110
Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế, các hình thức kinh doanh, các mặt hàng trở nên đa dạng và phong phú. Khi đời sống của người dân ngày càng cải thiện thì nhu cầu tiêu dùng hàng hoá ngày càng tăng. Do đó các hoạt động mua, bán các hình thức tổ chức thương mại diễn ra tấp nập hơn và ngày càng mở rộng. Là một loại hình tổ chức thương mại hỗn hợp, chợ ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Tính chất và trình độ xã hội hoá nền sản xuất ngày càng cao, sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc thì nhu cầu trao đổi hàng hoá ngày càng lớn và chợ với tư cách là nơi trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa người sản xuất với người sản xuất, giữa người sản xuất với người tiêu dùng ngày càng phát triển. Thông qua bộ mặt và tình hình sinh hoạt chợ có thể đánh giá được trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và đời sống dân cư của một vùng, địa phương. Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống chợ nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều yếu kém như cơ sở vật chất nhìn

Qt059

  • Upload
    phi-phi

  • View
    30

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Qt059

Lời mở đầu

Trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế, các

hình thức kinh doanh, các mặt hàng trở nên đa dạng và phong phú. Khi đời sống

của người dân ngày càng cải thiện thì nhu cầu tiêu dùng hàng hoá ngày càng

tăng. Do đó các hoạt động mua, bán các hình thức tổ chức thương mại diễn ra

tấp nập hơn và ngày càng mở rộng.

Là một loại hình tổ chức thương mại hỗn hợp, chợ ra đời và phát triển cùng

với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Tính chất và trình độ xã hội hoá nền

sản xuất ngày càng cao, sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc thì nhu

cầu trao đổi hàng hoá ngày càng lớn và chợ với tư cách là nơi trao đổi hàng hoá,

dịch vụ giữa người sản xuất với người sản xuất, giữa người sản xuất với người

tiêu dùng ngày càng phát triển. Thông qua bộ mặt và tình hình sinh hoạt chợ có

thể đánh giá được trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và đời sống dân cư

của một vùng, địa phương.

Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống chợ nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều yếu

kém như cơ sở vật chất nhìn chung còn nghèo nàn, lạc hậu, việc đầu tư xây dựng

chợ mới chỉ do Nhà nước làm, chưa thực hiện xã hội hoá trong công tác đầu tư

xây dựng chợ theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", nhiều chợ

chưa đáp ứng được yêu cầu vệ sinh, an toàn thực phẩm, văn minh thương mại.

Công tác quản lý chợ còn nhiều hạn chế và yếu kém, đội ngũ cán bộ quản lý còn

nhiều người chưa qua đào tạo và hạn chế về năng lực chuyên môn... Trên cở sở

đó ta thấy được sự cần thiết phải phát triển mạng lưới chợ theo hướng nâng cao

chất lượng và hiệu quả hoạt động.

Một trong những biện pháp nhằm tạo ra sự phát triển đột biến mạng lưới

chợ là chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ, cho phép các tổ chức, cá nhân

tham gia đầu tư, xây dựng, kinh doanh chợ. UBND quận Cầu Giấy đã lên kế

hoạch và đề án để thực hiện việc chuyển đổi này. Tuy nhiên, việc triển khai có

Page 2: Qt059

liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, mới chỉ dừng lại ở giai đoạn thí điểm

bước đầu. Vì thế đòi hỏi chúng ta cần nhanh chóng có những biện pháp để tạo

môi trường pháp lý thuận lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức,

cá nhân đầu tư, kinh doanh chợ, từ đó làm cho việc chuyển đổi được triển khai

nhanh chóng trong thực tế.

Xuất phát từ thực tiến đó, em xin chọn đề tài "Phương hướng và biện

pháp chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy

trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho mình.

Mục đích của đề tài: Hệ thống các cơ sở lý luận về chợ và các mô hình tổ

chức quản lý chợ ở nước ta. Trên cơ sở phân tích thực trạng về phát triển và

quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy, đưa ra phương hướng, giải pháp và

kiến nghị nhằm nhanh chóng chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa

bàn quận trong giai đoạn hiện nay.

Bố cục của đề tài bao gồm 3 chương:

- Chương I: Một số vấn đề lý luận về chợ và mô hình tổ chức quản lý chợ.

- Chương II: Thực trạng phát triển và tổ chức quản lý chợ trên đại bàn quận

Cầu Giấy hiện nay.

- Chương III: Phương hướng và biện pháp nhằm chuyển đổi mô hình tổ

chức quản lý trên đại bàn quận Cầu Giấy trong giai đoạn hiện nay.

Với trình độ còn hạn chế, đề tài hoàn thành có thể còn nhiều thiếu sót nhất

định, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và toàn thể các

bạn để đề tài của em được hoàn chỉnh hơn.

Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Mai Văn Bưu cùng các cô,

chú trong phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy đã tận tình giúp đỡ em hoàn

thành đề tài nghiên cứu này.

Page 3: Qt059

Chương I

Một số vấn đề lý luận về chợ và mô hình tổ chức quản lý chợ

I. Chợ và vai trò của chợ trong nền kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay

1. Khái niệm, đặc trưng của chợ

1.1. Khái niệm:

Trên thực tế tuỳ theo lĩnh vực nghiên cứu mà có rất nhiều khái niệm khác

nhau về chợ:

- Theo định nghĩa trong các từ điển tiếng Việt đang được lưu hành: "Chợ là

nơi công cộng để đông người đến mua bán vào những ngày hoặc những buổi

nhất định"(1); "Chợ là nơi tụ họp giữa người mua và người bán để trao đổi hàng

hoá, thực phẩm hàng ngày theo từng buổi hoặc từng phiên nhất định (chợ

phiên)...

- Theo Thông tư số 15/TM-CSTTTN ngày 16/10/1996 của Bộ Thương Mại

hướng dẫn tổ chức và quản lý chợ "Chợ là mạng lưới thương nghiệp được hình

thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội".

- Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính Phủ về

phát triển và quản lý chợ "Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình

thành và phát triển mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm theo

quy hoạch, đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng

của khu vực dân cư".

(1) Phạm vi chợ: là khu vực được quy hoạch dành cho hoạt động chợ, bao

gồm diện tích để bố trí các điểm kinh doanh, khu vực dịch vụ (như: bãi để xe,

kho hàng, khu ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác) và đường bao

quanh chợ.

(1) Theo Đại Từ điển tiếng Việt - NXB Từ điển Bách Khoa - 2003 (tr.138)(2) Theo Đại Từ điển tiếng Việt - NXB Văn hoá Thông tin - 2004 (tr.155)

Page 4: Qt059

(2) Chợ đầu mối: là chợ có vai trò chủ yếu thu hút, tập trung lượng hàng

hoá lớn từ các nguồn sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế hoặc của ngành

hàng để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác.

(2) Điểm kinh doanh tại chợ: bao gồm quầy hàng, sạp hàng, ki-ốt, cửa hàng

được bố trí cố định trong phạm vi chợ theo thiết kế xây dựng chợ, có diện tích

quy chuẩn tối thiểu là 3 m2/điểm.

Từ những điểm hội tụ chung của nhiều định nghĩa, ta có thể rút ra kết luận:

Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển mang

tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm công cộng, tập trung đông

người mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nhau, được hình thành do yêu

cầu của sản xuất, lưu thông và đời sống tiêu dùng xã hội và hoạt động theo các

chu kỳ thời gian nhất định.

1.2. Đặc trưng của chợ:

Chợ có những đặc trưng sau:

- Chợ là một nơi (địa điểm) công cộng để mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch

vụ của dân cư, ở đó bất cứ ai có nhu cầu đều có thể đến mua, bán và trao đổi

hàng hoá, dịch vụ với nhau.

- Chợ được hình thành do yêu cầu khách quan của sản xuất và trao đổi

hàng hoá, dịch vụ của dân cư, chợ có thể được hình thành một cách tự phát hoặc

do quá trình nhận thức tự giác của con người. Vì vậy trên thực tế có nhiều chợ

đã được hình thành từ việc quy hoạch, xây dựng, tổ chức, quản lý chặt chẽ của

các cấp chính quyền và các ngành quản lý kinh tế kỹ thuật. Nhưng cũng có rất

nhiều chợ được hình thành một cách tự phát do nhu cầu sản xuất và trao đổi

hàng hoá của dân cư, chưa được quy hoạch, xây dựng, tổ chức, quản lý chặt chẽ.

- Các hoạt động mua, bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ tại chợ thường được

diễn ra theo một quy luật và chu kỳ thời gian (ngày, giờ, phiên) nhất định. Chu

kỳ họp chợ hình thành do nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ và tập quán của

từng vùng, từng địa phương quy định.

1.3. So sánh chợ với siêu thị:

Page 5: Qt059

Theo từ điển Kinh tế thị trường: "Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ bày bán

nhiều mặt hàng đáp ứng tiêu dùng hàng ngày của người tiêu dùng như thực

phẩm, đồ uống, dụng cụ gia đình và các loại vật dụng cần thiết khác".

Như vậy, những nét đặc trưng cơ bản của siêu thị khác với chợ là:

- Siêu thị là một cửa hàng bán lẻ.

- Siêu thị áp dụng phương thức tự phục vụ.

- Giá ở siêu thị được niêm yết công khai.

- Siêu thị thường chú trọng ở nghệ thuật trưng bày hàng hoá.

- Siêu thị áp dụng các hình thức quản lý, bán hàng và thanh toán bằng

những tiến bộ của khoa học, công nghệ (tin học, điện tử, khoa học xã hội trong

bán hàng…).

2. Phân loại chợ trong mạng lưới chợ ở nước ta

Hiện nay ở nước ta tồn tại rất nhiều các loại chợ khác nhau, dựa theo những

tiêu thức khác nhau ta có những cách phân loại sau:

2.1. Theo địa giới hành chính:

Có hai loại chợ tồn tại theo tiêu thức này là chợ đô thị và chợ nông thôn.

2.1.1. Chợ đô thị:

Là các loại chợ được tổ chức, tụ họp ở thành phố, thị xã, thị trấn. Do ở đây,

đời sống và trình độ văn hoá có phần cao hơn ở nông thôn, cho nên các chợ

thành phố có tốc độ hiện đại hoá nhanh hơn, văn minh thương mại trong chợ

cũng được chú trọng, cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường, bổ sung và

hoàn chỉnh. Phương tiện phục vụ mua bán, hệ thống phương tiện truyền thông

và dịch vụ ở các chợ này thường tốt hơn các chợ ở khu vực nông thôn.

2.1.2. Chợ nông thôn:

Là chợ thường được tổ chức tại trung tâm xã, trung tâm cụm xã. Hình thức

mua bán ở chợ đơn giản, dân dã (có nơi, như ở một số vùng núi, người dân tộc

thiểu số vẫn còn hoạt động trao đổi bằng hiện vật tại chợ), các quầy, sạp có quy

mô nhỏ lẻ, manh mún. Nhưng ở các chợ nông thôn thể hiện đậm đà bản sắc

truyền thống đặc trưng ở mỗi địa phương, của các vùng lãnh thổ khác nhau.

Page 6: Qt059

2.2. Theo tính chất mua bán:

Dựa theo tiêu thức này, ta có thể phân chia thành hai loại là chợ bán buôn

và bán lẻ.

2.2.1. Chợ bán buôn:

Là các chợ lớn, chợ trung tâm, chợ có vị trí là cửa ngõ của thành phố, thị

xã, thị trấn, có phạm vi hoạt động rộng, tập trung vói khối lượng hàng hoá lớn.

Hoạt động mua bán chủ yếu là thu gom và phân luồng hàng hoá đi các nơi. Các

chợ này thường là nơi cung cấp hàng hoá cho các trung tâm bán lẻ, các chợ bán

lẻ trong và ngoài khu vực, nhiều chợ còn là nơi thu gom hàng cho xuất khẩu.

Các chợ này có doanh số bán buôn chiếm tỷ trọng cao (trên 60%), đồng thời vẫn

có bản lẻ nhưng tỷ trọng nhỏ.

2.2.2. Chợ bán lẻ:

Là những chợ thuộc phạm vi xã, phường (liên xã, liên phường), cụm dân

cư, hàng hoá qua chợ chủ yếu để bán lẻ, phục vụ trực tiếp cho người tiêu dùng.

2.3. Theo đặc điểm mặt hàng kinh doanh:

Có chợ tổng hợp và chợ chuyên doanh.

2.3.1. Chợ tổng hợp:

Là chợ kinh doanh nhiều loại hàng hoá thuộc nhiều ngành hàng khác nhau.

Trong chợ tồn tại nhiều loại mặt hàng như: hàng tiêu dùng (quần áo, giày dép,

các mặt hàng lương thực thực phẩm, hàng gia dụng…), công cụ lao động nông

nghiệp (cuốc, xẻng, liềm búa…), cây trồng, vật nuôi…, chợ đáp ứng toàn bộ các

nhu cầu của khách hàng. Hình thức chợ tổng hợp này thể hiện khái quát những

đặc trưng của chợ truyền thống, và ở nước ta hiện nay loại hình này vẫn chiếm

ưu thế về số lượng cũng như về thời gian hình thành và phát triển.

2.3.2. Chợ chuyên doanh:

Là loại chợ chuyên kinh doanh một mặt hàng chính yếu, mặt hàng này

thường chiếm doanh số trên 60% đồng thời vẫn có bán một số mặt hàng khác,

các loại hàng này có doanh số dưới 40% tổng doanh thu. Hình thức chợ này

Page 7: Qt059

cũng tồn tại ở nước ta như chợ vải, chợ hoa tươi, chợ vật liệu xây dựng, chợ rau

quả, chợ giống cây trồng…

2.4. Theo số lượng hộ kinh doanh, vị trí và mặt bằng của chợ:

Dựa theo cách phân loại trong Điều 3 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP của

Chính phủ về phát triển và quản lý chợ thì chợ được chia thành 3 loại: chợ loại

1, chợ loại 2 và chợ loại 3.

2.4.1. Chợ loại 1 là chợ phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:

- Là chợ có trên 400 điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố, hiện

đại theo quy hoạch;

- Được đặt ở các vị trí trung tâm kinh tế thương mại quan trọng của tỉnh,

thành phố hoặc là chợ đầu mối của ngành hàng, của khu vực kinh tế và được tổ

chức họp thường xuyên;

- Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ

chức đầy đủ các dịch vụ tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản

hàng hoá, dịch vụ đo lường, dịch vụ kiểm tra chất lượng hàng hoá, vệ sinh an

toàn thực phẩm và các dịch vụ khác.

2.4.2. Chợ loại 2 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:

- Là chợ có trên 200 diểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc

là bán kiên cố theo quy hoạch;

- Được đặt ở trung tâm giao lưu kinh tế của khu vực và được tổ chức họp

thường xuyên hay không thường xuyên;

- Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ

chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản

hàng hoá, dịch vụ đo lường.

2.4.3. Chợ loại 3 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:

- Là chợ có dưới 200 điểm kinh doanh hoặc các chợ chưa được đầu tư xây

dựng kiên cố hoặc bán kiên cố;

- Chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán hàng hoá của nhân dân trong xã,

phường và địa bàn phụ cận.

Page 8: Qt059

2.5. Theo tính chất và quy mô xây dựng:

Theo tiêu chí này, chợ được chia thành chợ kiên cố, chợ bán kiên cố và chợ

tạm:

2.5.1. Chợ kiên cố:

Là chợ được xây dựng hoàn chỉnh với đủ các yếu tố của một công trình

kiến trúc, có độ bền sử dụng cao (thời gian sử dụng trên 10 năm). Chợ kiên cố

thường là chợ loại 1 có diện tích đất hơn 10.000 m2 và chợ loại 2 có diện tích đất

từ 6000-9000 m2. Các chợ kiên cố lớn thường nằm ở các tỉnh, thành phố lớn, các

huyện lỵ, trị trấn và có thời gian tồn tại lâu đời, trong một thời kỳ dài và là trung

tâm mua bán của cả vùng rộng lớn.

2.5.2. Chợ bán kiên cố:

Là chợ chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Bên cạnh những hạng mục xây

dựng kiên cố (tầng lầu, cửa hàng, sạp hàng) còn có những hạng mục xây dựng

tạm như lán, mái che, quầy bán hàng…, độ bền sử dụng không cao (dưới 10

năm) và thiếu tiện nghi. Chợ bán kiên cố thường là chợ loại 3, có điện tích đất

3000-50000 m2. Chợ này chủ yếu phân bổ ở các huyện nhỏ, khu vực thị trấn xa

xôi, chợ liên xã, liên làng, các khu vực ngoài thành phố lớn.

2.5.3. Chợ tạm:

Là chợ mà những quầy, sạp bán hàng là những lều quán được làm có tính

chất tạm thời, không ổn định, khi cần thiết có thể dỡ bỏ nhanh chóng và ít tốn

kém. Loại chợ này thường hay tồn tại ở các vùng quê, các xã, các thôn, có chợ

được dựng lên để phục vụ trong một thời gian nhất định (như tết, lễ hội…).

3. Vai trò của chợ trong nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay

Trong những năm qua, mạng lưới chợ ở nước ta đóng vai trò rất quan trọng

trong sự phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là từ thập niên 80 và những năm đầu

của thập niên 90. Đây là giai đoạn mà mạng lưới siêu thị và trung tâm thương

mại chưa hình thành và phát triển, chợ vẫn là nơi tiêu thụ hàng hóa chủ yếu của

các doanh nghiệp sản xuất cũng như là nơi mua sắm chủ yếu của người dân. Tuy

nhiên, hiện nay chợ vẫn giữ một vai trò rất quan trọng thể hiện trên các mặt sau:

Page 9: Qt059

3.1. Về mặt kinh tế

Chợ là một bộ phận quan trọng trong cấu thành mạng lưới thương nghiệp

xã hội :

- Đối với vùng nông thôn: Chợ vừa là nơi tiêu thụ nông sản hàng hoá, tập

trung thu gom các sản phẩm, hàng hoá phân tán, nhỏ lẻ để cung ứng cho các thị

trường tiêu thụ lớn trong và ngoài nước, vừa là nơi cung ứng hàng công nghiệp

tiêu dùng cho nông dân và một số loại vật tư cho sản xuất nông nghiệp ở nông

thôn.

