133
HOG T NGHE I AND TECHNOLOGY ET. MTIIIGINE Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tap 77 - So 1 nam 2011

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tap 77 - So 1 nam 2011

HOGT

NGHEI

AND TECHNOLOGY

ET. MTIIIGINE

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 2: Tap 77 - So 1 nam 2011

a0 ctno DUC vA DAo rAoDAI HQC THAI NGUYEN

T+p ehi KHOA HQC vn C6NG NGHEJournal of Science and Technology

- tdng bi6n tAp:- Ph6 tdng bi6n tAp Thrrdng tn/c:- Ph6 Tdng bi6n tAp:- Trtt'&ng Ban bi6n tAp:- Thtr ky Tda soan:

GS.TS. ru QUANG HrdNPGS.TS. CHU HOANG MAUPGS.TS. TRAN THI VIOT TRUNG

az(

THS. Ltr TIEN DUNGTHS. DOAN OTJC UAT

TOA SOAN: Dai hoc Thr4i NguyOn, phudng TAn Thinh, thdnh phd Th6i NguyOn'

Tel. 02 8 0. 3 8 402 8 8. Fax. 0280. 3852665 * E-mail: tapchikhcn.dhtn@ gmail'com'

Gia,y ph6p Hoat dQng biio chi s6 1ZI)1GP-BTTTT, ngiry 261812010 cira BQ truong BQ Thong tin - Truyd-n^th0ng'

rn ioir .udn, iap zzior)nqdm 20rr taiNhh in eao ihat Nguyen. In xong vh nop luu chidu thi4ng 0V20ll.Bin dien tir tham khio iai rrang Web cira Trung ram Hoc 1i0u Dai hoc Th6i Nguyon: http://www'lrc-tnu-edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 3: Tap 77 - So 1 nam 2011

THE LE GTII BAITap chi Khoa hgc vd C6ng nghQ Dai hoc Th6i Nguy6n thucrng xuyOn nhAn ddng

nhirng Ual Uao cua cdn bQ gidng d4y. can.bQ.nghien 9YY ud.6: illkhoa hQc'..trong vir

ngouiDui hoo Th6i Nguy6n nhdm cdng bd k€t qua nghidn ctlu, bhi t6ng quan hodc nhirng

thbng tin trao C6i ttruqc mgi linh vuc khoa hoc c6ng nghQ. Sau ddy ld the 1€ gui bdi cho Toa

soan:1. T4p chi chi nhAn ddng nhirng bai b6o khoa hoc chua c6ng bd tr6n c6c b5o. t4p chi

khoa hgc trong nr.rcrc vd qudc t6.

2. Bai b6o khoa h'c co thti v_i€t bing titing ViQt ho4c ti6ng Anh. . .. i .,3. Khi n6p cho roa so4n. m5i Uai b6o can duoc in thdnh hai b6n tr€n giAy A+. kem theo

dia CD.4. CAu trirc bai b6o.

4.1. TOn bai b6o.

4.2. Ho tOn tac gid hoqc nhom ttrc gia, co quan cdng t6c.

4.3. M5i bdi bA; khdng ddi qu6 5 trang (khoang 3.000 tu). Trong bdi b6o, o nhirng nQi

dung tac gi6 da lham khdo hoAc su dpng_k*i*, n.elri€n .P lit,::. tdi liCu khoa hoc kh6c, cAn

danh dAl tang sd (dat trong m6c r.u6ng tl) - ld sd thu tg cua tdi liQu x€p trong danh mgc tdi liOu

tham khao4.4. Torn tirt n6i dung bdi b6o: tOi tneu i50 tir bang ti6ng Vi€t va duoc dich sang tiOng

Anh (k€ ca ri€u AC Uai b6o;,,dtroi muc tom t6t ti6ng Vi€t co "Tir khoa"; duoi tom tdt ti6ng

Anh co "'Key words" (t6i thi6u 05 tu hodc cum tu).4.5. TAi li6u tham kh6o:- TLTK sip x€p theo vAn A,B,C, tdi liQu titlng nu6c ngodi kh6ng phiOn 6m, kh6ng

dich.- DOi vcyi tdc gia la ngudi Viqt Nam x6p theo thir tg A, B, C theo ftn (kh6ng dAo t6n

len trtroc ho).- Ddi voi tac gia la ngtrdi nu6c ngodi x6p theo lhu tg A, B, C theo hp. ,,- D6i vcri nhirng tai liOu khdng co t6n tac giit xOp thu tU A, B, C cua tir dau ti6n lOn c<v

quan ban hanh tdi liQu (vi duiB0 Gi6o dgc vd Ddo t4o x6p vAn B)'TLTK la s6ch. lufln 6:n cAn ghi ddy du cdc thong tin theo thu tu: t€n t6c gia hodc co quan ban

lrdnh. Nam xuAt ban). ftn sdch,Nhd xudt bdn. noi xudt ban.

TLTK ld bdi bao hoflc bai trong mQt cudn s6ch... cAn ghi dAy du c6c th6ng.tin.theo thfr

tu: T6n tac gia. (NAm cdng b6), "TOn biri b6o", TAn Mp chi hoQc sdch, Tdp, (56), c6c s6

trang (gach ngang giira2 chir s6).

5.Hinh thfrc trinh bay:- Ngoai.phAl tieu d6, t6c gia va tom tit bdi b6.o (dAu tr4ngl) vd Summary (cu6i bdi).

bdi b6o yeu .A,, phai trinh bdy tr6n kh6 ,A4 theo chidu doc. dugc chia 02 c6t v6i c6c th6ng

s6 Pagesetup cu th6 nhu sau:Top:3.1cm, Bottom: 3.1cm, Left: 3.0cm. Right: 2.8cm,

Header: 2.85cm, Footer: 2.85cm, With:7.25cm, Spacing:0.8cm. TOn bai b6o cO 12' chir in

d6m: 10i dung bai b6o cd I 1; Font chir Unicode; hinh v6, dd thi trinh bdy phu hqp voi dQ

ron-s cdt (7 .25 cn-r); c6c bdng bi€u qu6 l6n trinh bay tlreo trang ngang (Landscape)'

- D6i vcyi c6c bai b6o i.O frle" bdng cdc phAn mdm chuy6n dpng nhu Latex, ACD/Chem

Sketch hodc Science Helper for Word cfrng trinh bdy theo khudn dang n6u trOn.

6. Ndu bdi b6o kh6ng ducyc su dung. Ban biOn tap kh6ng tra l4i bAn th6o.

7. Titc gia hoac tac giachfnh trong nhom t6c giA cAn gni Aia chi, s6 di6n tho4i vdo cu6i

A^

BAN BIEN TAP

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 4: Tap 77 - So 1 nam 2011

oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ

CHUYÊN SAN NÔNG - SINH - Y

Môc lôc Trang

NGÔ XUÂN HOÀNG, VŨ THỊ QUÝ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nông thôn ở nước ta

trong giai đoạn hiện nay 3

NGUYỄN THẾ HÙNG, NGUYỄN VIẾT HƯNG, THÁI THỊ NGỌC TRÂM - Ảnh hưởng của các tổ hợp

phân bón đến sinh trưởng, phát triển của giống lạc L23 vụ xuân 2010 trên diện tích đất một vụ tại huyện Hữu

Lũng - tỉnh Lạng Sơn

15

NGUYỄN VIẾT HƯNG, NGUYỄN THẾ HÙNG, NGUYỄN THẾ HUẤN - Nghiên cứu ảnh hưởng của

hình thức nhân giống đến khả năng sinh trưởng, phát triển và hệ số nhân giống của cây khoai môn tại Bắc Kạn

19

TRẦN TRUNG KIÊN, BÙI VĂN QUANG - Ảnh hưởng của liều lượng lân đến sinh trưởng, phát triển và

năng suất của giống ngô chất lượng protein cao (QPM) - QP4 và ngô thường - LVN10 tại Thái Nguyên

23

ĐẶNG VĂN MINH, NGUYỄN VĂN TÂM, LÊ THỊ THU - Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón hữu cơ vi

sinh sản xuất tại chỗ đến sinh trưởng, phát triển của giống lúa CTA 88 tại tỉnh Lào Cai

29

NGUYỄN VIẾT HƯNG - Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất giống lạc L23 vụ xuân 2010 trên đất

một vụ tại Hữu Lũng - Lạng Sơn

35

ĐẶNG VĂN MINH, ĐÀO VĂN NÚI - Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của cây phân xanh họ đậu trên đất

sau khai thác khoáng sản tại tỉnh Thái Nguyên

39

NGUYỄN HỮU GIANG - Thực trạng quản lý và sự tham gia của cộng đồng địa phương trong công tác

quản lý bảo vệ rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn

43

ĐẶNG VĂN MINH, ĐẶNG KIM VUI, NGUYỄN CHÍ HIỂU - Nghiên cứu kiến thức bản địa về cây rau

bò khai Erythropalum scandens BL tại vùng núi phía Bắc Việt Nam

49

NGUYỄN HƯNG QUANG, EBRAHIMI R - Nghiên cứu ảnh hưởng của các dạng thức ăn đến khả

năng sản xuất của gà thịt

55

NGUYỄN THỊ THUÝ MỴ, TRẦN THANH VÂN, NGUYỄN TIẾN ĐẠT - Nghiên cứu ảnh hưởng của

giống, mật độ bãi thả đến khả năng sản xuất thịt của gà bán nuôi nhốt ở nông hộ

59

TRẦN THỊ HOAN, TỪ TRUNG KIÊN - Nghiên cứu ảnh hưởng của khoảng cách trồng sắn lấy lá

