thuận sẽ bị cảnh cáo, hoặc
không tiếp tục ký hợp đồng bán hàng cho nhà máy. Mục tiêu cuối cùng là hài hòa lợi ích của
sản xuất, nhà phân phối và lợi ích người tiêu dùng.
Còn với mặt hàng thép, trước đề nghị mới đây của Hiệp hội Thép Việt Nam về điều
chỉnh tăng giá bán thép xây dựng trước việc giá phôi thép trên thị trường thế giới tăng cao,
quan điểm của Chính phủ là chưa ủng hộ việc tăng giá thép. Trong bối cảnh giá cả tăng mạnh
và Nhà nước chủ trương tiếp tục kiềm chế lạm phát thì các nhà sản xuất thép cần tính toán
giảm chi phí giá thành như thế nào, cắt giảm chi phí sản xuất ra sao, mới có thể quyết định có
cho phép tăng giá hay không.
Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất phân bón đang tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp
để ổn định thị trường phân bón. Ông Phan Đình Đức – Tổng giám đốc Tổng công ty phân đạm
và hóa chất dầu khí cho biết: Đa phần các loại phân bón đều tăng từ 100- 300%, nhưng riêng
phân đạm chỉ tăng 75%. Chính vì có sản lượng chiếm khoảng 40% thị phần và chính sách giá
của Đạm phú Mỹ nên giá đạm của thị trường không tăng nhiều như các loại phân nhập khẩu
khác.
Về những biện pháp bình ổn giá năm nay của Đạm Phú Mỹ, theo ông Phan Đình Đức:
“Chúng tôi xây dựng hệ thống phân phối trực tiếp qua 4 công ty tại miền Đông Nam Bộ, Tây
Nam Bộ, miền Trung, Tây Nguyên và miền Bắc. Hệ thống phân phối này sẽ giúp đưa sản phẩm
đến tay bà con nông dân trong thời gian ngắn nhất, tránh việc mua bán lòng vòng, mua đi bán
lại làm tăng giá, đội giá. Về lâu dài, chúng tôi đang tích cực tìm kiếm các nguồn nhiên liệu,
nguyên liệu đầu vào như các mỏ khí ở nước ngoài để đầu tư ra nước ngoài, xây dựng nhà máy
phân bón và hóa chất ở nước ngoài”.
Cùng với các giải pháp từ Chính phủ, sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong bình ổn giá,
nhất là với các mặt hàng thiết yếu, sẽ góp phần thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát, phát
triển kinh tế bền vững.
27
V/ Đẩy mạnh xuất khẩu để nhập siêu
Năm là tìm mọi cách đẩy mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu. Thủ tướng nhấn mạnh,
không có xuất khẩu thì không có tăng trưởng nên tập trung đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng
có lợi thế cạnh tranh như thuỷ sản, dệt may và da giầy... Chính phủ sẽ kiểm soát quyết liệt nhập
siêu bằng cả biện pháp thị trường và hành chính vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Bộ Công
thương nghiên cứu hạn chế nhập siêu các mặt hàng không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, phụ
tùng xe máy... phấn đấu kiểm soát nhập siêu trong năm 2008 tương đương năm ngoái, tiến tới
cân bằng cán cân thương mại. Trong đó, 11 tỷ USD là con số nhập siêu trong bốn tháng đầu
năm, chiếm 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Do đó, Thủ tướng yêu cầu phải đẩy mạnh xuất
khẩu, tránh mất cân bằng cán cân thanh toán. Ngoài ra, Thủ tướng cũng chỉ đạo Bộ Công
thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung quản lý chặt việc kiểm soát giá các
mặt hàng xăng, dầu, lương thực, thực phẩm. “Bộ Công thương kiểm soát chặt chẽ tình hình giá
cả tại các địa phương, Bộ Công an phối hợp với các cơ quan xử lý nghiêm các trường hợp đầu
cơ, nâng giá trục lợi” - Thủ tướng nhấn mạnh. Bộ trưởng cho rằng, đẩy mạnh xuất khẩu là một
trong những biện pháp trước nhất để giảm nhập siêu. Cùng với các mặt hàng truyền thống,
doanh nghiệp trong nước cần đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng có tiềm năng như nông sản thực
phẩm, khoáng sản; tập trung xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, có thể mang lại nguồn thu lớn
như dệt may, giày da, đồ gỗ, điện-điện tử, nông-thủy sản, nhất là các sản phẩm công nghệ cao.