- Ở khu vực thành thị: Chợ cũng là nơi cung cấp hàng hoá tiêu dùng,

lương thực thực phẩm chủ yếu cho các khu vực dân cư. Tuy nhiên hiện nay đã

xuất hiện khá nhiều hình thức thương mại cạnh tranh trực tiếp với chợ, vì thế

bên cạnh việc mở rộng hay tăng thêm số lượng chợ chúng ta sẽ đầu tư nâng cấp

chất lượng hoạt động của chợ và đầu tư nâng cấp chất lượng dịch vụ của chợ.

Hoạt động của các chợ làm tăng ý thức về kinh tế hàng hoá của người dân,

rõ nét nhất là ở miền núi, vùng cao từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần

tích cực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, miền núi. Trong các

phiên chợ, các buổi chợ là cơ hội của người dân giao lưu trao đổi, mua bán, lưu

thông hàng hoá của mình, cập nhật thông tin, ý thức xã hội, nó làm tăng khả

năng phản ứng của người dân với thị trường, với thời thế và tự mình có thể ý

thức được công việc làm ăn buôn bán của mình trong công cuộc đổi mới.

Chợ là một nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước. Mặc dù Nhà

nước chưa có thể nâng cấp đủ hệ thống chợ ở nước ta, chưa đặc biệt quan tâm

đầu tư phát triển, nhưng các chợ trong cả nước đã đem lại cho Ngân sách Nhà

nước khoảng 300.000 triệu đồng mỗi năm (chưa kể các nguồn thu từ thuế trực

tiếp).

Sự hình thành chợ kéo theo sự hình thành và phát triển các ngành nghề sản

xuất. Đây chính là tiền đề hội tụ các dòng người từ mọi miền đất nước tập trung

để làm ăn, buôn bán. Chính quá trình này làm xuất hiện các trung tâm thương

mại và không ít số đó trở thành những đô thị sầm uất.

Page 10: Qt059

3.2. Về giải quyết việc làm

Chợ ở nước ta đã giải quyết được một số lượng lớn việc làm cho người lao

động. Hiện nay trên toàn quốc có hơn 2,3 triệu người lao động buôn bán trong

các chợ và số người tăng thêm có thể tới 10%/năm.

Nếu mỗi người trực tiếp buôn bán có thêm 1 đến 2 người giúp việc (phụ

việc bán hàng, tổ chức nguồn hàng để đưa về chợ, đưa hàng tới các mối tiêu thụ

theo yêu cầu của khách…) thì số người lao động có việc tại chợ sẽ gấp đôi, gấp

ba lần số lượng người chỉ buôn bán ở chợ, và như thế chợ giải quyết được một

số lượng lớn công việc cho người lao động khi hoạt động.

3.3. Về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc

Có thể nói, chợ là một bộ mặt kinh tế - xã hội của một địa phương và là nơi

phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của một vùng

dân cư. Tính văn hoá ở chợ được thể hiện rõ nhất là ở miền núi, vùng cao, vùng

sâu, vùng xa.

- Đối với người dân: Đồng bào đến chợ ngoài mục tiêu mua bán còn lấy

chợ làm nơi giao tiếp, gặp gỡ, thăm hỏi người thân, trao đổi công việc, kể cả

việc dựng vợ gả chồng cho con cái. Chợ còn là nơi hò hẹn của lứa đôi, vì vậy

người dân miền núi thường gọi là đi "chơi chợ" thay cho từ đi chợ mua sắm như

là người dưới xuôi thường gọi. Các phiên chợ này thường tồn tại từ rất lâu đời,

và nó là những bản sắc văn hoá vô cùng đặc trưng của các dân tộc ở nước ta.

- Đối với chính quyền: ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa chợ là địa

điểm duy nhất hội tụ đông người. Tại chợ có đại diện của các lứa tuổi, tất cả các

thôn bản và các dân tộc. Vì thế, đã từ lâu, Chính quyền địa phương đã biết lấy

chợ là nơi phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của

Nhà nước, là nơi tuyên truyền cảnh giác và đấu tranh với những phần tử xuyên

tạc đường lối của Đảng. Từ phong trào kế hoạch hoá gia đình đến kỹ thuật chăm

sóc cây trồng vật nuôi, vệ sinh phòng dịch… đều có thể được phổ biến một cách

hiệu quả ở đây. Chính vì lý do đó, chợ miền núi hay miền xuôi đều được bố trí ở

Page 11: Qt059

trung tâm cụm, xã (nhất là miền núi). Trong mỗi chợ đều giành vị trí trung tâm

làm công tác tuyên truyền.

Trên thực tế, một số chợ truyền thống có từ rất lâu đời đang trở thành một

địa điểm thu hút khách du lịch (như Chợ Tình Sa Pa, chợ Cầu Mây ở Nam

Định…). Nếu được đầu tư thoả đáng cả về cở sở vật chất cũng như sự quan tâm

quản lý của Nhà nước, đây sẽ là các địa danh hấp dẫn đối với khách du lịch

trong và ngoài nước, và nó sẽ là tiềm năng về kinh tế du lịch quốc gia.

Hiện nay, khi mạng lưới siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ đã

hình thành và phát triển mạnh, mặc dù vẫn có tầm quan trọng trong sinh hoạt

của người dân, nhưng không vì thế mà chợ mất đi vai trò của mình mà có thể nói

chợ đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình và sự phát triển mạng lưới chợ chính

là sự hỗ trợ cho sự hình thành và phát triển của các loại hình kinh doanh mới, đó

là siêu thị và trung tâm thương mại.

II. Một số mô hình tổ chức quản lý chợ hiện nay ở nước ta

1. Tổ chức, quản lý chợ theo mô hình Ban quản lý

1.1. Khái niệm:

Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 về phát triển và quản

lý chợ: "Ban quản lý chợ là đơn vị sự nghiệp có thu, tự trang trải các chi phí

hoạt động thường xuyên, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và có tài

khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý các hoạt động

của chợ và tổ chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ theo quy định của pháp luật".

Căn cứ vào tính chất, đặc điểm và quy mô của chợ, Uỷ Ban Nhân Dân các

cấp có thẩm quyền quyết định lập và giao cho Ban quản lý chợ quản lý một hoặc

một số chợ (liên chợ) trên địa bàn theo phân cấp quản lý. Trường hợp lập Ban

quản lý liên chợ thì ở từng chợ có thể lập Ban hay tổ điều hành chợ.

Ban quản lý chợ có trách nhiệm quản lý tài sản Nhà nước và các hoạt động

trong phạm vi chợ của một hoặc một số chợ; thực hiện ký kết hợp đồng với

thương nhân về thuê, sử dụng điểm kinh doanh; kinh doanh các dịch vụ tại chợ;

tổ chức bảo đảm công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh

Page 12: Qt059

trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ; xây dựng Nội quy của chợ trình

Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp quản lý chợ; tổ

chức thực hiện Nội quy chợ và xử lý các vi phạm về Nội quy chợ; điều hành chợ

hoạt động và tổ chức phát triển các hoạt động tại chợ; tổng hợp tình hình hoạt

động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý Nhà nước

theo hướng dẫn của Bộ Thương mại.

1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban quản lý chợ:

Theo thông tư số 06/2003/TT-BTM ngày 15 tháng 8 năm 2003 hướng dẫn

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban quản lý chợ, Ban quản lý

chợ có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau:

- Trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo phân cấp quản lý chợ

quyết định:

Trưởng BQL chợ

Phó BQL Bộ phận tổng hợp

Đội bốc xếp vận

chuyển

Đội bảo vệ

Các tổ dịch

vụ

Tổ kiểm tra

Tổ điện nước

Tổ vệ sinh môi

trường

Tổ quản lý ngành hàng

Tổ kiểm định số lượng chất

lượng

Tổ cung cấp thông

tin thị trường

Tổ y tế

Tổ trông giữ bảo quản tài

sản

Page 13: Qt059

Phê duyệt Phương án sử dụng địa điểm kinh doanh và bố trí, sắp xếp các

ngành nghề kinh doanh tại chợ.

Quy định cụ thể việc sử dụng, thuê, thời hạn với các biện pháp quản lý

điểm kinh doanh tại chợ.

Phê duyệt Nội quy chợ.

Phê duyệt Phương án bảo đảm Phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi

trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ.

Phê duyệt Kế hoạch sửa chữa lớn, nâng cấp cơ sở vật chất và phát triển

các hoạt động của chợ khi có nhu cầu.

- Quyết định việc tổ chức đấu thầu theo quy định của Pháp luật để lựa

chọn thương nhân sử dụng hoặc thuê địa điểm kinh doanh tại chợ theo Phương

án đã được duyệt. Trong trường hợp số thương nhân đăng ký ít hơn số điểm

kinh doanh hiện có, Ban quản lý chợ được quyền quyết định việc lựa chọn

thương nhân, không phải tổ chức đấu thầu.

- Ký hợp đồng với thương nhân sử dụng hoặc thuê điểm kinh doanh tại

chợ theo Phương án đã được duyệt.

- Tổ chức quản lý, điều hành chợ hoạt động, tổ chức thực hiện Nội quy

chợ và xử lý các vi phạm Nội quy chợ.

- Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn tổ

chức đảm bảo phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an

toàn thực phẩm trong phạm vi chợ.

- Tổ chức kinh doanh, phát triển các dịch vụ hỗ trợ như: trông giữ phương

tiện vận chuyển, bốc xếp hàng hoá, cho thuê kho bảo quản cất giữ hàng hoá,

cung cấp thông tin thị trường, kiểm định số lượng, chất lượng hàng hoá, vệ sinh

môi trường ăn uống, vui chơi, giải trí và các hoạt động khác trong phạm vi chợ

phù hợp với các quy định của pháp luật và theo hướng ngày càng văn minh hiện

đại.

- Tổ chức thu, nộp tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh của thương nhân và

các loại phí, lệ phí về chợ theo quy định của pháp luật.

Page 14: Qt059

- Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan, đoàn thể tổ chức

thông tin kinh tế - xã hội, phổ biến hướng dẫn việc thực hiện các chính sách, các

quy định của pháp luật và nghĩa vụ đối với Nhà nước của thương nhân kinh

doanh tại chợ; tổ chức các hoạt động văn hoá xã hội tại chợ.

- Chịu trách nhiệm quản lý tài sản và kết quả tài chính của Ban quản lý

chợ theo quy đinh của pháp luật.

- Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ

cho các cơ quan quản lý Nhà nước theo quy định của Bộ Thương mại.

1.3. Về tổ chức

Ban quản lý chợ có Trưởng ban và có một đến hai Phó trưởng ban. Trưởng

ban, Phó trưởng ban do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định

việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật.

Trưởng Ban quản lý chợ chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân cấp có

thẩm quyền về toàn bộ hoạt động của chợ và của Ban quản lý chợ. Phó trưởng

ban có trách nhiệm giúp trưởng ban và chịu trách nhiệm trước Trưởng ban thực

hiện một hoặc một số nhiệm vụ do Trưởng ban phân công.

Căn cứ tính chất, đặc điểm, khối lượng công việc và khả năng tài chính,

Trưởng ban quản lý chợ quyết định việc tổ chức các bộ phận chuyên môn

nghiệp vụ giúp việc quản lý, điều hành chợ hoạt động và tổ chức các dịch vụ tại

chợ; ký hợp đồng tuyển dụng lao động, các hợp đồng khác với các cơ quan,

doanh nghiệp về đảm bảo vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy, an ninh

trật tự… trong phạm vi chợ theo quy định của pháp luật.

1.4. Các khoản thu từ hoạt động của chợ

Ban quản lý chợ được thu các khoản sau:

1. Thu về cho thuê, sử dụng địa điểm kinh doanh tại chợ; cung cấp dịch vụ,

hàng hoá:

- Thu tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ theo hợp đồng sử dụng,

thuê điểm kinh doanh;

Page 15: Qt059

- Thu từ việc cung cấp các dịch vụ bốc xếp hàng hoá, kho bãi để lưu giữ

hàng hoá, dịch vụ bảo vệ theo hợp đồng cụ thể và các dịch vụ khác;

- Thu khác: Thu được trích để lại theo hợp đồng uỷ nhiệm thu (thu phí, thu

tiền điện, nước và các khoản có liên quan đến hoạt động kinh doanh tại chợ); thu

tiền phạt, tiền bồi thường hợp đồng (nếu có) đối với các tổ chức, cá nhân tham

gia kinh doanh tại chợ do vi phạm các quy định trong hợp đồng kinh tế ký kết

với Ban quản lý chợ.

2. Các loại phí theo quy định của Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28 tháng 8

năm 2001, bao gồm:

- Phí chợ;

- Phí trông giữ xe;

- Phí vệ sinh.

Mức thu các loại phí trên thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân

dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo hướng dẫn chung của Bộ Tài

chính

- Phí phòng cháy, chữa cháy.

1.5. Quản lý, sử dụng các khoản thu, chi ở chợ

Ban quản lý chợ được sử dụng các khoản thu ở trên để chi cho các nội dung

sau:

1.5.1. Đối với chợ loại 1 và loại 2:

- Chi hoàn trả vốn đầu tư xây dựng chợ.

- Chi cho người lao động: Chi tiền lương, tiền công, tiền ăn ca, các khoản

phụ cấp lương, các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công

đoàn theo quy định.

- Chi quản lý hành chính: Vật tư văn phòng, điện, nước, thông tin liên lạc,

họp bàn, hội nghị tổng kết, sửa chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà cửa, máy

móc, thiết bị…

- Chi cho các hoạt động tổ chức thu (kể cả thu theo hợp đồng uỷ nhiệm

thu).

Page 16: Qt059

- Chi cho các hoạt động cung ứng dịch vụ (kể cả chi nộp thuế, trích khấu

hao tài sản cố định).

- Chi khác.

Ban quản lý chợ được thực hiện chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự

nghiệp có thu

1.5.2. Đối với chợ loại 3:

- Chi trả hoàn vốn đầu tư xây dựng chợ.

- Chi tiền công cho người lao động.

- Chi quản lý hành chính: Vật tư văn phòng, điện, nước, thông tin liên lạc,

sửa chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà cửa, máy móc, thiết bị…

- Chi cho các hoạt động tổ chức thu (kể cả các hoạt động thu theo hợp đồng

uỷ nhiệm thu).

- Chi cho các hoạt động cung ứng dịch vụ (kể cả chi nộp thuế, khấu hao tài

sản cố định).

- Chi khác.

Ban quản lý chợ được sử dụng số thu để chi các khoản theo quy định, số

thu còn lại nộp ngân sách Nhà nước theo quy định phân cấp quản lý ngân sách

hiện hành.

1.6. Quyết toán các khoản thu, chi hoạt động của Ban quản lý chợ

- Hàng năm, Ban quản lý chợ xây dựng dự toán, lập báo cáo quyết toán

thu, chi kinh phí hoạt động trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo sự phân

cấp quản lý chợ.

- Ban quản lý chợ thực hiện công tác kế toán, thống kê và báo cáo tài

chính theo quy định của Nhà nước về chế độ kế toán, thống kê áp dụng cho các

đơn vị hành chính sự nghiệp.

2. Tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh nghiệp (Doanh nghiệp kinh doanh

khai thác và quản lý chợ)

2.1. Khái niệm:

Page 17: Qt059

Để hiều được doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ là gì trước

hết cần phải định nghĩa khái niệm doanh nghiệp.

Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là

thực hiện các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp là một danh từ chung để chỉ

các đơn vị kinh doanh thuộc các loại hình khác nhau như doanh nghiệp Nhà

nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp

vừa và nhỏ…

Theo Luật doanh nghiệp được Quốc hội khoá X thông qua năm 1999 thì

doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn

định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực

hiện các hoạt động kinh doanh.

Vậy tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh nghiệp (doanh nghiệp kinh

doanh, khai thác và quản lý chợ) là gì?

Ta coi chợ như một tổ chức hoạt động kinh doanh bình thường, các công

ty, các cá nhân, các tổ chức có mong muốn đều có thể tham gia đầu tư và tiến

hành xây dựng chợ, các cấp chính quyền địa phương thông báo mời thầu. Các tổ

chức, các cá nhân có khả năng có thể tham gia đấu thầu. Thông qua đấu thầu có

thể chọn ra được một tổ chức, một cá nhân có năng lực nhất để tiến hành đầu tư,

kinh doanh, khai thác, tổ chức và quản lý chợ đó. Khi đó, địa phương trên cơ sở

là chủ sở hữu đất cho thuê, có thể thu phí hàng năm, ngoài ra còn có thể thu

thêm Thuế Doanh nghiệp theo quy định của pháp luật (vì đây là doanh nghiệp

đầu tư để kinh doanh chợ).

Doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh chợ sẽ có doanh thu từ các khoản phí cho

thuê địa điểm chợ, các sạp chợ, các dịch vụ ở chợ… và cũng phải hoạt động độc

lập như các doanh nghiệp kinh doanh khác, vẫn chịu ảnh hưởng điều chỉnh của

Luật doanh nghiệp.

Tuy nhiên, các tổ chức, cá nhân khi tiến hành kinh doanh phải thu phí với

một mức phí hợp lý, để đảm bảo cho các hộ kinh doanh có thể buôn bán được tại

Page 18: Qt059

chợ. Ngoài ra còn có thể yêu cầu phía đơn vị kinh doanh lấy lao động trực tiếp ở

các địa phương nhằm giải quyết việc làm cho lao động địa phương.

Vậy: Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ là một doanh

nghiệp được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh

doanh chợ, đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh theo quy định của

pháp luật.

2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của doanh nghiệp kinh doanh, khai thác và quản lý

chợ

Doanh nghiệp kinh doanh, khai thác và quản lý chợ là đơn vị kinh tế hoạt

động theo Luật doanh nghiệp và các văn bản quy định của pháp luật, có trách

nhiệm và quyền hạn tổ chức thực hiện các quy định dưới sau:

- Được tổ chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ trong phạm vi doanh

nghiệp quản lý.