đến sản lượng lá sắn và giá thành của bột lá sắn

65

TRƯƠNG HỮU DŨNG, NGUYỄN THỊ HẠNH - Ảnh hưởng của thời gian cai sữa đến sinh trưởng của lợn

con và khả năng sinh sản của lợn nái tại Việt Yên, Bắc Giang

69

CHU HOÀNG MẬU, NGUYỄN VŨ THANH THANH, PHẠM THỊ THANH NHÀN - Đặc tính chịu

hạn của một số giống ngô địa phương

(zea mays l.) ở miền núi phía bắc việt nam

77

NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG, NGUYỄN PHÚ HÙNG, HOÀNG THỊ THU YẾN - Nghiên cứu quan hệ

di truyền tôm sú (peneaus monodon) bằng kỹ thuật RAPD

83

NGUYỄN VĂN HOÀN, LÊ NGỌC CÔNG, BÙI THỊ DẬU, NGUYỄN THỊ THU HÀ, ĐINH THỊ

PHƯỢNG - Đặc điểm một số kiểu thảm thực vật phục hồi tự nhiên ở tỉnh Bắc Giang

89

ĐÀM VIỆT BẮC, ĐÀM XUÂN VẬN - Biến động sử dụng đất lâm nghiệp tại xã Ngọc Phái, huyện Chợ

Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam (1990-2005)

97

ĐỖ THỊ NGỌC OANH - Hệ thống trang trại của người nghèo tại khu vực miền núi tỉnh Quảng Nam và các

giải pháp

103

ĐÀM VIỆT BẮC, ĐÀM XUÂN VẬN - Các nhân tố ảnh hưởng đến biến động sử dụng đất tại xã Ngọc Phái,

huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam (1990-2005)

107

NGUYỄN KIM LƯƠNG - Đánh giá hiệu quả điều trị của Simvastatin ở bệnh nhân đái tháo đường TYP2 có

kháng insulin

123

Journal of Science and Technology 77 (01)

N¨m 2011

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 5: Tap 77 - So 1 nam 2011

oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ

AGRICULTURE – BIOLOGY – MEDICINE

Content Page

NGO XUAN HOANG, VU THI QUY - Discussion of some problems of practice and development rural in our country in the current period

3

NGUYEN THE HUNG, NGUYEN VIET HUNG, THAI THI NGOC TRAM - The influence of

combinations of fertilizers on the yield of l23 peanut variety on one-crop land, Huulung district, Langson

province, spring 2010

15

NGUYEN VIET HUNG, NGUYEN THE HUNG, NGUYEN THE HUAN - Effect of propagation methods

on growth, development and propagation regeneration capacity of taro in Backan province

19

Tran Trung Kien, Bui Van Quang - The effect of phosphorus dosages on the growth, development and grain

yeild of quality protein maize variety (QPM) - QP4 and normal maize variety - LVN10 in Thai Nguyen

23

DANG VAN MINH, NGUYEN VAN TAM, LE THI THU - Study the offects of organic fertilizers

processed in local area on the growth and development of the rice variety cta88 in Laocai province

29

NGUYEN VIET HUNG - The influence of peanut density on the yield of l23 variety on one-crop land, Huulung district, Langson province, spring 2010

35

DANG VAN MINH, DAO VAN NUI - Study growth of wild legumes in the degraded soil after mining in Thainguyen province

39

NGUYEN HUU GIANG - The current situation of forest management and the participatory of local community in forest protection at huu lien special-use forest, Huulung district, Langson

43

DANG VAN MINH, DANG KIM VUI, NGUYEN CHI HIEU - Indigenous study about native plant species erythropalum scandens bl (Bo khai) in The Northern mountainous region of Vietnam

49

QUANG N. H. AND EBRAHIMI R - Study on different feed form on the performance of broilers chicken 55

NGUYEN THI THUY MY, TRAN THANH VAN, NGUYEN TIEN DAT - Effect of breeds, garden densities to performance of chicken raising semi intensive system at house hold

59

TRAN THI HOAN, TU TRUNG KIEN - Study on effect of crop density on cassava leaf yield and cost of leaf powder

65

TRUONG HUU DUNG, NGUYEN THI HANH - The influence of weaning time on the growth of piglets and reproductive performance of sows in Vietyen district, Bacgiang province

69

CHU HOANG MAU, NGUYEN VU THANH THANH, PHAM THI THANH NHAN - The drought tolerant characteristics of some upland local maize cultivars (zea mays l.) in the North of Vietnam

77

NGUYEN THI THU PHUONG, NGUYEN PHU HUNG, HOANG THI THU YEN - Study genetics diversity of shrimp (penaeus monodon) by rapd technique

83

NGUYEN VAN HOAN, LE NGOC CONG, BUI THI DAU, NGUYEN THI THU HA, DINH THI PHUONG - Characteristics of some natural forest rehabilitation in Bacgiang province

89

DAM VIET BAC, DAM XUAN VAN - Forest land-use change in ngoc phai commune, Chodon district, Backan province, Vietnam (1990-2005)

97

DO THI NGOC OANH - Farming systems of the poor in mountainous areas of Quangnam province and possible solutions

103

DAM VIET BAC, DAM XUAN VAN - Driving forces of land-use change in Ngocphai commune,

Chodon district, Backan province, Vietnam (1990-2005)

107

NGUYEN KIM LUONG - Evaluation of the effectiveness of treatment in patients simvastatin typ2 diabetes

insulin resistance

123

Journal of Science and Technology

77 (01)

N¨m 2011

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 6: Tap 77 - So 1 nam 2011

Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13

3

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Ở NUỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Ngô Xuân Hoàng1*

,Vũ Thị Quý2

1Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật – ĐH Thái Nguyên; 2Trường Đại học Nông lâm - ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ chiến lƣợc đảm bảo thực hiện thành công

đƣờng lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu nỗ

lực to lớn của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị và sự tham gia của cả xã hội.

Sau hơn 20 năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đã

chủ động khai thác và phát huy các lợi thế, tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động

và các điều kiện thuận lợi khác để đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp sinh thái, xây dựng nông

thôn mới theo hƣớng bền vững với nhiều vùng chuyên canh, sản xuất ra nhiều nông sản hàng hoá

xuất khẩu có giá trị kinh tế cao nhƣ: gạo, cao su, cà phê, hạt điều, tiêu, chè, lâm sản, thuỷ sản... Cơ

cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nƣớc ta từng bƣớc chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hoá,

đời sống ngƣời dân ngày càng đƣợc cải thiện, bộ mặt nông thôn thay đổi đáng kể.

Với quyết tâm cao, với thế và lực mới của đất nƣớc, nhất định Đảng và Nhà nƣớc ta sẽ lãnh đạo

nhân dân vƣợt qua khó khăn thử thách, hoàn thành các nhiệm vụ đề ra, đáp ứng mong đợi và củng

cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội XHCN.

Từ khóa: Vấn đề, lý luận và thực tiễn, phát triển, nông thôn, Việt Nam

NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ PHÁT

TRIỂN NÔNG THÔN

Nông nghiệp và nông thôn

Nông thôn là một khái niệm chỉ vùng (khu

vực) hành chính bên ngoài thành thị, đối lập

với nó là thành phố, thị xã; là khu vực lãnh

thổ rộng lớn ngoài thành phố. Không gian

nông thôn trong tiếng Anh là “Rural area”

(còn gọi country hay country site).

Trong không gian nông thôn bao gồm các

điểm dân cƣ sinh sống, cùng với các ngôi nhà,

cái sân, mảnh vƣờn, các diện tích công năng,

các cơ sở hạ tầng nhƣ đƣờng xá giao thông,

công viên, khuôn viên, quảng trƣờng, hệ

thống cung ứng điện nƣớc, hệ thống tiêu thoát

nƣớc thải, rác thải, các điểm phục vụ cho hoạt

động công ích (trƣờng học, trạm xá, câu lạc

bộ, sân thể thao,…), các điểm mang tính chất

tôn giáo (đền, chùa, miếu, nhà thờ, nghĩa

trang,…), các điểm phục vụ cho kinh tế – xã

hội (bƣu điện, nhà bảo tàng, triển lãm,

chợ,…), diện tích và khoảng không dành cho

nghỉ ngơi, giải trí và tĩnh dƣỡng cũng nhƣ các

diện tích đặc chủng khác.

Tel: 0912140868

Không gian nông thôn không đồng nghĩa với

việc sản xuất nông nghiệp mà rộng hơn. Nó

đảm nhận nhiều chức năng đối với xã hội. Đó

là những chức năng cơ bản nhất nhƣ: sản xuất

lương thực, thực phẩm cho đến cấp nước ngọt

tới các đô thị, cung cấp nông lâm, thuỷ hải

sản và nhiều tài nguyên khác, cho đến cung

ứng các khoảng không quí hiếm phục vụ cho

nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái. Cuối cùng thì

không gian nông thôn trong xu thế mới còn là

nơi thường trú của tiểu bộ phận cư dân đô thị

cùng chung sống với cư dân nông thôn. Theo

Riedel (1998) thì không gian nông thôn thực

hiện các chức năng sau: Chức năng định cư;

Chức năng sản xuất nông nghiệp; Chức năng

sinh thái; Chức năng nghỉ dưỡng; Chức năng

dịch vụ cho các ngành.

Phát triển nông thôn

Khái niệm về phát triển nông thôn rất rộng và

đa dạng, thay đổi theo từng giai đoạn phát

triển của nền kinh tế và tuỳ thuộc vào đặc

điểm kinh tế xã hội của từng quốc gia.