Bên cạnh đó, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ để sản xuất các loại máy móc, thiết bị,
nguyên phụ liệu để hạn chế nhập khẩu. Bộ trưởng cho biết, đến khoảng năm 2015, với việc đưa
vào các nhà máy lọc dầu; các nhà máy sản xuất phôi thép ở cả ba miền; nhà máy phân đạm ở
Cà Mau, Ninh Bình và kế hoạch sản xuất 1 tỷ mét vải của ngành dệt may sẽ cải đáng kể việc
phụ thuộc nhập khẩu các sản phẩm trên từ nước ngoài. Bộ trưởng thấy cần thiết phải sớm xây
dựng các biện pháp, rào cản kỹ thuật áp dụng cho các ngành, các sản phẩm phù hợp với quy
định của WTO, các hiệp định mà Việt Namđã ký kết để bảo vệ các sản phẩm trong nước.
Theo Bộ trưởng, mặc dù vậy, bức tranh xuất khẩu chung vẫn có những điểm sáng với
việc nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực tiếp tục đà tăng trưởng tốt, tới hơn 20% so với cùng kỳ
năm ngoái. "Đây là kết quả quan trọng, đặc biệt có ý nghĩa sau 1 năm Việt Nam gia nhập
WTO”, Bộ trưởng nhấn mạnh./.(TTXVN)
28
VI/Chính sách tỷ giá hối đoái và biện pháp thu hút USD trong việc giảm lạm phát
Các công cụ lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở đã không thành công và gây nên nhiều
biến động khó lường. Lạm phát cần phải có một phương thuốc mới để điều trị phù hợp với tình
hình kinh tế hiện nay. Và tỷ giá hối đoái là công cụ mà chúng ta cần phải xem xét tới để thay
đổi sau một thời gian dài phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Theo phân tích của IMF, một trong
những lí do khiến lạm phát ở Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan được duy trì ở mức tương đối
thấp là nằm ở chính sách tỷ giá hối đoái. Việt Nam đã cố gắng duy trì một đồng tiền yếu trong
những năm trước đây để hỗ trợ cho xuất khẩu, phục vụ cho quá trình tăng trưởng kinh tế của
đất nước nhưng nếu tiếp tục duy trì chính sách này trong khi tình hình kinh tế đã thay đổi liệu
có còn phù hợp. Việc cố gắng “giữ chân” tỷ giá hối đoái trong giai đoạn lạm phát ở mức cao
hiện nay dường như trở thành một bài toán khó tìm lời giải với quá trình điều tiết nền kinh tế.
Nói vậy thì việc giảm tỷ giá hối đoái theo sát với thị trường hơn liệu có thể có tác động tích cực
đối với nền kinh tế hiện nay?
Cần nhớ rằng, khi tỷ giá giảm thì cái lợi đầu tiên là chúng ta sẽ nhập khẩu nguyên, nhiên
liệu với giá rẻ hơn, dẫn đến chi phí sản xuất trong nước giảm làm cho giá cả hàng hóa trong
nước giảm.
Cái lợi thứ hai là xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng cũng sẽ làm tăng tổng cung cho nền
kinh tế trong nước. Tác động gộp của các yếu tố này có thể làm giảm lạm phát.