Giám đốc

Phó Giám đốc Phó Giám đốc

Phòng Kinh doanh

Phòng Kế toán

Phòng Hành chính - tổ chức

Phòng Quản lý chợ

Đội bốc xếp

Các tổ

dịch vụ

Tổ kiểm tra

Tổ điện nước

Đội vệ sinh

môi trường

Đội bảo vệ

Tổ quản lý ngành hàng

Page 19: Qt059

- Đảm bảo công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh

trật tự và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong phạm vi chợ.

- Xây dựng Nội quy trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt

theo phân cấp quản lý chợ, tổ chức điều hành chợ hoạt động theo Nội quy chợ

và xử lý các vi phạm về Nội quy chợ.

- Bố trí, sắp xếp khu vực kinh doanh đảm bảo các yêu cầu về trật tự, vệ

sinh, văn minh thương mại và phù hợp với yêu cầu của thương nhân kinh doanh

tại chợ.

- Ký kết hợp đồng với các thương nhân về việc thuê, sử dụng điểm kinh

doanh tại chợ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.

- Tổ chức thông tin kinh tế, phổ biến chính sách, quy định của pháp luật

và nghĩa vụ đối với Nhà nước của thương nhân kinh doanh tại chợ theo hướng

dẫn của cơ quan chức năng.

- Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ

cho các cơ quan quản lý Nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Thương mại.

2.3. Các khoản thu từ hoạt động chợ

Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ được thu các khoản

giống như Ban quản lý chợ, bao gồm:

1. Thu về cho thuê, sử dụng địa điểm kinh doanh tại chợ; cung cấp dịch vụ,

hàng hoá:

- Thu tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ theo hợp đồng sử dụng,

thuê diểm kinh doanh.

- Thu từ việc cung cấp các dịch vụ bốc xếp hàng hoá, kho bãi để lưu giữ

hàng hoá, dịch vụ bảo vệ theo hợp đồng cụ thể và các dịch vụ khác.

- Thu khác: Thu được trích để lại theo hợp đồng uỷ nhiệm thu (thu phí, thu

tiền điện, nước và các khoản có liên quan đến hoạt động kinh doanh tại chợ); thu

tiền phạt, tiền bồi thường hợp đồng (nếu có) đối với các tổ chức, cá nhân tham

gia kinh doanh tại chợ do vi phạm các quy định trong hợp đồng kinh tế ký kết

với Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ.

Page 20: Qt059

2. Các loại phí theo quy định của Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28 tháng 8

năm 2001, bao gồm:

- Phí chợ.

- Phí trông giữ xe.

- Phí vệ sinh.

Mức thu các loại phí nêu trên thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng dẫn chung của Bộ

Tài chính.

2.4. Quản lý, sử dụng các khoản thu, chi ở chợ:

- Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ được thu các khoản

thu nêu trên.

- Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải xây dựng kế

hoạch kinh doanh và phương án tài chính cho hoạt động của mình. Việc xây

dựng phương án tài chính dựa trên cơ sở các khoản thu để sử dụng chi cho các

mục đích như hoàn trả vốn đầu tư xây dựng chợ, các chi phí cần thiết cho hoạt

động của doanh nghiệp.

- Tuỳ thuộc vào loại hình tổ chức (doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã,

công ty cổ phần…) và quy mô hoạt động của các loại chợ, doanh nghiệp kinh

doanh khai thác và quản lý chợ được áp dụng với quy định hiện hành phù hợp

với mỗi loại hình để tổ chức công tác kế toán, thống kê, quản lý và sử dụng các

khoản thu, chi liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

- Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải thực hiện chế độ

quyết toán và báo cáo tài chính doanh nghiệp theo quy định pháp luật.

Nhận xét chung: Mô hình tổ chức quản lý chợ chủ yếu hiện nay ở nước ta

là Ban quản lý chợ. Một số nơi đã mạnh dạn thành lập doanh nghiệp quản lý chợ

thuộc các thành phần kinh tế như ở Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Cần

Thơ, Đồng Nai, Thành phố Hà Nội. Đã có cá nhân, các Công ty cổ phần, các

Hợp tác xã tiến hành đầu tư, kinh doanh khai thác và quản lý chợ, trong đó có

một số chợ gọi là công ty chợ như Công ty cổ phần chợ Đồng Xuân - Hà Nội.

Page 21: Qt059

Nhìn chung, công tác quản lý chợ theo hình thức doanh nghiệp kinh doanh khai

thác và quản lý chợ có hiệu quả hơn, khai thác triệt để các nguồn thu, công tác

phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự… được quan tâm và

đảm bảo hơn.

Sự xuất hiện của các loại hình quản lý (cụ thể là hai loại hình trên) có thể

thấy rõ rằng, sự quản lý chợ ở nước ta đã dần dần được chuyên nghiệp hoá và

cách bố trí cũng như sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả hơn, đó là hiệu

quả của công tác quản lý. Nó hợp lý hoá cách phân bổ lực lượng lao động quản

lý, phân cấp quản lý tạo nên sự thống nhất, gắn trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa

vụ cụ thể cho từng cá nhân, tập thể, để họ hoạt động một cách độc lập, thống

nhất và hiệu quả.

Số lượng chợ hoạt động hiệu quả ngày càng tăng bằng các hình thức quản

lý chuyên nghiệp, tạo nên sự phát triển vững mạnh của mạng lưới chợ ở nước ta.

Số lao động quản lý trong chợ ngày càng tăng, có tình chuyên môn, nghiệp vụ

hơn là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của chợ tại thời điểm hiện tại và cả

trong tương lai.

Khi công tác quản lý chợ được thực hiện một cách chuyên nghiệp, mọi hoạt

động của chợ đều được lên kế hoạch một cách hợp lý, hệ thống hạch toán kinh

doanh có thể cho biết kết quả của quá trình hoạt động của chợ, từ đó có thể đưa

ra những phương án hiệu quả để xử lý và khắc phục. Các hoạt động của chợ sẽ

chủ động hơn khi chúng ta nắm bắt được quy trình quản lý chợ một cách hợp lý

(như các khâu: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, lãnh đạo, kiểm tra và đánh giá

tổng kết…)

Nói tóm lại, nhất thiết chúng ta phải xây dựng được một hệ thống quản lý ở

các chợ trong nước, mỗi chợ phải có một hình thức quản lý phù hợp thì nói mới

có thể hoạt động hiệu quả và có thể phát triển được trong tương lai.

III. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở một số nơi ở nước ta

Trong bối cảnh chợ phải đối đầu cạnh tranh gay gắt với các kênh bán lẻ

khác như siêu thị, cửa hàng và các đội quân bán hàng di động, nếu không theo

Page 22: Qt059

kịp nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, mô hình chợ sẽ bị thu hẹp dần. Để vực

dậy hoạt động chợ, chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ là biện pháp khả thi

mà một số nơi đang tiến hành.

1. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở Thành phố Hồ Chí Minh: tư nhân quản lý

chợ.

Mặc dù chợ là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết

yếu phục vụ cho đời sống hàng ngày của người người dân, nhưng nhắc đến chợ

nhiều người tỏ ra rất ngán ngẩm, đó là do chuyện mất vệ sinh môi trường, lối đi

thì nhỏ hẹp và lầy lội, thêm nữa là vấn nạn tiểu thương nói thách, cân thiếu và

vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Tình trạng chợ dơ bẩn, nhếch nhác có thể nói

là rất nhiều, nhất là các loại chợ tạm, chợ cóc. Do vậy, người dân thường chọn

cách đi siêu thị, dù giá có nhỉnh hơn chút ít nhưng mua sắm thoải mái và sạch

sẽ.

Theo Báo cáo của Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh, hiện thành phố

có khoảng 120 chợ chưa phù hợp với quy hoạch (chưa kể các chợ tự phát) nằm

rải rác ở các Quận như quận Gò Vấp, quận Bình Thạnh, quận 8… Nhiều chợ

không có bãi giữ xe hoặc họp chợ gần ngay lòng lề đường, gây kẹt xe, mất trật

tự trên địa bàn. Ngoài ra Ban quản lý chợ năng lực còn hạn chế nên không tổ

chức quản lý tốt và không đảm bảo được tính văn minh thương mại trong chợ.

Trong bối cảnh đó thì tại Thành phố Hồ Chí Minh trong vòng 10 năm nay,

có tới gần 50 siêu thị, chưa kể các siêu thị thực phẩm nhỏ - minimart đã ra đời,

thu hút dần lượng khách của các chợ. Trước đây, siêu thị được đánh giá là nơi

mua sắm dành cho những người có thu nhập cao, nhưng hiện tại theo thăm dò và

thống kê tại các siêu thị, đa phần khách hàng thường xuyên của siêu thị là những

người có thu nhập trung bình và khá.

Trước tình hình cạnh tranh găy gắt giữa các kênh bán lẻ truyền thống và

hiện đại, tiểu thương nhiều chợ đã lâm vào cảnh ế ẩm. Ở một số Quận, với

những chợ do Nhà nước quản lý, ngay cả chợ mới tôn tạo, phía Nhà nước cũng

phải luôn bù lỗ huồng gì nói tới việc thu nộp ngân sách.

Page 23: Qt059

Để thúc đẩy hoạt động chợ phát triển, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng trong

dân thì việc nâng cấp, thay đổi cách quản lý chợ là rất cần thiết. Chính vì vậy,

Nghị định số 02/2003/NĐ-CP của Chính phủ đã khuyến khích mọi thành phần

kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng và khai thác chợ. Trước mặt tư nhân mới chỉ

đấu thầu kinh doanh chợ (do Nhà nước xây dựng, làm chủ đầu tư), chứ chưa bỏ

tiền để xây dựng toàn bộ chợ.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1992, Sở Thương Mại thành phố đã

thí điểm cho tư nhân đấu thầu kinh doanh chợ, nhưng ban đầu mới chỉ đấu thầu

từng phần (bãi giữ xe, thu lệ phí…) cho tới cuối năm 2004 thì đã có 18 chợ được

đấu thầu toàn phần.

Trước khi cho tư nhân quản lý, tổng doanh thu tại các chợ thuộc một số

quận chỉ đủ bù đắp cho chi phí quản lý chợ, còn chi phí đầu tư sửa chữa đều do

Ngân sách Nhà nước bỏ ra. Nhưng sau khi tổ chức đấu thầu, tổng số thu nộp

ngân sách tăng lên, thậm chí tăng lên 10 lần so với trước.

Chợ Tân Phú (thuộc quận Tân Bình) là chợ loại 2 (quy mô 310 sạp), được

tổ chức đấu thầu vào cuối năm 2001. Người trúng thầu là một cá nhân. Trước

khi đấu thầu, chợ này nộp ngân sách chỉ khoảng 4,5 triệu đồng/tháng, nhưng

hiện nay đã tăng lên gần 30 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, các chi phí sửa chữa, tân

trang chợ, thuê nhân viên đều do chợ tự lo, không phải ngân sách cấp.

Còn đối với chọ Tân Hương (quận Tân Bình) đơn vị trúng thầu là Hợp tác

xã Tân Tiến. Khi chợ còn thuộc sự quản lý của phường, việc thu chi cũng không

cân đối đủ, huống gì chuyện sửa chữa chợ, dẫn đến tình trạng chợ xuống cấp,

tiểu thương và dân cư kêu ca. Đến nay, ngoài việc nộp ngân sách Nhà nước mỗi

năm chợ bỏ ra từ 50-60 triệu đồng để duy tu, sửa chữa quầy sạp.

Tư nhân trực tiếp đứng ra quản lý được chủ động hoàn toàn vấn đề tài

chính nhưng vẫn theo chủ trương của Nhà nước, được Nhà nước theo dõi và hỗ

trợ nên hiệu quả sẽ cao hơn quản lý theo kiểu bao cấp. Một khi tư nhân tự bỏ

vốn và đứng ra quản lý thì họ sẽ tìm ra phương án kinh doanh tốt nhất để thu

được lợi nhuận cho mình, nếu không họ sẽ bị phá sản.

Page 24: Qt059

Ngoài vấn đề tài chính, vấn đề vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy,

an ninh trật tự… cũng được quản lý sâu sát hơn. Theo Sở Thương mại Thành

phố Hồ Chí Minh, trước kia (khi chưa tư nhân hoá) các vấn đề trên do phường,

quận thực hiện, phải có sự phối hợp giữa nhiều cơ quan chức năng khác nhau và

phải chi cho ngân sách địa phương nên chỉ được thực hiện một cách lỏng lẻo.

Tại các chợ đã giao thầu, vấn đề trên được cải thiện hơn so với chợ do Nhà nước

trực tiếp trực tiếp quản lý. Ngoài ra các quầy sạp cũng được bố trí ngăn nắp, gọn

gàng hơn nên số tiểu thương tăng đáng kể.

Sau thời gian thí điểm đạt hiệu quả, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí

Minh đã ban hành quy chế đấu thầu chợ (có hiệu lực từ ngày 30/09/2004). Trên

cơ sở đó, Sở Thương mại sẽ tiếp tục tổ chức đấu thầu nhiều chợ tiếp theo trong

thời gian tới.

Việc cho tư nhân đầu thấu chợ là cơ chế quản lý tiến bộ, tăng ngân sách

Nhà nước, giảm chi phí quản lý và nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý chợ.

Tuy nhiên, từ nay, các cá nhân không còn được tham gia đấu thầu mà phải là các

tổ chức kinh tế (doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã…,

trừ những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Một tổ chức hay doanh

nghiệp sẽ có kinh nghiệm quản lý tốt hơn cá nhân, hơn nữa, để trúng thầu còn

phải có tiềm lực tài chính mạnh và uy tín trong kinh doanh. Sở Thương mại sẽ

chọn lọc những đối tượng dự thầu đầy đủ năng lực quản lý và tổ chức đấu thầu

minh bạch, công khai.

Khi tư nhân kinh doanh chợ, trước hết họ phải tìm cách thu hút các tiểu

thương (bằng chính sách, cơ sở vật chất và an ninh tốt). Nếu hoạt động của chợ

văn minh lịch sự thì người tiêu dùng chắc chắn sẽ gắn bó với chợ, vì chợ vốn là

nét văn hoá độc đáo của dân tộc.

2. Kinh nghiệm tổ chức quản lý chợ ở một số tỉnh khu vực Đồng bằng Sông Cửu

Long: Hợp tác xã quản lý chợ.

Theo Thống kê thì Thành phố Cần Thơ có 88 chợ, khoảng trên 50% là chợ

loại 3. Nhiều chợ xã, phường, thị trấn tương đối kiên cố nhưng không ít nơi còn

Page 25: Qt059

nhếch nhác do thiếu quan tâm tổ chức, quản lý, sắp xếp ngành. Nguồn phí chợ

thu được ít địa phương trích lại một phần cho tái đầu tư phát triển chợ. Bên cạnh

đó, các Ban quản lý chợ còn yếu kém, ít kinh nghiệm, chu yếu lo tập trung vào

thu lệ phí… chứ không mấy bận tâm đến công tác thăm dò thị trường, định kế

hoạch phát triển khai thác chợ sao cho người bán thì mong muốn có một chỗ

trong chợ để buôn bán thuận lợi, còn người mua thì khi có nhu cầu cũng nghĩ

ngay đến chợ "sạch sẽ ngăn nắp, giá cả phải chăng, cân đo trung thực". Đây là

hiện trạng khá phổ biến ở Thành phố Cần Thơ. Do đó để thúc đẩy hoạt động chợ

phát triển, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng của dân cư, việc thay đổi hình thức tổ

chức quản lý đã được tiến hành. Uỷ ban nhân dân Thành phố Cân Thơ đã giao

17 chợ cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng, khai thác kinh doanh. Mặc dù

đến nay mới chỉ có một số chợ do Công ty Thương mại Tổng hợp Thành phố

Cần Thơ khai thác được, số còn lại bị vướng mắc ở khâu giải phóng mặt bằng

nhưng các chợ khai thác được đều kinh doanh rất tốt, nộp ngân sách tăng nhanh.

Đến nay, Liên minh Hợp tác xã Thành phố Cần Thơ đã phối hợp với Sở

Thương mại khảo sát mạng lưới chợ, chủ yếu là các chợ laọi 3 trên toàn thành

phố, tiến hành các bước vận động tổ chức thí điểm Hợp tác quản lý chợ ở một số

chợ thuộc quận ninh Kiều.

Bên cạnh đó ở huyện Gò Công Tây (tỉnh Tiền Giang) có Hợp tác xã Bình

Tây từ một Hợp tác xã Nông nghiệp chuyển sang "đa ngành nghề" đã thực hiện

mô hình khai thác chợ khá hiệu quả, đem lại việc làm thu nhập ổn định cho các

xã viên, hàng hoá đổ về chợ ngày càng phong phú. Hợp tác xã Bình Tây không

chỉ quan tâm tạo ra một cái chợ sầm uất mà còn làm đầu mối giao thương với

các vùng lân cận. Hàng năm ngoài việc nộp ngân sách Nhà nước, Hợp tác xã

còn đầu tư 30-40 triệu đồng cho việc nâng cấp, sửa chữa, duy tu các quầy sạp

trong chợ.

Hợp tác xã chợ - nếu được tổ chức thực hiện tốt sẽ là bước cải tiến mang

tính đột phá về công tác quản lý, hiệu quả đầu tư, thu hút mạnh vốn trong dân, đẩy

mạnh giao thương, kích cầu tiêu dùng và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

Page 26: Qt059

Chương II

Thực trạng phát triển và tổ chức quản lý chợ

trên đại bàn quận Cầu Giấy hiện nay

I. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển

của mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy

1. Vị trí địa lý

Quận Cầu Giấy có vị trí hết sức thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nói

chung và thương mại - dịch vụ nói riêng. Quận Cầu Giấy được thành lập và đi

vào hoạt động ngày 01/09/1997, trên cơ sở của 4 thị trấn Nghĩa Tân, Nghĩa Đô,

Mai Dịch, Cầu Giấy và 3 xã Yên Hoà, Trung Hoà, Dịch Vọng của huyện Từ

Liêm cũ, với tổng diện tích đất tự nhiên là 1.204,5 ha trong đó có 78 ha là đất

nông nghiệp (năm 2005).