+ Khái niệm phát triển nông thôn gắn liền với

khái niệm phát triển nông nghiệp, mục tiêu

chính của phát triển nông thôn là phát triển

sản xuất nông nghiệp để qua đó tăng thu nhập

và cải thiện đời sống cho cƣ dân nông thôn.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 7: Tap 77 - So 1 nam 2011

Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13

4

Quan niệm này đã đƣa đến sự thành công của

cuộc “Cách mạng xanh” và rất lạc quan sau

khi giải quyết một bƣớc về vấn đề an ninh

lƣơng thực trong thập kỷ 60. Có thể nói, phát

triển nông thôn giai đoạn này đồng nghĩa với

hiện đại hoá sản xuất và đời sống cho cƣ dân

nông thôn.

+ Ngân hàng Thế giới định nghĩa: Phát triển

nông thôn là việc cải thiện mức sống của một

số đông ngƣời có mức thu nhập thấp đang

sinh sống ở vùng nông thôn nhằm tạo nên tiến

trình phát triển nông thôn một cách tự giác và

ổn định. Định nghĩa này là sự kế thừa chiến

lƣợc hoạt động cho vay vốn trên quy mô các

quốc gia, với sự đảm bảo đem lại nhiều lợi

ích kinh tế nhất cho các nƣớc này.

+ Đối với các nƣớc đang phát triển, quan

điểm phát triển nông thôn đa chức năng nhấn

mạnh vào khía cạnh phát triển vững bền, phát

triển tổng hợp cả kinh tế, xã hội, chính trị, văn

hóa, môi trƣờng… nông thôn. Theo định

nghĩa của Hội đồng thế giới về môi trƣờng và

phát triển (WCED) thì “phát triển bền vững

là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại

mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng

nhu cầu của các thế hệ tương lai. Nhìn chung,

ngƣời ta thống nhất về cơ bản 3 mục tiêu lớn

nhất đối với phát triển nông thôn, đó là:

(1) Đảm bảo sự tăng trƣởng về kinh tế, nâng

cao thu nhập cho dân cƣ nông thôn.

(2) Tăng phúc lợi xã hội, nâng cao dân trí và

đời sống tinh thần cho cộng đồng ngƣời dân

nông thôn.

(3) Duy trì sự đứng vững của nông thôn, bảo

vệ môi trƣờng, đặc biệt là trong những điều

kiện quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa

diễn ra nhanh.

Tuy nhiên, để đạt đƣợc các mục tiêu cơ bản

này, nội dung phát triển nông thôn có thể thay

đổi theo từng thời kỳ, giai đoạn phát triển ở

mỗi quốc gia. Trong những nƣớc nghèo hơn,

mục tiêu phát triển nông thôn nghiêng nhiều

về bảo đảm an ninh lƣơng thực và thúc đẩy

tăng trƣởng kinh tế, thiết lập cơ sở hạ tầng

ban đầu.Trong khi ở các nƣớc phát triển và

những nơi quá trình CNH diễn ra mạnh mẽ,

những cố gắng của Chính phủ tập trung nhiều

ở các nội dung hỗ trợ cho nông thôn đứng

vững, giảm thiểu ô nhiễm môi trƣờng và sự

phát triển bất bình đẳng giữa các vùng…

VAI TRÕ CỦA NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG

THÔN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Ở NƢỚC TA

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đóng vai

trò to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế –

xã hội, bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở nƣớc ta. Nông nghiệp đảm

bảo vững chắc an ninh lƣơng thực, cung cấp

nguyên liệu cho công nghiệp; xuất khẩu

nông sản đem lại nguồn ngoại tệ quan trọng

cho nền kinh tế; tạo việc làm và thu nhập

cho đa số ngƣời dân. Nông thôn là môi

trƣờng sống của đa số nhân dân, là địa bàn

hoạt động sản xuất nông nghiệp, nơi bảo tồn

và phát triển các truyền thống văn hoá dân

tộc. Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông

dân là nhiệm vụ chiến lƣợc, là cơ sở để đảm

bảo ổn định tình hình chính trị – xã hội, bảo

đảm sự phát triển hài hoà và bền vững theo

định hƣớng XHCN của nền kinh tế cả nƣớc

và của từng vùng lãnh thổ.

Sau hơn 20 năm chuyển đổi sang nền kinh tế

thị trƣờng, nông nghiệp và nông thôn Việt

Nam đã chủ động khai thác và phát huy các lợi

thế, tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, đất

đai, lao động và các điều kiện thuận lợi khác

để đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp sinh

thái, xây dựng nông thôn mới theo hƣớng bền

vững với nhiều vùng chuyên canh, sản xuất ra

nhiều nông sản hàng hoá xuất khẩu có giá trị

kinh tế cao nhƣ: gạo, cao su, cà phê, hạt điều,

tiêu, chè, lâm sản, thuỷ sản... Cơ cấu kinh tế

nông nghiệp, nông thôn nƣớc ta từng bƣớc

chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hoá, đời

sống ngƣời dân ngày càng đƣợc cải thiện, bộ

mặt nông thôn thay đổi đáng kể.

Đạt đƣợc những thành tựu đó là do có sự tập

trung lãnh đạo về mọi mặt của Đảng và Nhà

nƣớc ta trên mặt trận nông nghiệp và phát

triển nông thôn, có sự phối hợp chỉ đạo chặt

chẽ giữa các Bộ, Ban ngành Trung ƣơng với

các cấp chính quyền địa phƣơng, trong đó hệ

thống chính sách đầu tƣ và huy động vốn của

Nhà nƣớc giữ vai trò đặc biệt quan trọng góp

phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp này. Vốn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 8: Tap 77 - So 1 nam 2011

Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13

5

đầu tƣ của Nhà nƣớc, vốn của các tổ chức

trong và ngoài nƣớc, vốn của ngƣời dân đƣợc

huy động một cách tích cực vào công cuộc

xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đã góp phần

thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội

nông thôn, nâng cao hiệu quả sản xuất nông

nghiệp, xoá đói giảm nghèo… Hoạt động tài

chính và huy động vốn đầu tƣ vào lĩnh vực

nông nghiệp, phát triển nông thôn ngày càng

đƣợc xã hội hoá với nhiều thành phần kinh tế,

nhiều tổ chức xã hội cùng tham gia. Từ sự phát

triển của nông nghiệp bức tranh về xã hội nông

thôn đã có những gam màu tƣơi sáng.

Tuy nhiên cho đến nay, Việt Nam về cơ bản

vẫn là một nƣớc nông nghiệp, chƣa thoát khỏi

tình trạng nƣớc nghèo và kém phát triển,

73,7% dân số sống ở nông thôn với 13,26

triệu hộ, trong đó có 11 triệu hộ chuyên sản

xuất nông nghiệp và 67% lực lƣợng lao động

xã hội làm việc trong ngành nông nghiệp,

nông nghiệp vẫn còn chiếm tới trên 20% GDP

của cả nƣớc. Sức cạnh tranh của cả ngành,

của phần lớn các doanh nghiệp nông nghiệp

và của hàng hoá nông sản xuất khẩu của nƣớc

ta còn nhiều bất cập cả về số lƣợng, về chất

lƣợng, mẫu mã, chủng loại và giá cả, kinh

nghiệm và uy tín thƣơng mại trên thị trƣờng

thế giới. Tốc độ hội nhập kinh tế của Việt

Nam còn khá khiêm tốn. Xếp hạng năng lực

cạnh tranh của Việt Nam qua các năm rất

thấp: Năm 1997 xếp thứ 49/53 nƣớc so sánh,

năm 2000 xếp thứ 65/80, năm 2004 xếp thứ

77 trong số 102 nƣớc so sánh.

Hiện nay khi nƣớc ta đã trở thành thành viên

chính thức của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới

(WTO), sản xuất nông nghiệp và nông sản

hàng hoá của Việt Nam đang đứng trƣớc nhiều

cơ hội, đồng thời cũng đang đứng trƣớc những

khó khăn thách thức. Để đáp ứng nhu cầu của

thực tiễn thì việc xây dựng nông thôn mới là

vấn đề cấp bách. Xây dựng nông thôn mới là

một tiến trình cải biến tình hình nông thôn hiện

nay ngày càng phát triển vƣơn tới văn minh

thời đại. Tức là nâng cao đời sống ngƣời dân

không những chỉ tập trung vào việc tăng cƣờng

sản xuất nông, lâm, ngƣ nghiệp và phát triển

mạnh sản xuất phi nông nghiệp mà còn nâng

cao phúc lợi, cải thiện môi trƣờng sống cả về

chính trị – xã hội và môi trƣờng sinh thái.

MỘT SỐ THÀNH TỰU XÂY DỰNG

VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

NÔNG THÔN Ở NƢỚC TA

Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn

được tăng cường, nhất là thuỷ lợi, giao

thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản

xuất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn

Thuỷ lợi phát triển theo hƣớng đa mục tiêu

góp phần quan trọng phát triển sản xuất nông

nghiệp. Giai đoạn 2001-2005, năng lực tƣới

đã tăng thêm 575 ngàn ha, năng lực tiêu tăng

thêm 235 ngàn ha đƣa tổng diện tích lúa đƣợc

tƣới của cả nƣớc đạt khoảng 83%, cà phê

50%, rau màu 20%. Hệ thống quản lý, vận

hành hệ thống thuỷ lợi đƣợc củng cố và tăng

cƣờng năng lực. Vùng ven biển đã tăng cƣờng

xây dựng hệ thống các cống đập ngăn mặn,

giữ nƣớc ngọt, nhiều công trình đã đƣa vào sử

dụng và phát huy tác dụng. Bƣớc đầu thực

hiện các công trình thuỷ lợi ven biển phục vụ

nuôi trồng thuỷ sản, gắn ngọt hoá với việc

nuôi trồng thuỷ sản nƣớc mặn, nƣớc lợ và tận

dụng và khai thác thuỷ sản mùa lũ…

Giao thông và điện nông thôn: Nhờ đầu tƣ

ngân sách Nhà nƣớc kết hợp thực hiện

phƣơng châm “Nhà nƣớc và nhân dân cùng

làm” nên lĩnh vực này đã có bƣớc phát triển

khá nhanh về số lƣợng. Đến nay, trên phạm vi

cả nƣớc có: 96,9% số xã có đƣờng ô tô đến

khu trung tâm, trong đó 70% đƣợc nhựa hoá,

bê tông hoá. Đến nay, điện lƣới quốc gia đã

cấp điện cho 97,95% số huyện; 96,8% số xã,

phƣờng và 93,3% số hộ đƣợc sử dụng điện

lƣới quốc gia.