Nhưng có một hệ quả kèm theo là khi đó người dân sẽ không nắm giữ USD, do VND
đang tăng giá nên họ sẽ chuyển đổi USD sang nắm giữ VND. Các ngân hàng sẽ phải tăng
lượng VND để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi USD của người dân trong khi nhu cầu VND của
chính ngân hàng vẫn chưa được giải quyết đầy đủ. Việc này trước hết sẽ gây bất ổn trong tâm
lý thị trường vốn đã không thực sự ổn định, kế đến là ảnh hưởng đến tính thanh khoản của ngân
hàng cùng với áp lực tăng lượng cung tiền trong lưu thông. Nhự vậy, điều chỉnh tỷ giá hối đoái
không thôi là chưa đủ. Chúng ta cần phải thúc đẩy các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm
giảm bớt tác dụng phụ của chính sách tỷ giá hối đoái. Xét trong tình hình kinh tế như hiện nay,
thị trường chứng khoán chưa có tín hiệu khởi sắc tốt; kinh doanh bất động sản đang được kiềm
chế dần; lạm phát tăng cao khó có thể đo lường được khiến đồng tiền trở nên mất giá, ngay cả
các ngân hàng cũng huy động vốn với lãi suất ngắn hạn cao hơn dài hạn (trước khi Ngân Hàng
Trung ương qui định mức lãi suất trần 12%) để phòng ngừa rủi ro; trong khi giá vàng đang tăng
29
gần như liên tục. Nhà đầu tư sẽ chọn kênh đầu tư nào? Nhiều người đã nhìn thấy rằng mua
vàng tích trữ sẽ là một kênh đầu tư an toàn hơn. Do đó, khi giảm tỷ giá hối đoái các ngân hàng
cần mở thêm dịch vụ mua vàng trực tiếp bằng USD đối với các nhà đầu tư trong nước, giảm chi
phí, nhanh chóng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho để thu hút lượng USD trong dân chúng, giảm
bớt nhu cầu VND, điều này sẽ làm giảm bớt áp lực lạm phát và tính bất ổn cho nền kinh tế. Mặt
khác, lượng USD mà các ngân hàng mua vào cũng sẽ có được đầu ra do nhu cầu USD của các
doanh nghiệp để nhập khẩu hàng hóa, nguyên, vật liệu. Lượng USD trong lưu thông sẽ giảm,
Ngân Hàng Trung Ương sẽ không lo lắng vì phải bỏ VND ra để mua USD nữa.
Để giải quyết vấn đề lạm phát, một trong những hướng mà Ngân hàng Trung ương có
thể tham khảo là để tỷ giá hối đoái giảm theo xu hướng thực tế của thị trường nhưng ở một
chừng mực nào có giới hạn, để không ảnh hưởng quá lớn đến cán cân thương mại. Chúng ta
phải biết trong giai đoạn này, mục tiêu trước mắt của chúng ta là gì. Luôn luôn có sự đánh đổi
giữa lợi ích và thiệt hại trong các chính sách vĩ mô nhưng với tình trạng lạm phát cao trong bối
cảnh hiện nay.
Chúng tôi cho rằng các biện pháp trên là thích hợp, lợi ích chúng ta nhận được là giảm
lạm phát và chi phí sản xuất, giảm lượng USD quá nhiều mà nền kinh tế chưa thể hấp thụ hết,
ổn định tâm lý của người dân và bảo đảm tính thanh khoản của ngân hàng trong khi chỉ phải trả
một khoản thiệt hại cho thâm hụt cán cân thương mại hay giảm tốc độ tăng trưởng. Như vậy,
nền kinh tế vẫn còn lời?
30
KẾT LUẬN
Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày một
ngày hai. Nó là căn bệnh kinh niên nhưng việc xóa bỏ lạm phát hoàn toàn thì cái giả phải trả
không tương xứng với lợi ích đem lại. Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt
Nam rất phức tạp. Lạm phát đã hoành hành công khái khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế
xã hội, xóa bỏ bao cấp, quan liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn
đến khủng hoảng trầm trọng.
Thành công trong cuộc chống lạm phát 1989 đưa nước ta vượt lên chính là sự đổi mới
trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Kinh tế ổn định đã làm tiền đề cơ sở
cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính trị… những
thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong công cuộc chống lạm phát cũng không vì thế mà
chúng ta chủ quan, nới lỏng.
Lạm phát luôn rình rập và đe dọa chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và nhà
nước cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta
phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triên khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của
các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của
riêng ai mà một phần không nhỏ dành cho các nhà doanh nghiệp trẻ góp phần làm rạng danh
đất nước trong nhiều năm tới này.
Lạm phát đang là vấn đề nổi cộm trong lý thuyết Tài chính- Tiền tệ. Em đã cố gắng tới
mức cao nhất hoàn thành đề án trong khả năng của mình. Bài viết này chỉ là những thu nhặt
bước đầu mang tính chất cơ sở cho việc phát triển nhận thức sau này.
Em hy vọng đây là cách tiếp cận có hiệu quả trong quá trình tìm hiểu nền kinh tế nói
chung và lạm phát nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tài Chính- Tiền Tệ Ngân Hàng -PGS Nguyễn Văn Tiến
2. Tiền Tệ Ngân Hàng và thị trường Tài Chính – Mishkin.