Cầu Giấy nằm ở cửa ngõ phía Tây, một trong những khu phát triển chính

của Thành phố Hà Nội, cách trung tâm Thành phố khoảng 6 km, phía Bắc giáp

Quận Tây Hồ, phía Nam giáp Quận Đống Đa, phía Đông giáp Quận Ba Đình,

phía tây giáp thị trấn Cầu Diễn, huyện Từ Liêm.

Nằm trên trục đường giao thông vành đai nối thủ đô Hà Nội với sân bay

Quốc tế Nội Bài và trục đường chính nối trung tâm Hà Nội với chuỗi đô thị vệ

tinh Hoà Lạc - Sơn Tây, bên cạnh đó sự phát triển của hệ thống giao thông và sự

phân bổ không gian công nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho Quận Cầu Giấy

trong việc giao lưu kinh tế, lưu thông hàng hoá với các tỉnh lân cận.

Những yếu tố trên đóng vai trò rất quan trọng cho sự hình thành và phát

triển của mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy.

2. Về xã hội

2.1. Dân số và sự gia tăng dân số trên địa bàn Quận Cầu Giấy

Page 27: Qt059

Dân số trên địa bàn Quận trong những năm qua có tỉ lệ tăng bình quân rất

cao (4,4% giai đoạn 2000-2005), bình quân mỗi năm dân số tăng khoảng gần 7

nghìn người.

Bảng: biến động dân số trên địa bàn quận Cầu Giấy

Chỉ tiêu

Năm

Dân số trung

bình (người)

Mức tăng

(người)

Tỉ lệ tăng dân

số (%)

Mật độ dân số

(người/km2)

2000 136.029 7332 5,70 11.285

2001 142.529 6500 4,78 11.824

2002 150.029 7500 5,26 12.446

2003 158.831 8802 5,87 13.177

2004 162.834 4003 2,52 13.509

2005 168.834 6000 3,68 14.006

Nguồn: Phòng Lao động Thương binh Xã hội quận Cầu Giấy

Ta thấy tỷ lệ dân số bình quân của Quận tăng rất nhanh bao gồm cả tăng tự

nhiên và tăng cơ học, trong khi đó diện tích đất tự nhiên của Quận không đổi.

Điều đó làm cho mật độ dân số bình quân tăng nhanh. Khi mật độ dân cư càng

cao thì nhu cầu tiêu dùng càng lớn, nó đòi hỏi sự phát triển của mạng lưới chợ.

Như vậy, dân số đóng vai trò rất trong việc phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn

Quận Cầu Giấy, nó vừa có ảnh hưởng tiêu cực, vừa có ảnh hưởng tích cực.

Sự gia tăng dân số, mật độ dân số đã góp phần thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá,

phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tổng mức hàng

hoá bán lẻ trong những năm qua đạt mức tăng trưởng khá và chiếm tỷ trọng

ngày càng cao trong cơ cấu tổng mức hàng hoá bán ra đã cho thấy dân số đóng

một vai trò nhất định.

Bảng: Biến động doanh thu bán lẻ của quận Cầu Giấy

Chỉ tiêu

Năm

Tổng doanh thu bán

lẻ (triệu đồng)

Mức tăng

(triệu đồng)

Tỉ lệ tăng

(%)

2000 1.651.995 - -

Page 28: Qt059

2001 2.432.874 780.879 47,27

2002 3.357.435 924.561 38,00

2003 4.728.198 1.370.763 40,83

2004 5.724.486 996.288 21,07

2005 6.812.982 1.088.496 19,01

Nguồn: Phòng Thống kê quận Cầu Giấy

Tuy nhiên, việc gia tăng dân số, nhất là dân nhập cư dã ảnh hưởng tiêu cực

đến sự phát triển và hoat động của chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy. Số lượng

chợ phát triển không tương xứng với việc gia tăng dân số, nhất là các khu dân cư

mới hình thành, khu đô thị mới… đã dẫn đến việc hình thành các chợ tự phát.

Mặt khác, một bộ phận dân cư chủ yếu là dân nhập cư không có công ăn việc

làm thường tụ tập vào các chợ, các khu vực đông dân cư để buôn bán kiếm sống

qua ngày dẫn đến hình thành các chơ tự phát ở nhiều khu vực, kể cả những khu

vực ở xung quanh chợ chính thức. Các chính quyền địa phương cần kiên quyết

giải quyết các chợ tự phát, lấn chiếm lòng lề đường, thực hiện nếp sống văn

minh, trật tự đô thị và an toàn giao thông.

2.2. Mức sống dân cư

Nhìn chung, đời sống của người dân trên địa bàn Quận ngày càng được cải

thiện, thu nhập bình quân tăng lên rất nhanh, thể hiện ở bảng sau:

Bảng: Mức biến động thu nhập bình quân của người dân ở quận Cầu Giấy:

Đơn vị: nghìn đồng

Năm 1998 2000 2002 2004

Thu nhập bình

quân / người / tháng469 601 774 994

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Về cơ cấu chi tiêu, một người một tháng chi cho ăn uống cao nhất khoảng

45-48% tổng chi, kế đến là chi cho nhà ở, điện nước, thiết bị, đồ dùng khoảng

30-33%, chi cho học hành, y tế, vui chơi giải trí từ 22-24%.

Page 29: Qt059

Mức sống của người dân trong Quận trong những năm qua đã ảnh hưởng

lớn đến hoạt động kinh doanh khu vực thương mại - dịch vụ nói cung và chợ nói

riêng. Mức sống dân cư mặc dù tăng lên rất nhanh nhưng nhìn chung vẫn còn

thấp, nhất là khu vực nông thôn, công nhân làm việc ở các khu công nghiệp, khu

chế xuất… chi tiêu chủ yếu là cho hoạt động ăn uống hàng ngày với chất lượng

hàng hoá ở mức trung bình. Các kết quả khảo sát về nhu cầu mua sắm trong thời

gian qua cho thấy, hàng lương thực, thực phẩm vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. Điều

này cho thấy chợ vẫn đóng vai trò quan trọng đối với đời sống của người dân

trong Quận.

Tuy nhiên, trong những năm qua cũng đã diễn ra sự phân hoá về mức sống

dân cư trên địa bàn. Một bộ phận dân cư có mức sống cao đã được hình thành và

quy mô ngày càng lớn, tầng lớp này có những nhu cầu về những loại hàng hoá

chất lượng cao từ hàng tiêu dùng đến hàng lương thực, thực phẩm, các loại thực

phẩm an toàn… Thói quen mua sắm ở các siêu thị, trung tâm thương mại đã

xuất hiện ở tầng lớp dân cư có mức thu nhập từ trung bình trở lên. Một xu

hướng mua sắm mới đã hình thành và từng bước phát triển trên địa bàn Quận.

Đó là mua sắm ở các siêu thị, trung tâm thương mại của bộ phận dân cư có thu

nhập cao, lan toả đến bộ phận dân cư có thu nhập khá và trung bình.

3. Về kinh tế

Mặc dù Quận mới được thành lập, có xuất phát điểm thấp so với các quận

khác trong Thành phố nhưng trong những năm qua Quận đã đạt được tăng

trưởng khá về kinh tế, thể hiện ở bảng số liệu sau:

Bảng: Biến động giá trị GDP của quận Cầu Giấy theo khu vực kinh tế:

Đơn vị: triệu đồng

Chỉ

tiêu

Năm

Tổng

Trong đó

Khu vực I

Nông nghiêp

Khu vực II

Công nghiệp -

Xây dựng

Khu vực III

Thương mại -

Dịch vụ

2000 1.010.851 13.377 755.268 242.206

Page 30: Qt059

2001 1.564.642 8.661 1.262.313 293.668

2002 1.923.656 8.633 1.545.425 369.598

2003 2.589.960 6.858 1.858.961 724.141

2004 2.900.199 1.741 2.037.355 861.023

2005 3.347.601 1.020 2.325.688 1.021.893

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Chú thích: GDP tính theo giá hiện hành

Ta thấy giá trị GDP của Quận tăng lên rất nhanh, năm 2005 cao gấp 3 lần

so với năm 2000, trong đó đặc biệt khu vực Thương mại - Dịch vụ tăng gấp

khoảng 4 lần.

Sự tăng trưởng kinh tế dẫn đến việc gia tăng khối lượng hàng hoá sản xuất

ra, từ đó gia tăng tổng mực hàng hoá bán ra trên thị trường; hàng hoá ngày càng

phong phú, đa dạng về chủng loại, lượng hàng hoá về các chợ cũng nhiều hơn,

người tiêu dùng có nhiều cơ hội để lựa chọn.

Như vậy, tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua có ảnh

hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn Quận.

II. Thực trạng chung về phát triển mạng lưới chợ

1. Thực trạng về số lượng và phân bổ mạng lưới chợ

Những năm qua, quá trình phát triển kinh tế - xã hội cùng với sự tham gia

của các thành phần kinh tế đã làm có nhu cầu ngày càng tăng về việc tổ chức địa

điểm trao đổi, mua bán hàng hoá phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của

dân cư. Ngoài ra, từ ngày thành lập Quận cho đến nay, công tác phát triển mạng

lưới chợ trên địa bàn cũng được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các

cấp, các ngành. Vì thế, số lượng chợ tăng lên rất nhanh. Tính đến hết năm 2005,

trên địa bàn Quận có tất cả 10 chợ đang hoạt động, tăng thêm 7 chợ so với năm

1997. Bảy chợ xây mới sau khi Quận thành lập là: chợ Quan Hoa, chợ Xe máy -

đồ cũ Dịch Vọng, chợ đêm Nông sản Dịch Vọng, chợ Đồng Xa, chợ Trần Duy

Hưng, chợ Hợp Nhất và chợ 337 Dịch Vọng.

Page 31: Qt059

Bảng: Số lượng và phân bổ mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy

(tính đến hết tháng 12/2005)

Chỉ tiêu

Phường

Số chợ

(chợ)

Dân số

(người)

Dân số bình

quân một chợ

(người/chợ)

Toàn quận 10 168.834 16.883

Trung Hoà 1 20.108 20.108

Yên Hoà 1 21.093 21.093

Quan Hoa 3 22.634 7.545

Dịch Vọng 3 19.748 6.583

Dịch Vọng Hậu 0 16.609 -

Mai Dịch 1 25.459 25.459

Nghĩa Tân 1 20.490 20.490

Nghĩa Đô 0 22.693 -

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Tuy nhiên, sự phân bổ mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy hiện nay

vẫn chưa đồng đều giữa các phường, các khu vực. Có phường có đến 3 chợ như

phường Quan Hoa, phường Dịch Vọng, do đó mật độ dân số bình quân của một

chợ ở các phường này thấp hơn hẳn các phường khác. Trong đó có những

phường chưa có chợ nào (phường Dịch Vọng Hậu, phường nghĩa Đô). Bên cạnh

đó sự quy hoạch mạng lưới chợ không theo kịp với sự quy hoạch đô thị nên

không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của dân cư ở đây. Từ đó dẫn đến việc hình

thành các tụ điểm chợ xanh, chợ tạm, chợ cóc như chợ hoa tươi trước cổng Khu

Tổng cục chính trị (phường Mai Dịch); chợ Bái Ân, chợ K800 (phường Nghĩa

Đô); chợ đầu cầu Yên Hoà, chợ Xóm chùa (phường Yên Hoà), chợ Sân vận

động Nghĩa Tân (phường Nghĩa Tân)…

2. Thực trạng phân loại chợ

Các chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy theo các tiêu chí khác nhau được phân

loại như sau:

Page 32: Qt059

Tiêu chí phân loại

Tên chợ

Theo tính chất mua

bán

Theo đặc điểm mặt hàng

Theo tính chất và quy mô xây dựng

Theo số lượng hộ kinh doanh,

vị trí và mặt bằng của chợ

Bán buôn

Bán lẻ

Tổng hợp

Chuyên doanh

Kiên cốBán

kiên cốLoại

1Loại

2Loại

3

Cầu Giấy x - x

Quan Hoa

Nhà Xanh

Nghĩa Tân

Đồng Xa

Nông sản DV

Xe máy DV

337 DV

Hợp Nhất

Trần Duy Hưng

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Chú thích: Nông sản DV: Nông sản Dịch Vọng;

Xe máy DV: Xe máy Dịch Vọng; 337 DV: 337 Dịch Vọng

Như vậy, toàn Quận có tất cả 10 chợ đang hoạt động, nhưng không có chợ

loại 1 nào, có 3 chợ loại 2, còn lại là các chợ loại 3. Chỉ có duy nhất một chợ

Nông sản Dịch Vọng là chợ bán buôn, còn lại các chợ đều là chợ bán lẻ. Có hai

chợ chuyên doanh là chợ xe máy cũ Dịch Vọng và chợ Nông sản Dịch Vọng,

các chợ còn lại đều là chợ tổng hợp. Không có chợ nào được xây dựng kiên cố

hoàn toàn, mà đa số các chợ đều được xây dựng bán kiên cố là chủ yếu hoặc

kiên cố lẫn bán kiên cố.

3. Thực trạng về quy mô các loại chợ

Ta phân tích thực trạng quy mô các loại chợ theo 2 tiêu thức diện tích chợ

và số người bán. Ta có bảng số liệu sau:

Page 33: Qt059

Tiêu thức

Chợ

Diệc tích (m2) Số người bán (người)

Tổng diện

tích

Diện tích

xây dựng

Tổng số người

bán (người)

Số người bán

cố định (người)

Toàn quận 35.166 16.102 2730 1830

Cầu Giấy 1685 2300 157 157

Quan Hoa 1200 900 89 69

Nhà Xanh 1755 1470 220 157

Nghĩa Tân 6220 3321 558 476

Đồng Xa 9739 3320 456 456

Nông sản DV 3964 898 700 0

Xe máy DV 5900 2220 195 195

Hợp Nhất 3203 873 170 150

Trần Duy Hưng 1500 800 185 170

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

3.1. Quy mô theo tiêu thức diện tích chợ

Với 9 chợ trên địa bàn toàn Quận (không kể chợ 337 Dịch Vọng xây dựng

năm 2005) có tổng diện tích là 35.166 m2, bình quân mỗi chợ có diện tích là

3907 m2; bình quân diện tích cho mỗi người bán là 12,9 m2/người, trong đó diệc

tích xây dựng là 5,9 m2/người.

Ta thấy đa số các chợ mặc dù có tổng diện tích không nhỏ nhưng diện tích

được xây dựng còn ít (chiếm chưa đến 50% tổng diện tích), do đó cần thiết phải

đầu tư để mở rộng quy mô diện tích được xây dựng, đặc biệt là xây dựng kiên

cố, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động kinh doanh buôn bán ở chợ được

thoải mái và đầy đủ.

3.2. Quy mô theo tiêu thức người bán

Hiện có khoảng 2730 người bán hàng tại các chợ trên địa bàn Quận, trong

đó số người bán cố định là 1830 người (chiếm 67%) và số người bán không cố

định trong đó bao gồm cả những người sản xuất trực tiếp bán sản phẩm tự sản

xuất là khoảng 900 người (chiếm 33%).

Page 34: Qt059

Tuy nhiên, tỷ lệ số người bán cố định và không cố định này giữa các chợ là

không giống nhau, có chợ tỷ lệ này là 100% (chợ Cầu Giấy, chợ Đồng Xa, chợ

Xe máy cũ Dịch Vọng), số chợ còn lại tỷ lệ này khoảng 70-90%, riêng chợ

Nông sản Dịch Vọng số người bán trong chợ 100% là không cố định, điều này

hoàn toàn phù hợp với chức năng của chợ là chợ đầu mối, tập trung lượng hàng

nông sản từ các nguồn, các hộ trực tiếp sản xuất để tiếp tục phân phối tới các

chợ và các kênh lưu thông khác.

Từ đó ta có thể thấy, hoạt động buôn bán trong chợ chưa có tính chuyên

sâu, tức là trong chợ, hình thức tự sản xuất và tự bán thành phẩm vẫn xảy ra

tương đối, nó hạn chế sự phát triển của hoạt động thương mại trong chợ, các

hoạt động chợ sẽ dẫn tới sự thất thường do phụ thuộc một phần vào lực lượng

người bán không cố định này. Mặt khác, số lượng người bán trung bình trong

mỗi chợ chỉ khoảng 203 người, như thế quy mô đa số các chợ hiện nay trên địa

bàn Quận vẫn còn nhỏ. Vì vậy, cần thiết phải phát triển hệ thống chợ trên địa

bàn Quận, mở rộng hơn nữa cả về diện tích lẫn số người bán.

4. Thực trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật

Thực trạng về cơ sở vật chất của mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy

được thể hiện trong bảng sau:

Đơn vị: m2

ChợDiện tích kiên cố (tầng, kiểu cách

xây dựng…)

Diện tích bán kiên cố (khung

thép, mái tôn…)Lều lán tạm

Toàn Quận 301 12.509 1863

Cầu Giấy 207 1.400 900

Quan Hoa 1.200

Nhà Xanh 1.795

Nghĩa Tân 94 2.406 763

Đồng Xa 2.720

Nông sản DV 720

Page 35: Qt059

Xe máy DV 800 200

Hợp Nhất 768

Trần Duy Hưng 700

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Ta thấy, hiện tại trung bình chỉ có khoảng 2% diện tích các chợ trong toàn

Quận được xây dựng kiên cố, có tới 85% diện tích xây dựng bán kiên cố; 12,7%

số diện tích các chợ vẫn trong tình trạng lều, lán tạm thời.