Nhà ở nông thôn: Đến nay, hầu hết các thôn,

bản trong cả nƣớc đều có nhà 2- 3 tầng, sử

dụng các thiết bị nội thất nhƣ đô thị; nhiều xã,

thôn ở nông thôn vùng Đồng bằng Bắc bộ,

vùng miền Trung đã cơ bản hoàn thành việc

“xóa” nhà tranh tre, nứa lá; vùng ĐBSCL cơ

bản hoàn thành việc “xóa” nhà đạp, nhà

chòi… Nhiều huyện, xã ở miền Bắc và miền

Trung đã cơ bản “ngói hoá” nhà ở. Riêng

vùng ĐBSCL, đến nay đã xây dựng 1.100

cụm, tuyến dân cƣ, đảm bảo bố trí cho

khoảng 200 ngàn hộ dân đang sống thƣờng

xuyên trong vùng ngập lũ và “sống chung với

lũ” khi có lũ lớn.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 9: Tap 77 - So 1 nam 2011

Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13

6

Trường học, trạm xã và chợ nông thôn: Giai

đoạn 2000-2006, đã xây dựng thêm 24.466

phòng học, đang triển khai xây dựng tiếp

14.233 phòng học. Do đó, đến năm 2006 có

hơn 40% số trƣờng học đƣợc kiên cố hoá;

99,3% số xã có trƣờng tiểu học, 90,8% số xã

có trƣờng trung học cơ sở, 10,8% số xã có

trƣờng trung học phổ thông; 88,3% số xã có

trƣờng mẫu giáo/mầm non, có 54,5% số thôn

có lớp mẫu giáo, 16,1% số thôn có nhà trẻ,

thu hút các cháu trong độ tuổi đƣợc đến lớp.

Đến nay cả nƣớc có 45% số xã đạt chuẩn

quốc gia về y tế xã. Có 9.013 xã có trạm y tế

(chiếm 99,3% tổng số xã, tăng 128 xã so với

năm 2001). Khu vực nông thôn có 3.964 trạm

y tế xã (chiếm 44%) đã đƣợc xây dựng kiên

cố hoá. Đến năm 2006, có 3348 xã, chiếm

36,9% có cơ sở khám, chữa bệnh tƣ nhân trên

địa bàn xã. Đến nay, hầu hết các huyện, cụm

xã và nhiều xã xây dựng đƣợc chợ. Riêng địa

bàn nông thôn có 6.940 chợ, trong đó 74,9%

số chợ đã đƣợc nâng cấp.

Thông tin liên lạc: hầu hết các xã trên cả

nƣớc đã đƣợc chuyển phát báo chí, trong đó

có 91% số xã đã có báo đến trong ngày. Tính

đến năm 2006 đã lắp đƣợc hơn 2.848 tổng đài

bƣu điện tại vùng nông thôn, 64/64 tỉnh thành

có mạng cáp quang; 100% xã có điện thoại cố

định, bình quân 6,67 máy/100 dân; có hơn

80.000 thuê bao Internet tại khu vực nông

thôn; 85,5% số xã có điểm bƣu điện văn hóa.

Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn:

Đến 2007 có 70% dân cƣ nông thôn có nƣớc

sinh hoạt hợp vệ sinh (trong đó khoảng 30%

ngƣời dân đƣợc dùng nƣớc đạt tiêu chuẩn 09

của Bộ Y tế); 12% số xã có hệ thống thoát

nƣớc thải chung; 28% xã có tổ chức thu gom

rác thải và 51% ngƣời dân nông thôn sử dụng

nhà tiêu hợp vệ sinh.

Văn hoá - thể thao: Cuối năm 2007, cả nƣớc

đã có 100% số huyện có Trung tâm văn hoá,

thể thao; 38,6% số xã có nhà văn hoá; 36% số

thôn (bản, ấp) có nhà văn hoá thôn và điểm

vui chơi thể thao; 6,8% số thôn có điểm vui

chơi của trẻ em. Có 28.272 câu lạc bộ văn hoá

thể thao các loại hình ở khu vực nông thôn.

Đời sống vật chất, tinh thần của người dân

ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng

được cải thiện; xoá đói giảm nghèo đạt

thành tựu to lớn.

Do sản xuất phát triển, thu nhập tăng, đời sống nông dân ở hầu khắp các vùng đƣợc cải thiện rõ rệt. Từ năm 1996 đến nay, thu nhập bình quân đầu ngƣời ở nông thôn tăng lên hơn 2,7 lần (năm 2007, bình quân đạt 6,7 triệu đồng/ngƣời theo giá hiện hành); thu nhập bình quân 1 hộ nông thôn đạt 26,1 triệu đồng, tăng 11,3 triệu đồng (tăng 75,8% so với năm 2002). Nhờ thu nhập của ngƣời dân tăng nên điều kiện sinh hoạt của hộ nông thôn ngày càng đƣợc cải thiện, nhất là về nhà ở, mua sắm vật dụng lâu bền, phƣơng tiện đi lại và các vật dụng đắt tiền. Chiến lƣợc xóa đói giảm nghèo đƣợc đẩy mạnh với nhiều chƣơng trình (Chƣơng trình 134, Chƣơng trình 135…), chính sách, hình thức hỗ trợ cụ thể, trực tiếp cho các đối tƣợng chính sách, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn. Đến 2007, về cơ bản đã xóa đƣợc đói, tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn còn 18% (cả nƣớc là 14,9%), mặc dù chuẩn nghèo đã tăng lên. Đây là thành tựu lớn của nƣớc ta đƣợc cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc thƣơng binh, gia đình liệt sĩ, ngƣời có công và các đối tƣợng chính sách, các đối tƣợng xã hội, đƣợc các cấp các ngành quan tâm, có kết quả thiết thực (năm 2005, đã xây dựng và bàn giao đƣợc 11.000 nhà tình nghĩa, hơn 81.000 nhà tình thƣơng…). Việc cứu trợ các hộ bị ảnh hƣởng bởi thiên tai, dịch bệnh đƣợc thực hiện tích cực với quy mô ngày càng lớn hơn. Riêng năm 2007, Chính phủ đã xuất gần 80 ngàn tấn gạo dự trữ quốc gia để cứu trợ các hộ thiếu đói do thiên tai.

Nhà nƣớc đã tăng cƣờng đầu tƣ phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao ở nông thôn, nhất là các vùng còn nhiều khó khăn, đồng thời thực hiện xã hội hóa ở những vùng có điều kiện.

- Y tế: Hầu hết các xã có sổ khám bệnh cho ngƣời nghèo, nhiều bệnh dịch nguy hiểm đƣợc phát hiện, khống chế kịp thời. Năm 2006, 36,9% số xã có cơ sở khám chữa bệnh tƣ nhân; 89,8% số thôn có cán bộ y tế. Tỷ lệ ngƣời đƣợc khám, chữa bệnh năm 2006 ở khu vực

nông thôn là 38,1% (cao gấp 2 lần năm 2002), 51,6% ngƣời dân nông thôn có bảo hiểm y tế.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 10: Tap 77 - So 1 nam 2011

Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13

7

- Giáo dục: Đến năm 2006, tỷ lệ dân số từ 10

tuổi trở lên biết chữ ở khu vực nông thôn tăng

từ 90,9% năm 2002 lên 92% năm 2006. Từ năm

2007 có chính sách cho con em các hộ nghèo,

cận nghèo và hộ chính sách đƣợc vay vốn với

lãi suất ƣu đãi để học tập ở các trƣờng đại học,

cao đẳng... (đến tháng 2 năm 2008 có hơn 30%

số sinh viên thuộc hộ nghèo đƣợc vay vốn).

- Văn hoá: Các hoạt động văn hoá, thông tin,

thể dục, thể thao đƣợc tăng cƣờng, nâng cao

mức hƣởng thụ về văn hoá cho nhân dân. Các

hình thức nhƣ thông tin, cổ động, in và phát

hành sách, tài liệu phim ảnh, phát triển thƣ

viện xã, nhà văn hoá xã, thôn bản, điểm vui

chơi giải trí, văn nghệ quần chúng, văn hoá

truyền thống và các loại hình câu lạc bộ về

văn hoá nông thôn khác đƣợc tăng cƣờng.

Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hoá" khơi dậy tinh thần đoàn kết ở

cộng đồng dân cƣ, bƣớc đầu đã có tác động

hiệu quả đến xây dựng đời sống văn hoá ở

vùng nông thôn. Gia đình văn hoá, Làng văn

hoá đƣợc công nhận đảm bảo chất lƣợng đã

có tác động tích cực đến việc xây dựng ngƣời

nông dân về tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống, nếp

sống; tạo ra bộ mặt nông thôn mới, ổn định về

chính trị, từng bƣớc phát triển về kinh tế - văn

hoá - xã hội.

- Thể dục, thể thao: Tỷ lệ ngƣời tham gia

luyện tập thể dục thể thao thƣờng xuyên, nâng

cao thể lực hàng năm tăng lên; hầu hết các

huyện ở nông thôn đã thƣờng xuyên tổ chức

Đại hội thể dục thể thao với sự tham gia đông

đảo của nhân dân.

Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn

tiếp tục được đổi mới

Kinh tế hộ tiếp tục phát triển theo hƣớng mở

rộng quy mô sản xuất, đa dạng hoá ngành

nghề, góp phần chủ yếu tạo tăng trƣởng nông

nghiệp, thu nhập cho nông dân. Đến năm

2006 cả nƣớc có 10,46 triệu hộ nông, lâm

nghiệp và thuỷ sản (giảm 766 nghìn hộ, giảm

6,8% so với năm 2001). Về quy mô sử dụng

đất, bình quân một hộ nông nghiệp sử dụng

0,63 ha đất sản xuất nông nghiệp (tăng 12%

so với năm 2001). Thực hiện “dồn điền đổi

thửa”, số thửa ruộng bình quân/hộ giảm từ 6

thửa xuống còn 4-5 thửa. Nhiều hộ có kinh

nghiệm và sản xuất nông nghiệp có lãi đã

thuê, mƣợn thêm đất sản xuất (năm 2004 có

3,6 % số hộ thuê, mƣợn đất nông nghiệp, đến

năm 2007 đã có 19% số hộ thuê, mƣợn đất).

Kinh tế trang trại tiếp tục phát triển theo

hƣớng đa ngành nghề, xuất hiện ngày càng

nhiều gia trại, trang trại chăn nuôi, thuỷ sản

đạt hiệu quả kinh tế cao. Đến nay, cả nƣớc có

hơn 110 nghìn trang trại, bình quân 1 trang

trại có 4,5 ha, vốn 240 triệu đồng, bình quân

3,4 lao động, tỷ suất hàng hoá đạt 95,8%.

Kinh tế hợp tác có chuyển biến tích cực: Tổ hợp

tác phát triển nhanh (840 ngàn tổ), hoạt động đa

dạng, phù hợp với trình độ của nông dân, nhất

là ở đồng bằng sông Cửu Long. Các HTX

chuyển đổi và thành lập mới theo Luật, nhiều

HTX đã thực hiện vai trò hỗ trợ kinh tế ngày

càng có hiệu quả. Hiện có gần 7 ngàn HTX

nông nghiệp, trong đó 84% là HTX chuyển đổi

và 16% thành lập mới, năm 2005 có 88,8% số

HTX nông nghiệp hoạt động có lãi.

Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn được

tăng cường; vai trò lãnh đạo của tổ chức

Đảng được nâng cao; dân chủ cơ sở được

phát huy; an ninh, trật tự được giữ vững

Đến nay, các tổ chức Đảng, chính quyền và

các đoàn thể quần chúng cấp xã, thị trấn khu

vực nông thôn đã cơ bản đƣợc kiện toàn, 89%

số thôn, bản có tổ chức Đảng, bình quân 30

đảng viên/10.000 dân. Chất lƣợng đảng viên

và tổ chức cơ sở Đảng ngày càng đƣợc quan

tâm, phân loại năm 2006 có 62,7% tổ chức cơ

sở Đảng đạt tiêu chuẩn vững mạnh; hầu hết

cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn đạt trình độ

văn hoá cấp trung học trở lên; đa số đã qua

đào tạo trình độ trung cấp chính trị. Phần lớn

các tổ chức Đảng ở cơ sở, các đảng viên phát

huy tốt vai trò là hạt nhân giữ vững sự ổn

định về tƣ tƣởng chính trị; định hƣớng, vận

động tổ chức nhân dân thực hiện các chủ

trƣơng, chính sách của Đảng và các nhiệm vụ

phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng

cuộc sống mới trên địa bàn.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng với các đoàn

thể quần chúng đang đổi mới phƣơng thức

hoạt động, đóng góp tích cực trong việc vận

động nhân dân thực hiện các chủ trƣơng, chính

sách của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển nông

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 11: Tap 77 - So 1 nam 2011

Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13

8

nghiệp và kinh tế nông thôn; các cuộc vận

động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì

cùng với nhiều phong trào khác của các đoàn

thể đã góp phần tích cực vào sự nghiệp phát

triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời

sống, ổn định chính trị, xã hội ở nông thôn.

Do việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở

ngày càng đi vào nề nếp nên đến năm 2007,

có 100% xã, thị trấn đã triển khai và thực hiện

Qui chế dân chủ cơ sở theo tinh thần các nghị

quyết của Trung ƣơng. Chủ trƣơng “dân biết,

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đƣợc tổ chức

khá đa dạng, với nhiều hình thức phong phú,

công khai, minh bạch ở nông thôn. Ngƣời dân

có điều kiện tham gia, giám sát các hoạt động

của chính quyền, tổ chức chính trị, xã hội ở

địa phƣơng đã có tác động mạnh, làm chuyển

biến phƣơng thức lãnh đạo, công tác điều

hành, quản lý và lề lối làm việc của các cấp

ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và

các đoàn thể nhân dân; nâng cao thêm tinh

thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công

chức trong thực thi công vụ đồng thời tăng sự

đồng thuận và đoàn kết ở nông thôn.

MỘT SÔ KHÓ KHĂN VÀ TỒN TẠI

TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

NÔNG THÔN

Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết

cấu hạ tầng kinh tế-xã hội còn yếu kém

Đến nay, khoảng 20% khu dân cƣ nông thôn

có quy hoạch, nhƣng chất lƣợng thấp, quản lý

thực hiện yếu kém. Hầu hết làng, xã phát triển

tự phát, cảnh quan nông thôn bị phá vỡ, nhiều

nét văn hóa bị pha tạp. Quy hoạch phát triển

công nghiệp và dịch vụ về nông thôn nhiều

nơi thiếu thận trọng, đất trồng cây lƣơng thực

có nguy cơ bị sụt giảm nghiêm trọng.

Thủy lợi chƣa đáp ứng đủ nhu cầu của sản

xuất nông nghiệp, hiện còn 0,7 triệu ha đất

lúa, 50% diện tích cà phê, 80% diện tích rau

màu chƣa đƣợc tƣới tiêu chủ động. Chất

lƣợng đƣờng giao thông nông thôn thấp, chƣa

đáp ứng yêu cầu lƣu thông hàng hoá. Điện

nông thôn không đảm bảo cả về chất lƣợng và

số lƣợng. Không ít cơ sở khám chữa bệnh,

trƣờng học còn tạm bợ; nhiều nhà văn hóa

không phát huy đƣợc chức năng là nơi sinh

hoạt cộng đồng.

Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn còn thấp, chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng ngày càng lớn; tỷ lệ hộ nghèo còn cao; phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc

Năm 2006 thu nhập bình quân ở nông thôn chỉ bằng 47,8% so với đô thị, chênh lệch giữa nhóm thu nhập cao nhất với nhóm thấp nhất ở nông thôn là 6,5 lần. Tuy chuẩn nghèo của nƣớc ta còn thấp, nhƣng tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn vẫn cao, hiện còn 58 huyện có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%, nhất là ở miền núi phía Bắc (45 huyện), tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số cao gấp 3 lần ngƣời Kinh. Xoá đói giảm nghèo chƣa thật sự bền vững, có xu hƣớng chậm lại, nguy cơ tái nghèo còn cao khi thiên tai, dịch bệnh xẩy ra

Tình trạng thiếu việc làm vẫn gay gắt; hệ thống an sinh xã hội chậm đƣợc hình thành. Ở nhiều vùng chất lƣợng khám chữa bệnh, giáo dục còn thấp, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao nghèo nàn. Đời sống của một bộ phận lớn nông dân bị thu hồi đất gặp nhiều khó khăn; thu nhập từ sản xuất nông nghiệp không đủ sống, lực lƣợng lao động vào đô thị kiếm sống ngày càng tăng; một số vùng nông thôn, tệ nạn xã hội gia tăng, dân chủ cơ sở chƣa đƣợc phát huy đúng mức, an ninh trật tự diễn biến phức tạp. Những vấn đề trên đang tạo ra nhiều bức xúc, bất ổn trong xã hội nông thôn.

Công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn; Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn đổi mới chậm, chưa trợ lực tốt cho sản xuất hàng hoá

Số doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ ở nông

thôn còn ít và tăng chậm. Rất ít nhà máy trực

tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, phần lớn

vật tƣ nông nghiệp nhƣ phân bón, thuốc thú y,

bảo vệ thực vật và máy móc nông nghiệp vẫn

phải nhập khẩu (năm 2007, nhập khẩu khoảng

5,5 tỷ USD). Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ

cấu kinh tế nông thôn còn chiếm hơn 40% so

với 20% của cả nƣớc, nhiều vùng chủ yếu vẫn

là sản xuất nông nghiệp. Chuyển dịch lao động

từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ

còn rất chậm, trong giai đoạn 2001-2006, chỉ

giảm bình quân gần 2%/năm. Năng suất lao

động nông nghiệp còn thấp chỉ bằng khoảng

1/2 của Thái Lan, Inđônêxia và Philipin.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 12: Tap 77 - So 1 nam 2011

Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13

9

Kinh tế hộ đóng vai trò chủ yếu, nhƣng phổ

biến là quy mô nhỏ (36% hộ có dƣới 0,2 ha).

Kinh tế trang trại mới chỉ chiếm hơn 1% tổng

số hộ nông, lâm, ngƣ nghiệp của cả nƣớc.

Kinh tế tập thể chậm phát triển, nhiều HTX

hoạt động hình thức, chƣa làm tốt vai trò cùng

với kinh tế nhà nƣớc dần trở thành nền tảng.