Một số chợ tuy đã được xây dựng kiên cố, sau một thời gian sử dụng, do

không được tu bổ kịp thời, cải tạo chắp vá và thiếu vốn để đầu tư sửa chữa, nâng

cấp nên đã xuống cấp, không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh, không phát huy

hết tiềm năng của chợ và không đảm bảo được yêu cầu văn minh thương nghiệp.

Bên cạnh đó, các hạng mục như đường đi lại trong chợ, hệ thống cấp nước, công

trình vệ sinh, xử lý nước thải, rác thải… chưa được quan tâm đúng mức nên điều

kiện vệ sinh nói chung và vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng không được đảm

bảo.

Như vậy, có thể thấy, cơ sở vật chất mạng lưới chợ trên địa bàn toàn Quận

hiện nay vẫn chưa tương xứng với vị trí, vai trò của chợ, chưa đáp ứng được yêu

cầu trao đổi hàng hoá của nhân dân. Do đó cần có sự đầu tư thoả đáng để phát

triển hơn nữa mạng lưới chợ cả về số lượng và chất lượng.

5. Thực trạng hoạt động kinh doanh của các chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy

5.1. Về hàng hoá kinh doanh tại chợ

Ngoài chợ Nông sản Dịch Vọng, chợ Xe máy cũ Dịch vọng là chợ chuyên

doanh, số chợ còn lại đều là chợ kinh doanh tổng hợp, nhưng chủ yếu vẫn là

hàng nông sản thực phẩm tươi sống và hàng tiêu dùng hàng ngày, bao gồm các

loại hàng hoá cụ thể sau:

- Hàng lương thực;

- Hàng thực phẩm;

- Hoa quả các loại;

- Nông sản;

Page 36: Qt059

- Lâm sản;

- Cây con giống;

- Hàng tiểu thủ công nghiệp;

- Hàng công nghiệp, điện tử.

Trong đó sự phân bổ hàng hoá như sau:

Hàng hoá Tỷ lệ (%)

Hàng lương thực 9

Hàng thực phẩm 43

Hoa quả các loại 12

Nông sản 7

Lâm sản 2

Cây con giống 3

Hàng tiểu thủ công nghiệp 14

Hàng công nghiệp, điện tử 10

Nguồn: Phòng Thống kê quận Cầu Giấy

Biểu đồ phân bổ cơ cấu hàng hoá tại chợ:

Ta thấy, các mặt hàng chủ yếu được bán trong chợ là hàng tiêu dùng (lương

thực, thực phẩm, hoa quả…), các mặt hàng trong chợ tỏ ra có lợi thế về chủng

loại, đa dạng và phong phú về hình thức, nhãn hiệu… Và vì thế, rất tiện lợi cho

công việc nội trợ, mua sắm, các hoạt động sinh hoạt cũng như sản xuất nhỏ. Như

thế nó đáp ứng tất cả các nhu cầu của khách hàng.

Page 37: Qt059

Tuy nhiên, ta thấy được sự hạn chế rất lớn của các loại hàng hoá bán tại

chợ hiện nay đó là:

- Hàng hoá kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ hiện đang còn rất

nhiều trên thị trường, và đặc biệt là trong chợ.

- Giá cả hàng hoá trong chợ không theo một quy định nào, gây lên rất nhiều

phiền toái cho người tiêu dùng, giá cả giao bán tăng lên nhiều so với giá thực tế

cần bán làm cho nhiều người tiêu dùng hoang mang, thiệt thòi.

- Việc đo lường các đơn vị hàng hoá ở chợ còn nhiều bất cập, tình trạng

gian lận còn khá phổ biến, chưa có đầy đủ các dịch vụ đo lường chính xác ở chợ.

Hiện tượng này đang làm ảnh hưởng tới uy tín của các chợ.

- Hàng hoá trong chợ chưa được kiểm tra độ an toàn vệ sinh thực phẩm một

cách nghiêm chỉnh, trình độ của đội ngũ kiểm tra an toàn thực phẩm còn hạn

chế.

5.2. Hiệu quả sử dụng mặt bằng kinh doanh ở các chợ

5.2.1. Khai thác mặt bằng kinh doanh ở các chợ

Về khai thác mặt bằng kinh doanh ở các chợ, có thể chia làm 3 loại: loại

chợ không khai thác hết mặt bằng kinh doanh, loại chợ khai thác hết mặt bằng

kinh doanh, loại chợ khai thác quá mức mặt bằng kinh doanh.

Theo kết quả khảo sát, đến hết năm 2005 đối với toàn bộ mạng lưới chợ

trong Quận có 23% số chợ không sử dụng hết công suất; 49,3% số chợ sử dụng

hết 100% công suất thiết kế và 27,7% số chợ sử dụng quá công suất thiết kế ban

đầu. Số liệu trên cho thấy, đa số các chợ khai thác hết công suất hoặc vượt quá

công suất thiết kế ban đầu. Một số chợ như chợ Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Nhà

Xanh…, các khoảng trống xung quanh chợ được bố trí các quầy sạp kinh doanh,

gây lên tình trạng quá tải, mất an ninh trật tự, ô nhiễm môi trường. Việc các chợ

kinh doanh quá công suất thiết kế thường gắn liền với việc giải toả các chợ tự

phát lấn chiếm lòng, lề đường, đồng thời đưa các hộ tiểu thương vào kinh doanh

ở các chợ.

Page 38: Qt059

Như vậy, vẫn còn nhiều chợ khai thác không hiệu quả mặt bằng kinh

doanh. Một số chợ không sử dụng hết mặt bằng kinh doanh trong khi đó một số

chợ lại bị quá tải. Trong cùng một chợ, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu mặt bằng

kinh doanh diễn ra một cách khá phổ biến.

Dưới đây là một số biểu hiện của việc khai thác không hiệu quả mặt bằng

kinh doanh:

- Đối với chợ có tầng lầu (chợ Cầu Giấy) vẫn chưa khai thác mặt bằng tầng

lầu để đưa vào kinh doanh. Diện tích tầng lầu bị bỏ trống là 361 m2.

- Đã xảy ra hiện tượng các hộ tiểu thương không kinh doanh trong quầy mà

lấn chiếm ra ngoài kinh doanh dẫn đến tình trạng dư thừa mặt bằng trong các

quầy nhưng lại quá tải ở các khu vực ngoài khác, nhất là các tuyến đường vào

chợ.

- Nhiều chợ không sử dụng hết công suất thiết kế ban đầu.

5.2.2. Nguyên nhân dẫn đến việc khai thác không hiệu quả mặt bằng kinh doanh

Việc khai thác mặt bằng kinh doanh ở một số chợ vẫn chưa hiệu quả là do

một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, một số chợ khai thác quá công suất thiết kế về mặt bằng kinh

doanh, có nhiều quầy sạp ở ngay cả lối đi vào chợ. Nhiều hộ kinh doanh trong

chợ có xu hướng bỏ cả ra ngoài để kinh doanh, nhất là các loại hàng thực phẩm

tươi sống, rau quả… Khai thác vượt quá công suất thiết kế còn gây lên tình trạng

mất an ninh trật tự, không đảm bảo vệ sinh môi trường, khó khăn trong phòng

cháy chữa cháy và làm mất mỹ quan chợ.

Thứ hai, vệ sinh môi trường ở các chợ không được đảm bảo. Việc không

đảm bảo vệ sinh môi trường ở các chợ làm cho người đi chợ không muốn vào

trong chợ mua hàng mà mua ở ngoài chợ, các sạp ở các tuyến đường vào chợ.

Điều này gây lên tình trạng phát sinh các hộ kinh doanh lấn chiếm lòng, lề

đường để kinh doanh.

Thứ ba, các hộ kinh doanh trong chợ phải nộp các khoản thuế và chi phí

dẫn đến giá thành cùng một mặt hàng của những hộ kinh doanh trong chợ cao

Page 39: Qt059

hơn những hộ kinh doanh tự phát, lấn chiếm lòng, lề đường. Mặt khác, những

mặt hàng kinh doanh của những hộ trong chợ và ngoài chợ là giống nhau cùng

với tâm lý của người đi chợ là không muốn gửi xe vào chợ mua hàng mà muốn

mua ở lề đường đã gây lên những bất lợi cho những hộ kinh doanh trong chợ.

Điều này đặt ra vấn đề phải bảo vệ lợi ích chính đáng của những người kinh

doanh trong chợ thông qua việc xoá bở triệt để các hộ kinh doanh tự phát, lấn

chiếm lòng, lề đường.

Thứ tư, công suất thiết kế không phù hợp. Nhiều chợ được xây dựng có quy

mô lớn hơn so với mật độ dân cư trong vùng dẫn đến tình trạng dư thừa công

suất.

Thứ năm, hiệu lực quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương nhất là

cấp phường còn yếu kém, sự thiếu kiên quyết trong việc giải toả các chợ tự phát,

các hộ kinh doanh lấn chiếm lòng, lề đường.

Thứ sáu, sự phát triển của mạng lưới siêu thị, các cửa hàng bán lẻ, sự hình

thành mạng lưới chi nhánh, đại lý của các cơ sở sản xuất ở các nơi… đã làm

giảm lượng hàng hoá bán ra ở các chợ đồng thời giảm sức mua của người dân

đối với các hàng hoá tiêu dùng mà giá không có sự chênh lệch so với trong siêu

thị.

5.3. Về các loại dịch vụ trong chợ

Hầu hết các chợ đều chưa có đầy đủ các dịch vụ, mới chỉ có một số các

dịch vụ tối thiểu cho hoạt động của chợ như dịch vụ vệ sinh, trông giữ xe, bảo

vệ đêm, bốc xếp hàng hoá… Các dịch vụ hỗ trợ như kho hàng hoá, đo lường,

kiểm tra chất lượng hàng hoá, cung cấp thông tin… các chợ đều không có. Như

vậy có thể thấy các dịch vụ trong mạng lưới chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy vẫn

còn thiếu thốn, nghèo nàn, lạc hậu.

Bảng các dịch vụ tại chợ trên địa bàn Quận hiện nay

Tên chợ Dịch vụ tại chợ

Page 40: Qt059

Vệ

sinh

Bảo vệ

đêm

Bốc

xếp

Trông

giữ xe

Kho

hàng hoá

Kiểm tra chất

lượng hàng hoá

Cầu Giấy

Quan Hoa

Nhà Xanh

Nghĩa Tân

Đồng Xa

Nông sản DV

Xe máy DV

Hợp Nhất

Trần Duy Hưng

Nguồn: Phòng kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

5.4. Về việc thực hiện vai trò của chợ

Hiện nay, chợ trên địa bàn vẫn đang là nơi phân phối hàng tiêu dùng, hàng

lương thực, thực phẩm chủ yếu, nó cung ứng khoảng 50% lượng hàng hoá này

cho toàn bộ dân cư trong địa bàn, còn lại 50% là qua hệ thống phân phối khác

như cửa hàng bán lẻ, siêu thị, trung tâm thương mại.

Về đóng góp ngân sách Nhà nước, trung bình các chợ đã đóng góp khoảng

3 tỷ đồng mỗi năm, cụ thể như sau:

Đơn vị: triệu đồng

ChợNộp ngân sách Nhà nước

2003 2004 2005

Cầu Giấy

Quan Hoa

Nhà Xanh

Nghĩa Tân

Đồng Xa

Nông sản DV

Page 41: Qt059

Xe máy DV

Hợp Nhất

Trần Duy Hưng

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Tuy nhiên, sự phân bổ của nguồn thu ngân sách là không đồng đều nhau

giữa các chợ, điều này hoàn toàn phù hợp với quy mô và thực trạng phát triển

của mỗi chợ.

Về vấn đề giải quyết việc làm, ta có số liệu về số lượng lao động làm việc

tại chợ như sau:

Bảng: Số lao động trong các chợ

(tính đến hết tháng 12/2005)

Đơn vị: người

Tên chợSố người bán

hàng tại chợ

Số người lao động

quản lý tại chợTổng số

Toàn Quận 2730 148 2878

Cầu Giấy 157 15 172

Quan Hoa 89 07 96

Nhà Xanh 220 11 169

Nghĩa Tân 558 26 584

Đồng Xa 456 29 485

Nông sản DV 700 18 718

Xe máy DV 195 26 221

Hợp Nhất 170 06 186

Trần Duy Hưng 185 10 195

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Từ bảng số liệu trên ta thấy, chợ đã giải quyết việc làm cho gần 3 nghìn

người trong đó có cả người buôn bán và người lao động quản lý. Đó là chưa kể

đến số lượng lao động làm thuê cho các chủ sạp, các tổ dịch vụ, công nhân bốc

xếp… Có thể thấy rằng, chợ đã giải quyết một cách rất có hiệu quả việc làm cho

Page 42: Qt059

một số lượng lớn lao động tại các địa phương, cả khu vực thành thị và nông

thôn. Tuy nhiên chúng ta còn có thể nâng cao số lượng lao động này hơn nữa vì

còn có một số chợ chưa được quy hoạch cụ thể và một số chợ chưa sử dụng hết

công suất. Và vì thế cần phát triển tốt mạng lưới chợ trên địa bàn nhằm tận dụng

triệt để những lợi ích, những tiềm năng về người (giải quyết việc làm) và vật

chất (ngân sách) mà chợ mang lại cho chúng ta.

6. Thực trạng vệ sinh môi trường, đảm bảo an toàn chợ và văn minh thương mại

tại chợ

6.1. Thực trạng vệ sinh môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm

6.1.1. Về vệ sinh môi trường

Trong những năm qua, các cấp quản lý đã có nhiều cố gắng trong việc giải

quyết vấn đề vệ sinh môi trường ở các chợ. Hầu hết các chợ đều được Quận đầu

tư nâng cấp, sửa chữa quầy sạp, nạo vét cống rãnh, tổ chức việc thu gom, vận

chuyển rác.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hộ chưa có ý thức trong việc thực hiện công tác

này, các chất thải của các sạp hàng vẫn được thải trực tiếp trong chợ, gây ô

nhiễm chợ như các hàng mổ gia cầm, hàng bán cá mổ sẵn…, nó tác động trực

tiếp đến môi trường trong chợ cũng như khu vực xung quanh chợ. Hệ thống xử

lý nước ở một số chợ chưa tốt, không đảm bảo có thể gây ứ đọng nước thải,

ngập lụt trong mùa mưa gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và cảnh

quan đô thị.

6.1.2. Về vệ sinh an toàn thực phẩm

Tình hình vệ sinh an toàn thực phảm luôn được ngành chức năng quan tâm,

kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở đến các tiểu thương thực hiện đúng quy định về an

toàn vệ sinh thực phẩm. Trong toàn Quận, 100% các hộ kinh doanh ngành hàng

ăn uống trong các chợ được cấp giấy chứng nhận cơ sở đạt tiêu chuẩn vệ sinh an

toàn thực phẩm. Các hộ kinh doanh đồ ăn chín 100% đều có tủ quầy theo mẫu

quy định. Thực phẩm tươi sống đều qua công tác kiểm dịch động vật. Mối chợ

đều có trên dưới 10 quầy bán rau sạch.

Page 43: Qt059

6.2. Thực trạng về an toàn phòng cháy chữa cháy ở các chợ

Trong thời gian qua, Ban quản lý các chợ và các cơ quan chức năng đã có

nhiều cố gắng trong công tác Phòng cháy chữa cháy. Hàng năm UBND Quận

cấp kinh phí cho việc bảo dưỡng, duy tu, mua sắm phương tiện phòng chống

cháy nổ. Nhiều biện pháp được áp dụng như như nhắc nhở các hộ kinh doanh đề

cao cảnh giác, trang bị thiết bị chữa cháy, kiểm tra thường xuyên hệ thống điện,

làm vệ sinh phòng cháy, trang bị hệ thống báo cháy, hệ thống cầu dao… Những

biện pháp trên đã góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an toàn cho các chợ.

Tuy nhiên, công tác PCCC ở các chợ vẫn còn tồn tại một số vấn đề như:

nhiều chợ chưa có đội PCCC, chưa đảm bảo về thoát nạn, việc sử dụng thành

thạo các loại phương tiện phòng và chống cháy còn yếu, chưa thành thạo…

II. Thực trạng mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy hiện nay

1. Các mô hình tổ chức quản lý chợ

Trong thời gian qua, công tác tổ chức và quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu

Giấy chịu sự điều chỉnh của những văn bản sau:

- Quyết định số 3569/QĐ-UB ngày 16/09/1997 của UBND Thành phố Hà

Nội;

- Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 về phát triển và quản lý

chợ;

- Thông tư số 06/2003/TT-Bộ Thương mại ngày 15/08/2003 của Bộ

Thương mại hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban

quản lý chợ;

Toàn Quận hiện có 10 chợ đang hoạt động, trong đó có 3 chợ loại 2 (chợ

Cầu Giấy, chợ Nghĩa Tân, chợ Đồng Xa) và 7 chợ còn lại đều là các chợ loại 3.

Có 3 Ban quản lý chợ do quận quản lý, mỗi Ban quản lý chợ quản lý 2 chợ:

Ban quản lý chợ Cầu Giấy quản lý thêm chợ Quan Hoa, Ban quản lý chợ Nghĩa

Tân quản lý thêm chợ Nhà Xanh, Ban quản lý chợ Đồng Xa quản lý thêm chợ

Nông sản Dịch Vọng.

Có 4 chợ do các Hợp tác xã kinh doanh khai thác và quản lý:

Page 44: Qt059

- Chợ Trần Duy Hưng do Hợp tác xã dịch vụ Nông nghiệp Trung Hoà kinh

doanh khai thác và quản lý;

- Chợ Hợp Nhất do Hợp tác xã dịch vụ Nông nghiệp Hợp Nhất kinh doanh

khai thác và quản lý;

- Chợ Xe máy - đồ cũ Dịch Vọng và chợ 337 Dịch Vọng do Hợp tác xã

dịch vụ Nông nghiệp Dịch Vọng kinh doanh khai thác và quản lý.

Như vậy, có 2 mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy

hiện nay đó là:

-Mô hình Ban quản lý quản lý chợ;

-Mô hình Hợp tác xã quản lý chợ.