Đổi mới, sắp xếp nông lâm trƣờng quốc

doanh tiến hành chậm, việc rà soát, điều chỉnh

quỹ đất đai gặp nhiều vƣớng mắc. Lao động

nông thôn thiếu việc làm. Chƣa có cơ chế,

chính sách đủ mạnh để thu hút các doanh

nghiệp đầu tƣ nhiều vào địa bàn nông thôn.

Văn hoá - xã hội ở nông thôn còn nhiều bất

cập như: Hệ thống an sinh xã hội yếu kém;

Mức hưởng thụ văn hoá của người dân còn

thấp, tệ nạn xã hội gia tăng, an ninh trật tự có

diễn biến phức tạp; Xã hội nông thôn bị phân

hoá, quan hệ cộng đồng bị tổn thương, tính

thụ động của nông dân ở nhiều nơi còn lớn

Hiện chƣa hình thành một hệ thống an sinh xã

hội thống nhất và thông suốt cho các vùng

nông thôn. Hệ thống hiện hành mới nhằm bù

đắp cho những ngƣời có công, cứu trợ nhất

thời cho những ngƣời khó khăn khi có dịch

bệnh, thiên tai. Đa số nông dân phải tự lo cho

bản thân và gia đình khi gặp khó khăn, rủi ro.

Hiện tại mới có khoảng 50% dân cƣ nông

thôn có bảo hiểm y tế, những ngƣời còn lại

phải tự lo khi bị bệnh ốm đau.

Nếp sống văn hoá chậm hình thành; kết quả

đạt đƣợc trong xây dựng nếp sống văn hoá

chƣa bền vững. Thói hƣ, tật xấu, tệ nạn xã hội

vẫn gia tăng. Mức hƣởng thụ về văn hoá của

nông dân còn thấp, còn có khoảng cách quá

xa giữa các vùng miền; sinh hoạt văn hoá

cộng đồng còn nghèo nàn, thiếu sức hấp dẫn,

thu hút. Sinh hoạt văn hoá ở các vùng nông

thôn chủ yếu gồm các sinh hoạt truyền thống.

Các hoạt động thể dục thể thao rất ít, chủ yếu

dựa vào nhà trƣờng. Tình trạng nghiện ma tuý,

tệ nạn mại dâm, cờ bạc có xu hƣớng phát triển.

Một số hủ tục vẫn dai dẳng, thậm chí có nơi

trỗi dậy, nhất là trong ma chay, cƣới xin…

Trong nông thôn đang diễn ra sự phân tầng xã

hội, sự chênh lệch về điều kiện và mức sống

gia tăng trong phạm vi cả nƣớc và mỗi làng,

xã. Chênh lệch về thu nhập giữa nhóm 10%

giàu nhất với 10% nghèo nhất năm 2002 là

12,5 lần, năm 2004 là 13,5 lần. Trong khi đó

các mối quan hệ cộng đồng cổ truyền, nhất là

quan hệ làng xã - nền tảng xã hội nông thôn ở

nhiều nơi bị xói mòn nghiêm trọng. Nhiều

quan hệ cộng đồng làng, xã trƣớc đây đƣợc sử

dụng rất có hiệu quả thì nay đang bị hành

chính hoá. Trong khi đó quan hệ dòng họ tiếp

tục tồn tại và có nơi trỗi dậy mạnh mẽ làm méo

mó các mối quan hệ ở nhiều vùng nông thôn.

Cho tới nay chƣa có chiến lƣợc về phát triển

giai cấp nông dân. Sự chuyển dịch cơ cấu lao

động nông nghiệp, nông thôn còn mang tính tự

phát và thiếu sự chuẩn bị. Chất lƣợng lao động

nông nghiệp, nông thôn còn thấp so với yêu

cầu CNH, HĐH, nhất là ở vùng cao, vùng xa.

Việc nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của

nông dân nhiều nơi chƣa đƣợc quan tâm

thƣờng xuyên đúng mức. Nhiều nơi quyền lợi

của nông dân không đƣợc đảm bảo (phải đóng

góp nhiều, bị thua thiệt khi bị thu hồi đất, việc

thực thi dân chủ chƣa đƣợc đảm bảo). Tình

trạng nghèo khó, chênh lệch thu nhập và cuộc

sống, những tiêu cực trong cuộc sống, nhất là

tình trạng tham nhũng, quan liêu, cửa quyền,

thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ,

đảng viên làm ảnh hƣởng, thậm chí xói mòn

niềm tin của một bộ phận nông dân.

Môi trường ngày càng ô nhiễm, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai thấp.

Phát triển sản xuất nông nghiệp, ngành nghề nông thôn thƣờng tập trung vào tối đa hoá lợi nhuận kinh tế, không quan tâm đúng mức tới môi trƣờng đã gây suy thoái nghiêm trọng, bệnh dịch phát sinh trên diện rộng đang đặt ra thách thức lớn đối với sự nghiệp phát triển nông thôn bền vững. Môi trƣờng ở nhiều vùng nông thôn ngày càng bị ô nhiễm, chủ yếu do chất thải sinh hoạt, chăn nuôi, nông dƣợc. Hầu hết các vùng ven đô thị, khu công nghiệp bị ảnh hƣởng ngày càng trầm trọng. Nhiều làng nghề bị ô nhiễm nặng nề. Trong khi đó mới chỉ có 33% số hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh, 74,7% hộ có nhà tắm, 12,2% xã có công trình thoát nƣớc; 28,4% xã có tổ chức thu gom rác thải.

Cùng với sự biến đổi của khí hậu toàn cầu,

thiên tai có xu hƣớng gia tăng cả về tần suất

và cƣờng độ, đe dọa nghiêm trọng sự phát

triển bền vững của mọi vùng trong cả nƣớc.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 13: Tap 77 - So 1 nam 2011

Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13

10

Trong 10 năm (1995-2005), bình quân mỗi

năm nƣớc ta phải chịu 7 cơn bão, 5 trận lũ,

làm mất tích và chết 800 ngƣời, thiệt hại vật

chất 5.000 tỷ đồng. Riêng năm 2007, mặc dù

đã có rất nhiều nỗ lực phòng chống, thiên tai

trên diện rộng đã làm chết 462 ngƣời, thiệt

hại 11.514 tỷ đồng, gần bằng 1% GDP. Tuy

vậy, năng lực phòng chống còn rất hạn chế.

Hệ thống cảnh báo còn nhiều yếu kém, nhất là

với sóng thần, lũ quét, sạt lở núi. Hệ thống

thông tin chƣa thông suốt, nhất là với ngƣ dân

trên biển, ngƣời dân ở các vùng sâu, vùng xa.

Cơ sở hạ tầng còn thấp kém, nhiều công trình

xây dựng chƣa đáp ứng yêu cầu kỹ thuật

phòng chống gió bão, lũ. Hầu hết các vùng

thiếu phƣơng tiện cứu hộ, cứu nạn trong bão

lũ, nhất là khi có thảm họa lớn

MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN NƢỚC TA

Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng

đời sống văn hóa"

Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa là một trong những giải pháp lớn thực hiện Nghị quyết T.Ƣ 5 (khóa VIII) với mục đích xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hƣởng ứng phong trào này, hầu hết các địa phƣơng đã

quan tâm chỉ đạo và đƣợc nhân dân đồng tình ủng hộ, phong trào này đƣợc xem là cuộc vận động chính trị - xã hội góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội của các địa phƣơng. Đến năm 2008, cả nƣớc có 14/17 triệu gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa,

đạt tỷ lệ 80,67%, trong đó có 534 ngàn gia đình văn hóa tiêu biểu đƣợc biểu dƣơng tại các Hội nghị gia đình văn hóa tiêu biểu các cấp. 42/87 ngàn làng đạt tiêu chuẩn văn hóa, đạt tỷ lệ 47,87%, trong đó có hơn 7 ngàn làng văn hóa tiêu biểu đƣợc khen thƣởng ở các

cấp. Ðã có 3.663 xã, 37.124 thôn (ấp) có nhà văn hóa; gần 3 triệu câu lạc bộ các loại hình, 7 ngàn tổ, đội văn nghệ quần chúng. 70/90 nghìn khu dân cƣ đƣợc đánh giá là thực hiện tốt nếp sống văn hóa trong việc cƣới, việc tang, lễ hội. Thông qua phong trào, các hoạt

động “uống nước nhớ nguồn”, “lá lành đùm lá rách”, “nông dân sản xuất giỏi giúp nhau xoá đói giảm nghèo”, “thanh niên lập nghiệp”, “tổ phụ nữ tiết kiệm” và hoạt động

nhân đạo đã huy động hàng trăm tỷ đồng góp phần giải quyết xoá nhà tạm cho các đối tƣợng chính sách, và tinh thần này càng thể

hiện rõ nét tại các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng gặp phải thiên tai.

Bên cạnh những kết quả rất to lớn mà phong

trào đã đạt đƣợc, còn một số mặt hạn chế:

Phong trào triển khai chƣa đồng đều ở các

vùng, nhiều phong trào có kết quả tốt ban đầu

nhƣng còn thiếu tính bền vững, nhiều quy

định, quy ƣớc về nếp sống văn hóa chƣa đƣợc

tự giác thực hiện, chƣa tạo ra đƣợc những

chuyển biến rõ nét, vững chắc trong đời sống

tinh thần của cán bộ, đảng viên và các tầng

lớp nhân dân ở cơ sở, chƣa đáp ứng đƣợc yêu

cầu của Nghị quyết Trung ƣơng 5 (khóa

VIII): “...Làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn

bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng

ngƣời, từng gia đình, từng tập thể và cộng

đồng trên địa bàn dân cƣ, vào mọi lĩnh vực và

quan hệ con ngƣời...”.