1.1. Tổ chức quản lý chợ theo mô hình ban quản lý

Trên địa bàn quận Cầu Giấy hiện nay có 6 chợ do Ban quản lý quản lý. Các

chợ này đều do quận đầu tư xây dựng hoặc hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng. UBND

Quận căn cứ vào tính chất, đặc điểm và quy mô của các chợ này đã lập ra 3 Ban

quản lý và giao cho mỗi Ban quản lý quản lý 2 chợ, thể hiện trong sơ đồ dưới

đây:

Chức năng, nhiện vụ, quyền hạn và tổ chức của các Ban quản lý này do

UBND Quận Cầu Giấy quy định, cụ thể như sau:

Về chức năng:

Page 45: Qt059

- Các Ban quản lý trên là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Quận quản lý,

tự trang trải các chi phí hoạt động thường xuyên.

- Ban quản lý thực hiện chức năng quản lý các hoạt động của chợ và tổ

chức kinh doanh các dịch vụ tại trong phạm vi chợ được giao quản lý.

Về nhiệm vụ, quyền hạn.

Các Ban quản lý có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:

1. Trình UBND quận Cầu Giấy quyết định:

- Phê duyệt Phương án sử dụng điểm kinh doanh và bố trí, sắp xếp các

ngành nghề kinh doanh tại chợ.

- Quy định cụ thể việc việc sử dụng, thuê thời hạn thuê với các biện pháp

quản lý điểm kinh doanh tại chợ.

- Phê duyệt Nội quy chợ.

- Phê duyệt Phương án đảm bảo Phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi

trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ.

- Phê duyệt kế hoạch sửa chữa lớn, nâng cấp cơ sở vật chất và phát triển

các hoạt động của chợ khi có nhu cầu.

2. Quyết đinh việc tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật để lựa

chọn thương nhân sử dụng hoặc thuê điểm kinh doanh tại chợ theo phương án

đã duyệt.

3. Ký hợp đồng với thương nhân sử dụng hoặc thuê điểm kinh doanh tại

chợ theo phương án đã được duyệt.

4. Tổ chức, quản lý, điều hành chợ hoạt động, tổ chức thực hiện Nội quy

chợ và xử lý các vi phạm Nội quy chợ.

5. Đảm bảo công tác Phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh

trật tư và an toàn vệ sinh thực phẩm trong phạm vi chợ.

6. tổ chức kinh doanh, phát triển các dịch vụ hỗ trợ như: trong giữ phương

tiện vận chuyển, bốc xếp hàng hoá, cho thuê kho bảo quản cất giữ, kiểm định số

lượng, chất lượng hàng hoá, vệ sinh môi trường… và các hoạt động khác trong

phạm vi chợ phù hợp với các quy định của pháp luật.

Page 46: Qt059

7. Tổ chức thu, nộp tiền thuê, sử dụng điểm kinh doanh của thương nhân và

các loại phí, lệ phí về chợ theo quy định của pháp luật.

8. Phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan, đoàn thể tổ chức

thông tin kinh tế - xã hội, phổ biến hướng dẫn thực hiện các chính sách, các quy

định của pháp luật và nghĩa vụ đối với Nhà nước của thương nhân kinh doanh

tại chợ.

9. Chịu trách nhiệm quản lý tài sản và kết quả tài chính của Ban quản lý

chợ theo quy định của pháp luật.

10. Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ

cho Phòng Kinh tế - Kế hoạch UBND quận Cầu Giấy theo quy định của Bộ

thương mại.

Về tổ chức:

Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Ban quản lý chợ Cầu Giấy:

Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Ban quản lý chợ Nghĩa Tân:

Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Ban quản lý chợ Đồng Xa:

- Trưởng ban, Phó trưởng ban do Chủ tịch UBND quận Cầu Giấy quyết

định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật.

- Trưởng Ban quản lý chợ phải chịu trách nhiệm trước UBND quận Cầu

Giấy về toàn bộ hoạt động của chợ và của Ban quản lý chợ. Phó trưởng ban có

trách nhiệm giúp Trưởng ban và chịu trách nhiệm trước trương rban thực hiện

một hoặc một số nhiệm vụ do trưởng ban phân công.

- Căn cứ tính chất, đặc điểm, khối lượng công việc và khả năng tài chính,

Trưởng ban quản lý chợ quyết định việc tổ chức các bộ phận chuyên môn

nghiệp vụ giúp việc quản lý, điều hành chợ hoạt động và tổ chức các dịch vụ tại

chợ.

- Ký hợp đồng tuyển dụng lao động, các hợp đồng khác với các cơ quan,

doanh nghiệp về đảm bảo vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy, an ninh

trật tự… trong phạm vi chợ.

1.2. Quản lý chợ theo mô hình Hợp tác xã

Page 47: Qt059

Hiện tại trên địa bàn có 4 chợ do các Hợp tác xã quản lý. Đây đều là các

chợ loại 3, do UBND phường làm chủ đầu tư, nhưng thực chất là vốn của các

Hợp tác xã - đây là nguồn vốn đóng góp, hỗ trợ của các cơ quan, đơn vị có dự án

trên địa bàn phường. Cụ thể:

- Chợ Trần Duy Hưng: Do UBND phường Trung Hoà làm chủ đầu tư

nhưng vốn của phường và của Hợp tác xã dịch vụ Nông nghiệp Trung Hoà.

- Chợ Hợp Nhất: Do UBND phường Yên Hoà làm chủ đầu tư nhưng vốn

của phường và của Hợp tác xã dịch vụ Nông nghiệp Yên Hoà.

- Chợ Xe máy - đồ cũ Dịch Vọng: Do UBND phường Dịch Vọng là chủ

đầu tư nhưng vốn của phường và của Hợp tác xã dịch vụ Nông nghiệp Dịch

Vọng.

- Chợ 337 Dịch Vọng: Do UBND phường làm chủ đầu tư nhưng Hợp tác

xã dịch vụ Nông nghiệp Dịch Vọng bỏ toàn bộ vốn đầu tư, xây dựng.

Đây là điều bất hợp lý. Vì thế, UBND Quận đã ra quyết định chuyển giao

các chợ này cho các Hợp tác xã tương ứng quản lý.

Về chức năng:

- Hợp tác xã kinh doanh khai thác và quản lý chợ hoạt động theo Luật Hợp

tác xã và các văn bản quy định của pháp luật hiện hành.

- Các Hợp tác xã thực hiện chức năng quản lý các hoạt động của chợ và tổ

chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ trong phạm vi chợ quản lý.

Về nhiệm vụ, quyền hạn. Các Hợp tác xã kinh doanh khai thác và quản lý

chợ có trách nhiệm và quyền hạn tổ chức thực hiện các công việc sau:

1. Tổ chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ.

2. Đảm bảo công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh

trật tư và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ.

3. Xây dựng Nội quy chợ trỉnh UBND cấp phường quản lý phê duyệt; tổ

chức điều hành chơ hoạt động theo Nội quy chợ và xử lý các vi phạm về Nội

quy chợ.

Page 48: Qt059

4. Bố trí sắp xếp các khu vực kinh doanh đảm bảo các yêu cẩu về trật tự, vệ

sinh, văn minh thương mại và phù hợp với yêu cầu của thương nhân kinh doanh.

5. Ký hợp đồng với các thương nhân về việc thuê, sử dụng điểm kinh

doanh tại chợ.

6. Tổ chức thông tin kinh tế, phổ biến chính sách, quy định của pháp luật

và nghĩa vũ đối với Nhà nước của thương nhân kinh doanh tại chợ.

7. Tổng hợp tình hình hoạt động của chợ và báo cáo định kỳ cho phòng

Kinh tế - Kế hoạch cấp phường quản lý theo hướng dẫn của Bộ Thương mại.

Về tổ chức:

1.3. Cơ chế tài chính áp dụng cho các BQL, HTX kinh doanh khai thác và quản

lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy:

1.3.1. Các khoản thu:

Cả BQL, HTX kinh doanh khai thác và quản lý chợ đều được thu các

khoản thu sau:

Tuy nhiên, việc quản lý, sử dụng các khoản phí nêu trên được thực hiện

theo quy định có sự khác nhau như sau:

- Đối với 6 chợ do Quận đầu tư xây dựng hoặc hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng,

giao cho 3 BQL quản lý thì các khoản phí nêu trên là khoản thu của ngân sách

Nhà nước, các BQL chợ được tríchlại một phần từ số tiền phí thu được để trang

trải chi phí cho việc thu phí. Phần tiền phí trích để lại này do UBND Quận Cầu

Giấy quyết định. Các BQL chợ có trách nhiện kê khai, nộp và quyết toán số tiền

phí còn lại vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 4 chợ do các Phường làm chủ đầu tư nhưng đã chuyển giao cho

các HTX quản lý thì các khoản phí nêu trên không thuộc Ngân sách Nhà nước.

HTX kinh doanh khai thác và quản lý chợ chỉ có nghĩa vụ nộp thuế theo quy

định của pháp luật đối với số phí thu được và có quyền quản lý, sử dụng số tiền

phí sau khi đã nộp thuế.

1.3.2. Các khoản chi:

1.3.2.1. Đối với các BQL chợ.

Page 49: Qt059

Các BQL chợ được sử dụng các khoản thu để chi cho các nội dung sau:

- Chi trả hoàn vốn đầu tư xây dựng chợ;

- Chi cho người lao động;

- Chi quản lý hành chính;

- Chi cho các hoạt động tổ chức thu;

- Chi cho các hoạt động cung ứng dịch vụ;

- Chi khác.

Sau khi chi cho các khoản chi nêu trên theo quy định, số còn lại BQL các

chợ phải nộp vào NSNN.

1.3.2.2. Đối với các HTX kinh doanh khai thác và quản lý chợ

Họ cũng phải chi cho các nội dung tương tự như trên như hoàn trả vốn đầu

tư xây dựng chợ, các chi phí cần thiết khác cho hoạt động của HTX.

1.3.3. Quyết toán các khoản thu, chi:

Đối với BQL chợ:

- Hàng năm BQL chợ xây dựng dự toán, lập báo cáo quyết toán thu, chi

kinh phí trình UBND quận Cầu Giấy phê duyệt.

- BQL chợ thực hiện công tác kế toán, thống kê và báo cáo tài chính áp

dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp.

Đối với HTX kinh doanh khai thác và quản lý chợ:

- Hàng năm, các HTX kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải xây dựng

kế hoạch kinh doanh và phương án tài chính cho hoạt động của mình. Việc xây

dựng phương án tài chính dựa trên các khoản thu để sử dụng chi cho các mục

đích của HTX.

- HTX kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải thực hiện chế độ quyết

toán và báo cáo tài chính doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

2. Đánh giá về mô hình BQL chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy trong thời gian

qua.

2.1. Những kết quả đã đạt được:

Page 50: Qt059

Trong những năm qua sự tồn tại và phát triển của các chợ do QBL thuộc

đơn vị sự nghiệp có thu tổ chức, quản lý đóng vai trò rất quan trọng đối với sự

phát triển kinh tế - xã hội của Quận. Các BQL đã duy trì hoạt động của các chợ

tương đối ổn định và mang lại những kết quả đáng kể như: tạo công ăn việc làm

cho người lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu cho

ngân sách Nhà nước… từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trên địa bàn

Quận. Những kết quả quan trọng nhất là:

2.1.1. Về việc giải quyết việc làm.

Hiện nay, trên địa bàn các chợ do BQL quản lý đã giải quyết được việc làm

cho trên người lao động, trong đó số lao động làm việc cụ thể tại mỗi chợ như

sau:

Tên chợSố người bán hàng tại chợ

Số người lao động quản lý tại chợ

Tổng số

Toàn Quận 2180 106 2286

Cầu Giấy 157 15 172

Quan Hoa 89 07 96

Nhà Xanh 220 11 169

Nghĩa Tân 558 26 584

Đồng Xa 456 29 485

Nông sản DV 700 18 718

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Số lao động trên bao gồm cả những người lao động trên địa bàn quận và cả

những người vãng lai từ các nơi khác đến. Theo thống kê, có 65% số người bán

hàng tại các chợ là người dân trên địa bàn Quận và 35% là những người vãng lai

từ các tỉnh khác đến, chủ yếu là từ các tỉnh lân cận đến bán nông sản thực phẩm

tươi sống. Riêng chợ đầu mối Nông sản thực phẩm 100% số người bán hàng tại

đây là những người vãng lai từ các tỉnh lân cận.

Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng quận Cầu Giấy được thành lập từ các xã

ven nội với đặc trưng sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Nhưng những năm gần

Page 51: Qt059

đây do tốc độ đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ nên diện tích đất đai giành cho nông

nghiệp giảm mạnh. Kéo theo đó là hiện tượng số lao động nông nghiệp bị thất

nghiệp tăng lên mạnh mẽ. Theo thống kê, có khoảng 2052 nông nghiệp cần giải

quyết việc làm do mất đất. Những người này do trình độ học thức thấp, lại đa số

ở tuổi 35-40 nên rất khó khăn khi chuyển kiếm việc làm. Và nhiều người đã

chuyển sang kinh doanh buôn bán tại các chợ. Hiện có khoảng 500 lao động

nông nghiệp đang kinh doanh buôn bán tại các chợ này (chiếm khoảng 25% số

lao động nông nghiệp cần giải quyết việc làm). Đây là một con số đáng kể.

Như vậy, có thể nói chợ đã giải quyết việc làm một cách rất hiệu quả cho

lao động nói chung và đặc biệt cho lao động nông nghiệp trên địa bàn nói riêng.

2.1.2. Tăng nguồn thu cho NSNN.

Hàng năm các chợ đã nộp cho NSNN ổn định khoảng 3 tỷ đồng, trong số

đó tiền thu thuế của các hộ kinh doanh trong chợ là trên 500 triệu đồng.

Bảng: Nộp NSNN của các chợ thuộc đơn vị sự nghiệp có thu

do UBND Quận quản lý

Đơn vị: triệu đồng

Ban quản lý 2003 2004 2005

Toàn Quận 2.833 2993 3.021

BQL chợ Cầu Giấy 678 689 737

BQL chợ Nghĩa Tân 1.192 1.304 1.295

BQL chợ Đồng Xa 963 993 989

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Những đóng góp trên là tác nhân quan trọng đối với sự phát triển kinh tế -

xã hội trên địa bàn Quận trong thời gian qua.

2. Những hạn chế trong mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn Quận hiện nay

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, BQL chợ vẫn còn tồn tại nhiều vấn

đề bất cập cần phải giải quyết trong thời gian tới. Điều này thể hiện ở một số

khía cạnh sau:

Page 52: Qt059

Thứ nhất, mô hình tổ chức quản lý không thống nhất, nhiều đầu mối, cùng

một loại chợ như nhau, có chợ thì lại do Quận quản lý, có chợ lại do phường

quản lý, có chợ lại giao cho các HTX quản lý. Các QBL thuộc chợ trực thuộc

Quận quản lý thì đều quản lý 2 chợ. Với thực trạng hiện nay của bộ máy BQL

vừa ít về số lượng, vừa yếu kém về năng lực thì việc mỗi BQL quản lý 2 chợ sẽ

dẫn đến việc kinh doanh khai thác và quản lý các chợ sẽ không hiệu quả, thể

hiện như:

- Việc quản lý các tài sản Nhà nước trong phạm vi chợ còn lỏng lẻo, trách

nhiệm chưa cao.

- Công tác thu thuế, các loại phí, lệ phí trong chợ còn chậm chạp.

- Chưa kiên quyết trong việc xử lý các vi phạm về Nội quy chợ. Trong

cùng một chợ hiện tượng "vừa thừa vừa thiếu" diễn ra phổ biến. Một số quầy

sạp trong chợ bị bỏ trống, trong khi đó diện tích xung quanh chợ, các tuyến

đường lối đi vào chợ thì bị lấn chiếm kinh doanh.

- Việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các chính sách, các quy

định của pháp luật và nghĩa vụ đối với Nhà nước cho các thương nhân kinh

doanh tại chợ của BQL còn chưa đầy đủ.

Thứ hai, mô hình quản lý chợ như hiện nay chưa huy động được các thành

phần kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng, kinh doanh khai thác chợ. Nguồn vốn

cho đầu tư, xây dựng các chợ mới đều lấy từ NSNN là chủ yếu. Ngoài ra chỉ huy

động được một tỷ lệ rất nhỏ của các hộ kinh doanh trong chợ hay của một số cá

nhân, cơ quan, đơn vị có dự án trên địa bàn Quận.

Hiện chỉ có 3 chợ mà vốn xây dựng là do huy động được, còn lại các chợ

xây dựng là do NSNN cấp. Có chợ Trần Duy Hưng và chợ Hợp Nhất là do vốn

của tự có của các HTX Dịch vụ nông nghiệp, chợ Nghĩa Tân là do huy động của

các thành phần kinh tế khác. Cụ thể:

Đơn vị: triệu đồng

Tên chợ Tổng vốn đầu ta xây Trong đó

NSNN cấp Huy động

Page 53: Qt059

dựng chợ ban đầuNghĩa Tân 2.299 2.299

Đồng Xa 8.397 8.329

Cầu Giấy 2.300 2.300

Nhà Xanh 1.070 1.070

Quan Hoa 1.129,7 1.129,7

Nông sản Dịch vọng 2.231 2.231

Xe máy Dịch Vọng 4.000 4.000

Hợp Nhất 1.600 1.600

Trần Duy Hưng 1.327 1.327

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Điều đó đặt ra vấn đề là có nên tiếp tục Nhà nước phải chi cho xây dựng

các chợ, sau đó thu hồi thuế dần không hay có thể chuyển đổi cho các tổ chức

kinh tế, các cá nhân khác tham gia đầ tư, xây dựng và kinh doanh khai thác chợ.

Nhà nước chỉ là chủ thể thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên lĩnh vực chợ

đối với tổ chức đó.

Thứ ba, hàng năm Quận vẫn phải chi một khoản ngân sách lớn vào đầu tư,

xây dựng, cải tạo, nâng cấp, chỉnh trang chợ. Chẳng hạn, năm 2003 Quận đã chi

841,1 triệu đồng NSNN cho các dự án cải tạo chợ Cầu Giấy và chợ Nghĩa Tân;

năm 2004 Quận đã chi 853,5 triệu đồng để cải tạo chợ Cầu Giấy và chợ Quan

Hoa. Đến năm 2005 thì Quận đã chi khoảng 3,6 tỷ đồng cho các hạng mục chỉnh

trang, sửa chữa cải tạo các chợ dưới đây:

Đơn vị: triệu đồng

Các hạng mục sửa chữa,cải tạo, chỉnh trang chợ

Kinh phí sửa chữa, cải tạo

Tổng sốTrong đó

Vốn ngân sách

Hộ kinh doanh đóng góp

Toàn Quận 3.737,9 3.571,5 166,4

1. Cải tạo hệ thống điện; nhà

A, B và mái che chợ Đồng

2.984,4 2.818 166,4

Page 54: Qt059

Xa

2. Cải tạo bể PCCC, nhà vệ

sinh chợ Quan Hoa; cầu

thang chợ Cầu Giấy

653,5 653,5 -

3. Chống thấm dột nhà chợ

chính chợ Nghĩa Tân100 100 -

Nguồn: Phòng kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Như vậy, số tiền chi cho việc chỉnh trang, cải tạo chợ năm 2005 là 3.737,9

triệu đồng thì đóng góp của các hộ kinh doanh mới chỉ là 166,4 triệu đồng

(chiếm 45,%), còn lại là do NSNN cấp (95,5%).

Như vậy, cần phải có cơ chế, chính sách khuyến khích huy động mọi thành

phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển chợ, kết hợp Nhà nước và nhân dân cùng

làm, xã hội hoá trong việc phát triển chợ.

Thứ tư, vai trò của BQL chợ còn nhiều hạn chế thể hiện:

- Không chủ động trong việc sử dụng kinh phí tái đầu tư cho chợ. Các chợ

có những đóng góp quan trọng cho việc tạo nguồn thu cho NSNN, tuy nhiên

nguồn thu này không được trích lại để đầu tư, nâng cấp, sửa chữa chợ. Do đó khi

chợ bị xuống cấp, hư hỏng cần có những kế hoạch sửa chữa lớn thì BQL chợ

phải trình lên UBND cấp có thẩm quyền theo phân cấp quản lý phê duyệt và

quyết định, rồi sau đó mới cấp kinh phí xuống. Việc làm thu tục giấy tờ để xin

kinh phí, chờ phê duyệt có khi phải mất cả tháng mới xong, gây ảnh hưởng đến

hoạt động của chợ.

- Không chủ động trong việc bố trí, sắp xếp các ngành hàng, các điểm kinh

doanh tại chợ mà phải do UBND cấp có thẩm quyền quyết định.

Thứ năm, chính sách của Nhà nước đối với BQL chợ không khuyến khích

BQL phát huy tính năng động của mình. BQL là đơn vị sự gnhiệp có thu, kinh

phí hoạt động của BQL do ngân sách cấp và không có chế độ đãi ngộ cho các

BQL hoạt động. Hiện nay, mức lương trung bình của cán bộ công nhân viên

Page 55: Qt059

trong BQL còn rất thấp, cao nhất mới chỉ 650.000 đồng/người/ tháng, cụ thể

từng chợ như sau:

Tên chợLương bình quân

(triệu đồng/tháng)

Cầu Giấy 0,65

Quan Hoa 0,65

Nhà Xanh 0,65

Nghĩa Tân 0,521

Đồng Xa 0,42

Nông sản Dịch Vọng 0,65

Xe máy Dịch Vọng 0,5

Hợp Nhất 0,25

Trần Duy Hưng 0,4

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Ngoài mức lương trên, BQl chợ còn thu theo quy định 400 đồng/hộ kinh

doanh/ngày gọi là lệ phí trật tự kinh doanh để chi cho công việc quản lý hàng

ngày trong chợ. Có thể nói, mức lương quy định như hiện nay đối với BQL chợ

là khá thấp, do đó không tạo động lực cho BQL phát huy hết khả năng của mình.

Đồng thời, với mức lương đó không đảm bảo cuộc sống hàng ngày của BQL ,

điều này rất dễ nảy sinh tiêu cực.

Thứ sáu, do dân số cơ học trên địa bàn tăng nhanh và di chuyển đến không

đồng đều (dân cư ở nơi khác đến chủ yếu tập trung vào các khu đô thị mới).

Trong khi đó, các khu đô thị này khi phê duyệt quy hoạch đều có quy hoạch bố

trí các chợ và siêu thị nhưng đến khi xây dựng lại thiếu đồng bôk, quy hoạch

chợ không phù hợp với quy hoạch đô thị. Do đó không đáp ứng nhu cầu sinh

hoạt của nhân dân, tư đó phát sinh ra nhiều chợ tạm, chợ cóc. Hiện tại trên địa

bàn Quận còn 11 tụ điểm chợ xanh, chợ tam, chợ cóc nằm rải rác trong các ngõ

xóm, khu dân cư của 8 phường. Cụ thể:

Phường Tên tụ điểm Hình thức hoạt động Số hộ

Page 56: Qt059

kinh doanh

Quan Hoa

Chợ ngõ 68Từ 5h đến 12h trong ngõ

khu dân cư70

Chợ khu văn côngTừ 5h đến 12h trong ngõ

khu dân cư60

Chợ Nhà Xanh Cả ngày trên lòng đường 136

Dịch Vọng

Chợ trước cổng Công

ty xây dựng số 2

Cả ngày trên lòng đường,

ngõ xóm52

Chợ xóm HậuCả ngảy trong đường ngõ

xóm48

Yên HoàChợ đầu cầu Yên Hoà Cả ngày trên lòng đường 37

Chợ xóm Chùa Cả ngày trên lòng đường 46

Nghĩa ĐôChợ K800 Cả ngày trên vỉa hè 113

Chợ Bái Ân Cả ngày trên vỉa hè 111

Mai DịchChợ hoa trước khu

Tổng cục chính trị

Từ 4h đến 6h sáng trên

lòng đường60

Nghĩa TânChợ ở sân vận động

Nghĩa Tân

Từ 5h đến 12h trên vỉa hè,

lòng đường141

Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy

Đến khi các chợ tự phát hình thành rồi thì lại thiếu sự phối hợp giữa BQL

chợ với các cơ quan chức năng của phường, quận trong việc giải toả các chợ tự

phát đó. Sự hiện diện của các tụ điểm chợ cóc, chợ tạm khiến cho các chợ đã

quy hoạch chịu không ít ảnh hưởng.

Thực trạng đó đòi hỏi trong thời gian tới cần phải có sự phối hợp kiên

quyết giữa các cơ quan chức năng để giải toả các chợ tạm, chợ cóc, đảm bảo an

ninh trật tự, an toàn xã hội và văn minh đô thị trên địa bàn.

Thứ bảy, vấn đề an ninh trật tự, an toàn PCCC, vệ sinh môi trường chưa

thật sự được đảm bảo. Tình trạng chợ dơ bẩn, nhếch nhác vẫn còn, nhiều quầy

Page 57: Qt059

sạp được bố trí không ngăn nắp, gọn gàng. Một nguyên nhân khá quan trọng là

trình độ của bộ máy BQL còn yếu kém, thiếu năng lực, nhất là đối với các chợ

mới đi vào hoạt động thì bộ máy BQL còn ít, chưa hoàn chỉnh, thiếu kinh

nghiệm dẫn đến lúng túng khi triển khai thực hiện các công tác trên. Do đó

không đảm bảo được tính văn minh thương mại trong chợ. Một nguyên nhân

nữa là do kinh phí hoạt động của BQL do NSNN cấp còn thấp, chưa nâng cao

tinh thần trách nhiệm của BQL chợ.

Thứ tám, sự hạn chế của các dịch vụ trong chợ. Hiện nay, việc tổ chức,

kinh doanh, phát triển các dịch vụ hỗ trợ trong các chợ mới chỉ đảm bảo ở mức

tối thiểu như trông giữ xe, vệ sinh, bảo vệ đêm. Hầu hết các chợ còn chưa có các

dịch vụ về kho bảo quản hàng hoá, bốc xếp hàng hoá, dịch vụ đo lường, kiểm tra

chất lượng hàng hoá… Thậm chí nhiều chợ còn chưa có cả dịch vụ trông giữ xe

(chợ Quan Hoa, chợ Nhà Xanh), làm cho người mua mang cả xe vào chợ, từ đó

càng tạo điều kiện cho sự phát sinh các hộ kinh doanh lấn chiếm cả xuống

đường, các lối đi vào chợ, gây ách tắc, mất an ninh trật tự.

Chương III.

Phương hướng và biện pháp nhằm chuyển đổi mô hình

tổ chức quản lý trên đại bàn quận Cầu Giấy

trong giai đoạn hiện nay

I. Mục đích, yêu cầu trong chuyển đổi mô hình

Page 58: Qt059

1. Mục đích:

- Thiết lập mô hình tổ chức quản lý chợ thống nhất đảm bảo gọn nhe, hiệu

quả, huy động các thành phần kinh tế đầu tư, kinh doanh, khai thác và quản lý

chợ, từng bước xã hội hoá hoạt động chợ.

- Tạo môi trường pháp lý thuận lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế,

các tổ chức, cá nhân đầu tư kinh doanh khai thác chợ, xây dựng quận Cầu Giấy

văn minh về thương mại và góp phần với thủ đô là trung tâm thương mại văn

minh của cả nước.

2. Yêu cầu:

- Chợ phải là tổ chức kinh tế thương mại - dịch vụ, là địa điểm kinh doanh -

dịch vụ được tổ chức theo quy hoạch, nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán, trao đổi

hàng hoá dịch vụ của tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh thương mại - dịch

vụ theo quy định của pháp luật.

- Việc chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ phải đảm bảo hoạt động

bình thương của các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ tại các chợ và phục vụ

ngày càng tốt hơn nhu cầu đời sống, sinh hoạt của người dân địa phương

II. Phương hướng chuyển đổi mô hình

1. Đối với chợ thuộc Quận quản lý

Từng bước chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý BQL chợ sang mô hình tổ

chức doanh nghiệp hoạt động theo Luật, thông qua hình thức đấu thầu, trong đó

chủ yếu là mô hình tổ chức: công ty cổ phần kinh doanh khai thác và quản lý

chợ. Có các hình thức sau:

1.1. Công tư cổ phần kinh doanh khai thác và quản lý chợ áp dụng một trong hai

hình thức sau:

- Hình thức thứ nhất: Công ty cổ phần Nhà nước chiếm cổ phần chi phối

(áp dụng đối với chợ trung tâm, đặc biệt do UBND Thành phố quyết định)

- Hình thức thứ hai: Công ty cổ phần Nhà nước không giữ cổ phần chi phối

hoặc Nhà nước không tham gia cổ phần (áp dụng đối với hầu hết các chợ còn

lại).

Page 59: Qt059

Phương thức chuyển đổi: Thông qua hình thức đấu thầu hoặc huy động các

thành phần kinh tế, các tư thương góp vốn đấu tư tham gia công ty công ty cổ

phần. Nếu là công ty cổ phần có sự tham gia của Nhà nước thì phần vốn góp của

Nhà nước là giá trị sử dụng đất và giá trị tài sản do Nhà nước đầu tư xây dựng

chợ được thực hiện dưới hai hình thức:

Chuyển giao phần vốn của Nhà nước (giá trị sử dụng đất và giá trị tài sản

do Nhà nước đầu tư xây dựng chợ) cho doanh nghiệp Nhà nước dưới hình thức

bổ sung vốn cho doanh nghiệp để doanh nghiệp tham gia cổ phần.

Chuyển giao phần vốn của Nhà nước (giá trị sử dụng đất và giá trị tài sản

do Nhà nước đầu tư xây dựng chợ) cho UBND Quận quản lý tham gia cổ phần.

UBND Quận cử đại diện tham gia Hội đồng quản trị công ty cổ phần, quản lý

phần vốn góp của Nhà nước .

1.2. HTX kinh doanh khai thác v à quản lý chợ.

- Đối với những chợ được xây dựng do vốn của các thành phần kinh tế, cá

nhân đầu tư xây dựng, nểu đủ điều kiện thì cho phép chuyển đổi thành lập HTX

kinh doanh khai thác và quản lý chợ.

- Phương thức chuyển đổi: Thông qua vốn góp của các thành phần kinh tế,

cá nhân chuyển đổi thành cổ phần của các xã viên tham gia HTX và kết nạp

thêm xã viên nếu có nhu cầu, Nhà nước cho thuê quyền sử dụng đất và thu thuế

sử dụng đất, thuế kinh doanh theo pháp luật.

1.3. Công ty tư nhân kinh doanh khai thác và quản lý chợ.

- Đối với những chợ có điều kiện cho phép chuyển đổi thành lập công ty tư

nhân kinh doanh khai thác và quản lý chợ.

- Phương thức chuyển đổi: Thông qua đấu thầu cho thuê

Trình tự nội dung tiến hành việc chuyển đổi mô hình tổ chức trên:

- Để thực hiện các phương thức chuyển đổi trên: Khuyến khích, tạo điều

kiện cho các thành phần kinh tế, cá nhân đầu tư xây dựng và kinh doanh chơ (ưu

tiên các thành phần kinh tế, cá nhân đang góp vốn hoặc kinh doanh tại chợ),

Quận xây dựng đề án, báo cáo UBND Thành phố xem xét và quyết định

Page 60: Qt059

- Trong quá trình triển khai phải thực hiện theo quy định của Nhà nước và

Thành phố như: Luật doanh nghiệp, Luật HTXvà vận dụng quyết định số

2063/QĐ-UB ngày 08/04/2004 của UBND thành phố Hà Nội về việc ban hành

quy trình sắp xếp chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước.

1.4. Ban quản lý chợ.

- Đối với các chợ chưa có điều kiện chuyển đổi thì thành lập một Ban quản

lý chợ hoạt động theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính

phủ về phát triển và quản lý chợ.

- Mô hình tổ chức:

+ BQL chợ trực tiếp quản lý một chợ lớn trung tâm.

+ Thành lập tổ quản lý chợ (trực thuộc BQL chợ) trực tiếp quản lý chợ

còn lại.

2. Đối với các chợ thuộc phường quản lý.

Bao gồm các chợ do phường xây dựng theo quy hoạch bằng vốn của

phường đầu tư hoặc huy động của các thành phần kinh tế, các hộ kinh doanh.

Có các hình thức sau:

2.1. Thành lập HTX kinh doanh, khai thác và quản lý chợ.

- Đối với những chợ được xây dựng do vốn của các thành phần kinh tế, cá

nhân đầu tư xây dựng, Nhà nước cấp quyền sử dụng đất. Nếu đủ điều kiện thì

cho phép chuyển đổi thành lập HTX kinh doanh khai thác và quản lý chợ.

- Phương thức chuyển đổi: Thông qua vốn góp của các thành phần kinh tế,

cá nhân chuyển đổi thành vốn cổ phần tham gia HTX và kết nạp xã viên theo

hình thức huy động vốn nếu có nhu cầu. Nhà nước cho thuê quyền sử dụng ffất

và thu thuế sử dụng đất, thuế kinh doanh theo quy định của pháp luật.

- Đối với các chợ do UBND phường đầu tư: Thực hiện hình thức đấu thầu,

nhưng ưu tiên thành phần kinh tế HTX.

2.2. Thành lập công ty kinh doanh khai thác và quản lý chợ.

- Đối với các chợ do UBND phường đầu tư: Thực hiện hình thức đấu thầu,

thành lập công ty cổ phần hoặc công ty tư nhân.

Page 61: Qt059

- Đối với các chợ được xây dựng do vốn của các thành phần kinh tế, cá

nhân đầu tư xây dựng, Nhà nước cấp quyền sử dụng đất. Nếu đủ điều kiện thì

cho phép thành lập công ty cổ phần.

3. Đối với các chợ thành lập mới.

3.1. Đối với các chợ do UBND quận đề nghị và UBND thành phố cho phép

đầu tư xây mới, huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế để xây dựng.

Việc xây dựng phải đảm bảo đúng quy hoạch, theo thiết kế và theo tiến độ triển

khai thực hiện dự án được Thành phố phê duyệt.

3.2. Đối với các chợ thuộc Quận quản lý: thành lập công ty cổ phần hoặc

công ty tư nhân hoạt động theo Luật doanh nghiệp.

III. Một số biện pháp nhằm chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên đại bàn

quận Cầu Giấy trong giai đoạn hiện nay.

Để khắc phục những tồn tại trong mô hình tổ chức quản lý chợ hiện nay

trên điạn bàn Quận thì việc chuyển đổi mô hình BQL sang mô hình doanh

nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ là rất cần thiết. Thực hiện Nghịe

định số 02/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/01/2003 về phát triển và quản

lý chợ; quyết định số 63/QĐ-UB ngày 29/04/2005 và Đề án số 1718/UB-SNV

ngày 04/05/2005 của UBND thành phố Hà Nội, UBND quận Cầu Giấy đã xây

dựng đề án chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy.

tuy nhiên, để thực hiện việc chuyển đổi này cần có sự phối hợp của nhiều cơ

quan chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực khác nhau nên rất phức tạp và

thận trọng từng bước một. Cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

1. Nhà nước cần ban hành những cơ chế chính sách ưu đãi để huy động các

thành phần kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng và kinh doanh chợ.

1.1. Về đầu tư:

- Hoạt động kinh doanh chợ phải được hưởng một ưu đãi nhất định, ngoài

những ưu đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước (đã sửa

đổi), tức là các tổ chức, cá nhân đầu tư, xây dựng chợ thì Nhà nước, địa phương

nên hỗ trợ bằng nhiều hình thức như: hỗ trợ về đất đai, các thủ tục sẽ được làm

Page 62: Qt059

thuận tiện, nhanh chóng, khuyến khích các ngân hàng cho họ vay vốn, cho vay

vố ưu đãi từ các nguồn giải ngân, viện trợ…

- Hiện tại, dành một tỷ lệ thích đáng từ các nguồn thu ở chợ (ngoài thuế) để

thực hiện tái đầu tư, trước hết là sửa chữa, nâng cấp đối với các chợ đã hư hỏng

nghiêm trọng, các chợ không đảm bảo hoạt động kinh doanh.