Thực hiện quy chế dân chủ và cải cách thủ tục hành chính ở cơ sở

Cuộc vận động chính trị này đƣợc khởi động từ năm 1997 và đã đƣợc triển khai rộng rãi ở tất cả các xã trong cả nƣớc. Theo đó: Việc huy động các khoản đóng góp của dân vào việc của làng, của xã đều đƣợc bàn bạc rộng rãi trong cộng đồng thôn hoặc HĐND xã. Hơn 95% xã, phƣờng, thị trấn thực hiện niêm yết công khai các thủ tục hành chính, các khoản phí, lệ phí, đóng góp của dân, công khai các phƣơng án sản xuất, các công trình xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn có vốn dân góp đều đƣợc cộng đồng cử Ban giám sát hoặc Ban Thanh tra nhân dân giám sát chất lƣợng và chi tiêu.

Do đó đã đƣợc sự đồng thuận trong việc huy động nội lực xây dựng nông thôn, chất lƣợng các công trình đƣợc nâng lên, mâu thuẫn trong nội bộ nông dân giảm hẳn, việc khiếu kiện đông ngƣời, tràn lan nhƣ thời gian trƣớc đƣợc khắc phục. Ngƣời dân có niềm tin và tích cực tham gia hơn vào công cuộc cải cách ở nông thôn.

Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn

gắn liền với quá trình cải cách thủ tục hành

chính cấp xã, phƣờng. Theo đó, việc giải

quyết các thủ tục hành chính nhƣ cấp giấy

phép xây dựng, đăng ký kinh doanh, địa

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 14: Tap 77 - So 1 nam 2011

Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13

11

chính, hộ tịch, hộ khẩu, công chứng; chế độ

cho các đối tƣợng chính sách đã đƣợc công

khai hoá. Nhiều thủ tục đã đƣợc giải quyết

nhanh, gọn, giảm bớt phiền hà cho nhân dân,

đƣợc nhân dân đồng tình.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở hiện vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần phải khắc phục nhƣ việc thực hiện quy chế dân chủ gắn với cải cách thủ tục hành chính còn thiếu đồng bộ; Nhiều thủ tục hành chính còn rƣờm rà, bệnh giấy tờ chƣa giảm, làm phiền hà cho dân phải đi lại nhiều lần trong khi đó một số công chức cơ sở còn nhũng nhiễu dân; một số nơi chƣa hình thành đƣợc cơ chế giám sát của ngƣời dân…

Chương trình phát triển nông thôn mới cấp xã

Chƣơng trình phát triển nông thôn mới cấp xã đã đƣợc triển khai tại 14 xã điểm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (tăng lên 18 xã trong năm 2004) và khoảng 200 xã điểm của các địa phƣơng. Chƣơng trình phát

triển nông thôn mới cấp xã bao gồm 5 nội dung cơ bản: phát triển kinh tế hàng hoá với một cơ chế phù hợp khai thác đƣợc lợi thế của địa phƣơng, có thị trƣờng tiêu thụ; phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp với nền nông nghiệp hàng hoá đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá;

xây dựng khu dân cƣ văn minh; tăng cƣờng công tác văn hoá, y tế, giáo dục trong nông thôn và xây dựng đội ngũ cán bộ; tăng cƣờng sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, phát huy vai trò của cán bộ tổ chức quần chúng, thực hiện tập trung dân chủ.

Chƣơng trình phát triển nông thôn cấp xã đã triển khai đƣợc một số hoạt động nhƣ đào tạo cho cán bộ các xã điểm, triển khai qui hoạch cho 18 xã điểm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, lồng ghép các chƣơng trình, dự án về khuyến nông, nƣớc sạch và vệ sinh

môi trƣờng nông thôn cho 18 xã điểm. Nhờ vậy, cơ sở hạ tầng và bộ mặt nông thôn của các xã điểm đã có sự thay đổi đáng kể, nhiều hệ thống nƣớc sạch, xử lý nƣớc thải đã hình thành và đi vào hoạt động có hiệu quả. Sản xuất nông nghiệp và nhất là ngành nghề có hiệu quả cao

hơn, sản phẩm làm ra cạnh tranh đƣợc trên địa bàn trong nƣớc cũng nhƣ quốc tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc,

mô hình phát triển nông thôn cấp xã đã bộc lộ

một số tồn tại: Kế hoạch xây dựng mô hình

đòi hỏi nhu cầu vốn rất lớn lại không có

nguồn lực đảm bảo nên hầu hết các mô hình

cấp xã đều không có tính khả thi. Mặt khác mô

hình được xây dựng theo dạng dự án đầu tư

phát triển nên cán bộ và người dân ở "điểm" có

tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước mà chưa

huy động được nguồn lực của người dân và

cộng đồng nên chưa mang tính xã hội sâu sắc

và vì vậy thiếu tính bền vững trong xây dựng

nông thôn mới; Đội ngũ cán bộ xã tuy có được

đào tạo, nhưng nội dung đào tạo chưa đủ tầm,

tình trạng phổ biến là chưa nắm vững yêu cầu

và phương pháp triển khai dự án; Bộ máy tổ

chức chỉ đạo triển khai chương trình không

được hình thành thống nhất, đồng bộ từ cấp

trung ương xuống các địa phương, không phân

định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, các cấp

chính quyền trong việc tổ chức chỉ đạo, triển

khai, theo dõi và đánh giá chương trình nên rời

rạc và hiệu quả thấp.

Phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn

Phong trào này đƣợc khởi động đầu năm 2000

và nhanh chóng lan rộng ra các vùng quê trong

cả nƣớc hƣớng vào kiên cố hoá giao thông,

điện, kênh mƣơng nội đồng, trƣờng học, trạm

xá, trụ sở UBND, nhà văn hoá thôn, xã... Nhiều

tỉnh áp dụng phƣơng châm " Nhà nƣớc và nhân

dân cùng làm" đã có chính sách hỗ trợ thích hợp

với các công trình nhƣ hỗ trợ từ 10-50% giá trị

công trình bằng xi măng hoặc vật liệu xây dựng

khác. Phong trào đã thu hút sự tham gia đóng

góp tích cực của ngƣời dân vào cải tạo điều kiện

sống và sản xuất ở nông thôn. Bộ mặt nông thôn

đƣợc đổi thay nhanh chóng. Tuy nhiên, phong

trào này cũng tồn tại một số hạn chế đó là:

- Cơ sở hạ tầng phần lớn do cộng đồng tự

thiết kế, xây dựng thƣờng không tuân thủ theo

các tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của nhà

nƣớc nên phổ biến là chất lƣợng thấp, không

đáp ứng yêu cầu bền vững.

- Huy động quá mức sự đóng góp của ngƣời

dân và cộng đồng nên gây phản ứng tiêu cực

trong bộ phận nhân dân.

Đề án thí điểm xây dựng mô hình nông thôn

mới cấp thôn, bản

Năm 2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn đã triển khai thí điểm Đề án Xây dựng

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 15: Tap 77 - So 1 nam 2011

Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13

12

Nông thôn mới theo phƣơng pháp tiếp cận mới

“dựa vào nội lực và do cộng đồng làm chủ”.

Đề án thí điểm này đƣợc triển khai ở 15 thôn

tại 14 tỉnh đại diện cho các vùng kinh tế văn

hoá khác nhau. Nội dung chủ yếu gồm: Đào

tạo nâng cao năng lực phát triển cộng đồng;

Nâng cấp điều kiện sống cho ngƣời dân nông

thôn; Hỗ trợ ngƣời dân phát triển sản xuất hàng

hoá nông nghiệp, dịch vụ nông thôn để nâng

cao thu nhập và phát triển mỗi làng một nghề.

Qua việc sơ kết xây dựng mô hình nông thôn

mới sau 2 năm thực hiện, đề án xây dựng mô

hình nông thôn mới của Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn đã đạt đƣợc 6 nội dung:

+ Đã hình thành được 15 mô hình thực tiễn

về xây dựng nông thôn mới theo phương

pháp tiếp cận mới từ cộng đồng và do cộng

đồng làm chủ.

+ Bước đầu thay đổi được nhận thức của

cán bộ cơ sở và người dân trong việc xác

định nội dung xây dựng nông thôn mới, các

bước công việc phải làm và trình tự tiến

hành, cách thức huy động nội lực tại chỗ cho

xây dựng nông thôn mới;

+ Đã hình thành được tổ chức của người dân

(Ban phát triển thôn bản), là đại diện của

cộng đồng dân cư thôn, bản để tự chủ trong

việc bàn bạc, lựa chọn, quyết định các nội

dung xây dựng nông thôn mới và cuộc sống

trên địa bàn của họ.

+ Khơi dậy ý thức tự chủ, sáng tạo của người

dân trong phát huy nội lực xây dựng nông

thôn mới, không ỷ lại vào trợ giúp bên ngoài.

+ Xác định rõ hơn nội dung, phương pháp,

cách làm, mối quan hệ phối hợp giữa các cấp

trong xây dựng mô hình nông thôn mới theo

phương pháp tiếp cận từ cộng đồng thôn, bản.

Tuy mô hình chƣa hoàn thiện, nhƣng đã thu

hút sự quan tâm của nhiều địa phƣơng tổ chức

xây dựng thêm mô hình nông thôn mới ở địa

phƣơng (ngoài 15 mô hình thí điểm của Bộ).

Tuy vậy, còn một số tồn tại:

+ Nhận thức của các ngành, các cấp ở một

số địa phương về xây dựng nông thôn mới

còn chưa đầy đủ, chưa đúng với chủ trương

của Đề án.

+ Thiếu lực lượng tư vấn chuyên nghiệp về

xây dựng nông thôn theo phương pháp tiếp

cận mới nên cán bộ và người dân cơ sở rất

lúng túng khi thực hiện. Kế hoạch của Ban

phát triển thôn, bản phải sửa đổi nhiều lần

làm chậm tiến độ thực hiện Đề án.