1.2. Về tài chính, tín dụng:

- Việc đầu tư kinh doanh khai thác chợ không đơn thuần là vấn đề kinh tế

mà còn là vấn đề xã hội, liên quan tới an ninh trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh

thực phẩm, vệ sinh môi trường và an toàn PCCC. Do đó, để khuyến khích các

doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư xây dựng chợ, Nhà nước cần có những chính sách

hỗ trợ lãi suất hoặc áp dụng chính sách cho vay kích cầu đối với các dự án đầu

tư xây dựng chợ mới.

- Kinh doanh khai thác chợ cũng như kinh doanh bất kỳ một loại hình nào,

các tổ chức, cá nhân cũng đều phải có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.

Thuy nhiên, đói với các hoạt động kinh doanh chợ Nhà nước nên có những áp

dụng ưu đãi riêng như quy định mứa thuế thấp hơn so với các loại hình kinh

doanh khác hoặc miễn thuế cho doanh nghiệp trong một vài năm đầu hoạt động.

- Giao quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị tự cân đối, tự hạch toán

thu, chi, tự chịu trách nhiệm về tài chính, gắn kết quả hoạt động và quản lý theo

pháp luật. Khi đó doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ sẽ tự tìm ra

phương án kinh doanh tốt nhất để vừa thu được lợi nhuận tối đa vừa duy trì

được hoạt động kinh doanh của chợ, bởi vì vẫn có các kênh lưu thông káhc cạnh

tranh với chợ như các cửa hàng bán lẻ, siêu thị. Đồng thời, ngay cả các chợ trên

cùng một địa bàn cũng sẽ cạnh trnah với nhau.

- Tăng cường quản lý thu thuế đối với các hộ kinh doanh ngoài chợ đảm

bảo chống thất thu và công bằng giữa các hộ kinh doanh trong và ngoài chợ.

Việc thu thuế không chặt chẽ đối với các hộ kinh doanh ngoìa chợ làm cho giá

của cùng một mặt hàng trong chợ sẽ cao hơn ngoài chợ, do đó hoạt động kinh

Page 63: Qt059

doanh chợ sẽ không hiệu quả. Những bất lợi trước mắt này sẽ không khuyến

khích các tổ chức, cá nhân tiến hành đầu tư, xây dựng chợ.

2. UBND thành phố Hà Nội cần nhanh chóng ban hành quy chế đầu thầu

kinh doanh khai thác và quản lý chợ trên địa bàn toàn thành phố Hà Nội.

Việc chuyển đổi mô hình tổ chức BQL chợ sang mô hình tổ chức doanh

nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải được thực hiện thông qua hình

thức giao hoặc tổ chức đấu thầu để chọn ra doanh nghiệp có năng lực nhất. Tuy

nhiên, hiện nay thành phố Hà Nội vẫn chưa có văn bản nào quy định về quy chế

đấu thầu chợ. Đã có một số chợ trên địa bàn chuyển sang mô hình các HTX

quản lý nhưng không phải thông qua đấu thầu mà do chính cơ quan quản lý có

thẩm quyển theo phân cấp quản lý giao cho HTX đó quản lý. Mục đích chủ yếu

ở đây là nhằm thí điểm để tổng kết rút kinh nghiệm. Vì vậy, để cho các quận,

huyện nhanh chóng triển khai việc chuyển đổi mô hình này Nhà nước cần nhanh

chóng ban hành quy chế đấu thầu chợ, trong đó sẽ có những quy định đối tượng

nào có thể tham gia dự thầu, phương thức đấu thầu ra sao, quy tình thủ tục đấu

thầu như thế nào… Việc ban hành quy chế đấu thầu sẽ tạo một khung pháp lý

cho các đối tưọng tham gia đấu thầu chợ. Chẳng hạn hiện nay trong thành phố

Hồ Chí Minh đã ban hành quy chế đấu thầu và quy định rõ cá nhân và các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được tham gia dự thầu.

3. Trong thời gian trước mắt, cần tiếp tục cải tổ lại bộ máy BQL chợ, bồi

dưỡng nâng cao nghiệp vụ quản lý chợ cho các cán bộ công nhân viên trong

BQL.

Để khắc phục tình trạng đa số cán bộ quản lý chợ trong biên chế Nhà nước

được điều động từ các ngành khác, không có nghiệp vụ chuyên ngành, chủ yếu

là quản lý theo kinh nghiệm. Mặt khác, chúng ta cũng đang thiếu những cán bộ

quản lý có trình độ, nhiều chợ vẫn còn có quá ít cán bộ. Do vậy, cần mở các lớp

đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về công tác quản lý chợ cho số cán bộ hiện có và

đào tạo thêm những cán bộ chuyên ngành về công tác quản lý chợ lâu dài cho

các địa phương, có thể phối hợp với các trường thuộc Bộ Thương mại tổ chức

Page 64: Qt059

các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức,

nhân viên quản lý chợ.

Ngoài ra các cán bộ quản lý cấp cao như cấp tỉnh, thành phố, cán bộ các

Sở, Bộ, Nhành liên quan cần thiết có thêm những lớp bồi dưỡng nâng cao trình

độ, những chuyến tập huấn, phải đi thực tế ở các chợ tiêu biểu, như thế mới đảm

bảo sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tế, mới giúp cho họ ban hành những chính

sách một cách chính xác, sát thực và hiệu quả.

Nghĩa vụ bao giờ cũng phải gắn liền với các lợi ích, vì vậy cần thiết phải có

các chính sách đãi ngộ, chính sách lao động hợp lý đối với đội ngũ cán bộ quản

lý chợ. Chúng ta cũng cần thiết có những chính sách thi đua khen thưởng làm

động lực cho các cơ quan đơn vị phấn đấu. Có như thế, lực lượng cán bộ chợ

mới an tâm cống hiến, nhiệt tình để hoàn thành công việc.

4. Chính quyền địa phương các cấp càn phối hợp chặt chẽ với các cơ quan

chức năng để kiên quyết giải toả các tụ điểm chợ tạm, chợ xanh, chợ cóc lấn

chiếm lòng lề đường hoặc xung quanh các chợ chính thức. Việc thu thuế của

những hộ kinh doanh ở các tụ điểm này là rất khó khăn. Vì thế đây được coi là

một đối thủ cạnh tranh với các chợ chính thức. Để nhanh chóng chuyển đổi mô

hình tổ chức quản lý chợ, thu hút các thành phân kinh tế tham gia đầu tư xây

dựng chợ thì việc giải toả các tụ điểm chợ tự phát này là việc làm cấp thiết hiện

nay. Để giải toả các chợ tự phát cần thực hiện các biện pháp sau:

- Thực hiện đồng bộ trên toàn địa bàn Quận và thường xuyên, liên tục về

việc giải toả các chợ tự phát nhằm tránh tình trạng giải toả chỗ này thì các hộ

kinh doanh lại chuyển sang chỗ khác.

- Ngăn chặn kịp thời các tụ điểm các tụ điểm kinh doanh tự phát mới phát

sinh.

- Đối với các chợ tự phát ăn theo chợ chính thức, kiên quyết giải toả. Giải

toả các hộ kinh doanh lưu động, các hộ kinh doanh lấn chiếm lòng, lề đường.

- Đối với các chợ tự phát hình thành từ những nơi có nhu cầu về chợ (các

khu dân cư tập trung, các khu đô thị mới…) nhưng chưa có chợ chính thức, việc

Page 65: Qt059

giải toả các chợ tự phát phải đồng thời với việc xây dựng chợ mói nhằm đảm

bảo nhu cầu sinh hoạt của dân cư. Trong quá trình chờ xây dựng xhợ mới, cần

duy trì các chợ tự phát trong một thời gian nhất định nhưng tổ chức sắp xếp lại,

tăng cường công tác quản lý không cho chợ phát sinh thêm.

- Áp dụng cơ chế quản lý thông qua đăng ký kinh doanh cà các quy định

hiện hành để giải toả các chợ tự phát. Các hộ kinh doanh phải có giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh, nếu không có thì cơ quan chức năng sẽ xử lý theo quy

định hiện hành.

- Thực hiện nghiêm túc những quy định về an ninh trật tự, vệ sinh môi

trường, an toàn phòng cháy, chữa cháy để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh

của các hộ tiểu thương. Những hộ nào không đảm bảo nhữn quy định sẽ bị xử

lý. Xử lý các vi phạm của người mua hàng nếu như dừng xe mua hàng ở lề

đường gây cản trở giao thông.

- Thực hiện công tác tuyên truyền, vận động các hộ kinh doanh tự phát

trong việc giải toả các chợ tự phát. Chính quyền địa phương phối hợp với các cơ

quan, đoàn thể, nhất là chi bộ Đảng, Đoàn thanh niên và những người có uy tín

trong khu vực để tuyên truyền, vận động các hộ chấm dứt mua bán lấn chiếm

lòng, lề đường.

5. Việc chuyển đổi mô hình tổ chức BQL chợ thành lập Công ty cổ phần,

HTX hoặc Công ty tư nhân kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải được tiến

hành khẩn trương nhưng thận trọng nhưng thận trong, từng bước vững chắc,

phải tổ chức thí điểm, rút kinh nghiệm rồi mới nhân rộng ra. Trong qua trình tổ

chức thực hiện phải xác định rõ trách nhiệm của các phòng, ban chức năng.

5.1. Phòng Kinh tế - Kế hoạch:

- Tham mưu trình UBND Quận xây dựng đề án, kế hoạch chuyển đổi mô

hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn, báo cáo Sở Thương mại, Sở Nội vụ, Sở

tài chính thẩm định trình UBND thành phố phê duyệt.

- Theo dõi, tổng hợp báo cáo UBND quận, UBND thành phố tiến độ, kết

quả thực hiện kế hoạch.

Page 66: Qt059

5.2. Phòng Tổ chức chính quyền:

- Lựa chọn chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ.

- Hướng dẫn tổ chức bộ máy, biên chế, chế độ chính sách đối với cán bộ,

công nhân viên làm việc tại các BQL chợ, công ty cổ phần, HTX.

5.3. Phòng tài chính:

- Hướng dẫn nôi dung, trình tự thực hiện cổ phần hóa chợ và định giá

quyền sử dụng đất, tài sản của Nhà nước tham gia cổ phần hoá, bảo toàn và phát

triển vốn Nhà nước tham gia cổ phần hoá.

- Hướng dẫn huyển giao vốn Nhà nước cho doanh nghiệp, tham gia công ty

cổ phần hoặc hướng dẫn việc cử cán bộ Nhà nước tham gia hội đồng quản trị tại

công ty cổ phần (nếu chuyển gia vốn Nhà nước cho UBND quận tham gia cổ

phần) để quản lý phần vốn của Nhà nước và cổ tức hàng năm.

- Hướng dẫn hình thức quản lý vốn của Nhà nước tại công ty cổ phần và

phân phối lợi tức của Nhà nước.

- Hướng dẫn chế độ tài chính thu - chi - vốn góp của doanh nghiệp Nhà

nước tham gia cổ phần hcợ và chế độ đặc thù của các hộ hiện đang kinh doanh

tại chợ thực hiện chuyển đổi mô hình.

- Hướng dẫn việc thu - chi - nộp ngân sách đối với BQL chợ theo quy định

(đối với những nơi còn tồn tại BQL).

5.4. Phòng Tài nguyên môi trường: Hướng dẫn thủ tục thuê đất đối với các

thành phần kinh tế tham gia quản lý chợ.

5.5. Phòng Văn hoá thông tin: Phối hợp với UBND các phường tổ chức

tuyên truyền chủ trương của Thành phố đến nhân dân về chủ trương xã hội hoá

công tác kinh doanh khai thác và quản lý chợ.

5.6. UBND các phường:

- Phổ biến tuyên truyền chủ trương của Thành phố đến nhân dân địa

phương về chủ trương xã hội hoá công tác kinh doanh khai thác và quản lý chợ;

vận động các thành phần kinh tế tham gia.

Page 67: Qt059

- Xây dựng đề án chuyển đổi mô hình quản lý chợ do phường quản lý báo

cáo UBND quận quyết định.

6. Quy định rõ mối quan hệ và phân cấp quản lý chợ:

6.1. Về mối quan hệ:

- Quan hệ giữa UBND quận với các tổ chức kinh doanh khai thác và quản

lý chợ trên địa bàn là quan hệ giữa Nhà nước (thực hiện chức năng quản lý Nhà

nước về lĩnh vực chợ) với đơn vị kinh tế (tổ chức kinh doanh khai thác và quản

lý chơ). Các bên đều có nghĩa vụ thực hiện theo pháp luật và bình đẳng trước

pháp luật.

- Tổ chức kinh doanh khai thác và có quản lý chợ theo chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn được cơ quan có thẩm quyền quy định, chịu sự quản lý Nhà nước

của chính quyền địa phương và thực hiện các quy định của Nhà nước.

- Tất cả các chợ hoạt động trên địa bàn chịu sự hướng dẫn về nghiệp vụ

trong lĩnh vực kinh doanh thương mại của Sở Thương mại và các Sở, Ngành

Thành phố theo quy định của pháp luật.

6.2. Về phân cấp quản lý:

- Quận quản lý các chợ loại 1, loại 2 và chợ đầu mối trên địa bàn quận.

- Phường quản lý chợ loại 3 trên địa bàn phường.

Kết luận và kiến nghị

Chợ là một loại hình thương mại có từ rất lâu đời của nước ta, nó đang nắm

thị phần chủ yếu trong kênh phân phối hàng hoá của toàn xã hội, nó vẫn là nơi

giao lưu buôn bán duy nhất của một số địa phương trong nước ta. Trên đại bàn

Page 68: Qt059

quận Cầu Giấy hiện nay hàng hoá đên với người tiêu dùng thông qua hệ thống

chợ vẫn chiếm tới 50%, còn lại là qua các kênh phân phối khác. Do đó, cần phải

phát triển mạng lưới chợ ở nước ta nói chung và trên địa bàn quận Cầu Giấy nói

riêng là một việc làm rất cần thiết, tiến tới từng bước xã hội hoá trong hoạt động

chợ.

Để thực hiện được mục tiêu đó việc chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý

chợ rất quan trọng, tạo tiền đề cho các thành phần kinh tế tham gia vào đầu tư,

xây dựng, kinh doanh và quản lý chợ. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá

vội vàng trong khi triển khai thực hiện, mà phải làm một cách tuần tự, phù hợp,

thí điểm một số, tổng kết rút kinh nghiệm sau đó nhân rộng triển khai trên toàn

Quận. Tuỳ thuộc vào đặc điểm, tính chất và quy mô của mỗi loại chợ mà lựa

chọn một mô hình tổ chức quản lý thích hợp, chứ không nên chỉ rập khuôn một

cách máy móc. Nếu không chúng ta sẽ không tránh khỏi những thất bại.

Căn cứ vào tình hình thực tế về phát triển mạng lưới chợ ở quận Cầu Giấy

hiện nay, em xin có một số kiến nghị sau:

1. Kiến nghị với Nhà nước.

Một là, việc đầu tư, xây dựng, kinh doanh, khai thác chợ không đơn thuần

là vấn đề kinh tế mà nó còn mang tính chất xã hội, nó còn rất mới mẻ ở nước

ta.Do đó, Nhà nước nên có những chính sách ưu đãi cho các tổ chức, cá nhân

kinh doanh chợ như:

- Nhà nước cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư, xây

dựng chợ.

- Áp dụng mức thuế Thu nhập doanh nghiệp thấp hơn so với mức hiện hành

áp dụng cho các loại hình kinh doanh khác hay miễn thuế trong một thời gian

nhất định cho doanh nghiệp khi mới bắt đầu kinh doanh chợ

Hai là, Nhà nước cần có những chính sách đãi ngộ, chế độ lương đối với

cán bộ quản lý chợ như chính sách lương, chính sách thi đua khen thưởng… để

tạo động lực đối với cán bộ quản lý chợ bởi vì mức lương hiện nay của cán bộ

quản lý chợ là quá thấp, đồng thời không có chế độ đãi ngộ nào.

Page 69: Qt059

2. Kiến nghị trên địa bàn Quận

Kiến nghị này đưa ra nhằm điều chỉnh các hoạt động xảy ra trực tiếp hàng

ngày của các chợ. Từ những hạn chế trong quá trình hoạt động của các chợ hiện

nay, các chợ không thể ngồi đợi hướng giải quyết từ cấp trên ban hành, như thế

thì quá lâu, thiếu chủ động và có thể có những hạn chế nhất định, không phù hợp

với tình hình thực tế của mỗi loại chợ khác nhau:

- Mỗi chợ nên thành lập một tổ kiểm tra các hoạt động cũng như vi phạm

của các hộ kinh doanh, cho phép tổ kiểm tra này có quyền xử phạt hành chính,

tạm dừng hoạt động kinh doanh của các sạp hàng vi phạm (ví dụ, vi phạm về

phòng cháy chữa cháy, vi phạm về hành vi thương mai…).

- Mỗi chợ cần thiết phải có một dịch vụ cân đo, kiểm tra chất lượng..., và

trực tiếp ở mỗi địa điểm này, phải có một cán bộ quản lý chợ đứng ra để thực

hiện các công việc này nếu khách hàng có yêu cầu. Dựa trên kết quả thực tế, nếu

có phát hiện sai sót đáng kể của ngưòi bán hàng, họ có thể ngay lập tức yêu cầu

người mua đưa đến chỗ người bán vi phạm, người quản lý sẽ lập tức lập biên

bản, xử lý ngay hành vi gian lận bằng những hình thức theo Nội quy, quy định

của chợ. Công việc này tạo nên sự liên tưởng của khách hàng khi đến với chợ,

tạo ra người bán sự tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành nội quy thương mại tại

chợ.