+ Chưa có cơ chế tài chính riêng để thực hiện

mô hình nên đã gây ra rất nhiều khó khăn cho

cơ sở trong việc tiếp nhận vốn ngân sách.

Tóm lại: Phát triển nông nghiệp, nông dân,

nông thôn là nhiệm vụ chiến lƣợc đảm bảo

thực hiện thành công đƣờng lối công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nƣớc theo định hƣớng

xã hội chủ nghĩa, yêu cầu nỗ lực to lớn của

toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, sự tham gia

của cả xã hội. Với quyết tâm cao, với thế và

lực mới của đất nƣớc, nhất định Đảng và Nhà

nƣớc ta sẽ lãnh đạo nhân dân vƣợt qua khó

khăn thử thách, hoàn thành các nhiệm vụ đề

ra đáp ứng mong đợi và củng cố niềm tin của

nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội XHCN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Ban chỉ đạo xây dựng Đề án: “Nông nghiệp,

nông dân, nông thôn”, Tờ trình Bộ Chính trị, Hà

Nội tháng 6/2008.

[2]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đề

án: Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng

nông thôn mới, Hà Nội, 5/2009.

[3]. Chi cục Phát triển nông thôn, Sở Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn Hà Nội, Đề án chương

trình “Xây dựng mô hình nông thôn mới Thành

phố Hà Nội”, Hà Nội, 3/2009.

[4]. Nguyễn Trung Dũng, Phát triển tổng hợp bền

vững không gian nông thôn – Hướng tới một làng

quê thuần Việt trong thế kỷ 21, Hà Nội, 6/2009.

[5]. Đặng Kim Sơn, Vũ Trọng Bình, “Một số lý

luận về phát triển nông thôn”, Tạp chí Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn số 8/2007.

[6]. Nguyễn Văn Thƣờng và Nguyễn Kế Tuấn,

(2007), Kinh tế Việt Nam năm 2006 – Chất lượng

tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Đại

học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

[7]. Nguyễn Văn Thƣờng và Nguyễn Kế Tuấn,

(2008), Kinh tế Việt Nam năm 2007 – Năm đầu tiên

gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, Nxb Đại

học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

[8]. Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân, (2004),

Một số vấn đề kinh tế – xã hội Việt Nam thời kỳ

đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 16: Tap 77 - So 1 nam 2011

Ngô Xuân Hoàng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 3 - 13

13

SUMMARY

DISCUSSION OF SOME PROBLEMS OF PRACTICE AND DEVELOPMENT

RURAL IN OUR COUNTRY IN THE CURRENT PERIOD

Ngo Xuan Hoang1

, Vu Thi Quy2

1College of Technology and Economics - TNU; 2College of Agriculture and Forestry- TNU

Development of agriculture, farmers and rural areas is a strategic task to ensure successful

implementation of the policy of industrialization and modernization of the country under a

socialist orientation, requires tremendous effort of the entire Party, the political system and

participation of society.

After 20 years of transition to market economy discourse, agriculture and rural Vietnam has

actively exploit and promote the advantages and potentials of natural resources, land, labor and

other things other advantages to boost the development of ecological agriculture and building a

new countryside in a sustainable manner with the specialized farming, much agricultural produce

export goods with high economic value as: Rice, rubber, coffee, cashew nuts, pepper, tea, forestry,

fisheries ... The economic structure of agriculture, rural water. I wish I wish I had step shift

towards industrialization, fishing life enough people increasingly improve, face significant

changes countryside.

With determination, the position and strength of our country, most of the Party and State will lead

the people to overcome challenges and fulfill the tasks set out expectations and confidence of

People in the Party and the socialist regime society.

Key words: Problems, theories and practices, development, rural, Vietnam

Tel: 0912140868

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 17: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thế Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 15 - 18

14

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 18: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thế Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 15 - 18

15

ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC TỔ HỢP PHÂN BÓN ĐẾN SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN

CỦA GIỐNG LẠC L23 VỤ XUÂN 2010 TRÊN DIỆN TÍCH ĐẤT MỘT VỤ

TẠI HUYỆN HỮU LŨNG - TỈNH LẠNG SƠN

Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Viết Hƣng*, Thái Thị Ngọc Trâm

Trường Đại học Nông Lâm - Thái Nguyên

TÓM TẮT

Hữu Lũng là một huyện trung du của tỉnh Lạng Sơn, nơi có điều kiện khí hậu, đất đai tƣơng đối

thuận lợi cho cây lạc sinh trƣởng phát triển. Thí nghiệm vụ xuân năm 2010 tại Hữu Lũng tập trung

nghiên cứu ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến sinh trƣởng phát triển của cây lạc. Kết quả cho

thấy tổ hợp phân bón (5000 kg phân hữu cơ + 500 kg vôi bột +30 kg N +90 kg P2O5 +60 kg

K2O/ha) là thích hợp nhất với giống L23 trên đất một vụ lúa của huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn.

Từ khóa: Cây lạc, phân bón, năng suất, đất một vụ

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hữu Lũng là một huyện trung du của tỉnh

Lạng Sơn, nơi có điều kiện khí hậu, đất đai

tƣơng đối thuận lợi cho cây lạc sinh trƣởng

phát triển. Tuy nhiên hiện nay trong quá trình

canh tác lạc, ngƣời dân vẫn sử dụng các giống

cũ và canh tác theo phƣơng thức truyền

thống. Năng suất cây lạc rất thấp, chủ yếu để

phục vụ nhu cầu tiêu dùng của gia đình, có dƣ

thừa mới mang bán. Sản xuất manh mún và

hiệu quả kinh tế thấp.

Trong những năm gần đây, các nhà khoa học

đã và đang tập trung nghiên cứu, khảo

nghiệm tìm ra những bộ giống lạc thích hợp

nhất cho từng vùng lãnh thổ, trong đó có

vùng trung du miền núi phía Bắc. Kế hoạch

của huyện trong những năm tới sẽ triển khai

đƣa các giống lạc mới vào sản xuất, khuyến cáo

nông dân đƣa cây lạc vào công thức luân canh

với lúa, đồng thời chuyển một số diện tích sản

xuất lúa năng suất thấp, không chủ động nƣớc

tƣới sang trồng lạc. Nghiên cứu đƣợc tiến hành

với mục tiêu tìm ra tổ hợp phân bón thích hợp

nhằm nâng cao năng suất lạc trên đất một vụ

lúa của huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn; trên

cơ sở đó, góp phần hoàn thiện quy trình sản

xuất lạc trên đất một vụ lúa của huyện.

PHƢƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM

- Thí nghiệm đƣợc tiến hành trên giống lạc

L23. Thí nghiệm đƣợc bố trí theo phƣơng

Tel: 0912386574; Email: [email protected]

pháp khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh gồm 05

công thức, 03 lần nhắc lại. (1) Nền = 5 tấn

phân hữu cơ + 500 kg vôi bột/ha. (2) Nền +

400 kg NPK (5:10:3)/ha (Đ/c). (3) Nền + 20

kg N + 70 kg P2O5 + 40 kg K2O/ha. (4) Nền +

30 kg N + 90 kg P2O5 + 60 kg K2O/ha. (5)

Nền + 40 kg N + 100 kg P2O5 + 80 kg

K2O/ha.

- Diện tích ô thí nghiệm là 7,5m2 (1,5m x 5m)

- Số ô thí nghiệm: 3 x 5 = 15 (ô).

- Tổng diện tích thí nghiệm: 112,5 m2 (không

kể dải bảo vệ)

- Xử lý số liệu thí nghiệm theo phần mềm

IRRISTAT 4.0.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến

các giai đoạn sinh trƣởng phát triển của

giống lạc L23 vụ Xuân 2010

Sau khi lạc mọc mầm, gặp điều kiện thuận lợi

nên cây lạc sinh trƣởng phát triển nhanh, mạnh.

Ở công thức 1, lạc ra hoa sớm nhất (31 ngày) và

sớm hơn công thức đối chứng 1 ngày. Công

thức 3 lạc ra hoa cùng với công thức đối

chứng (32 ngày). Các công thức còn lại đều ra

hoa muộn hơn đối chứng (1 - 2 ngày).

Các công thức thí nghiệm đều có thời gian ra

hoa dài hơn hoặc bằng công thức đối chứng.

Chênh lệch giữa các công thức không lớn, chỉ

từ 1 đến 3 ngày. Công thức 1 có thời gian ra

hoa bằng công thức đối chứng và ngắn nhất

trong các công thức thí nghiệm (30 ngày).

Tổng thời gian sinh trƣởng ở các công thức có

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 19: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thế Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 15 - 18

16

chiều hƣớng tăng dần theo mức phân bón ở

các công thức (từ 110 đến 118 ngày). Trong

đó, các công thức có mức phân bón cao hơn

đối chứng (công thức 3, 4, 5) thì có tổng thời

gian sinh trƣởng đều dài hơn đối chứng.

Số cành cấp 1 trên cây ở công thức 1 và công

thức 5 thấp hơn so với công thức đối chứng

0,3 cành/cây và thấp hơn chắc chắn ở độ tin

cậy 95%. Số cành cấp 2 trên cây ở công thức

1 và công thức 5 cũng thấp hơn so với công

thức đối chứng (0,6 - 0,9 cành/cây) chắc chắn

ở độ tin cậy 95%. Công thức 4 có số cành cấp

2 trên cây cao hơn công thức đối chứng 0,2

cành/cây và cao hơn chắc chắn ở độ tin cậy

95%. Nhƣ vậy ta nhận thấy khả năng phân

cành của giống lạc L23 ở công thức phân bón

4 là mạnh nhất.

Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến

mức độ nhiễm một số bệnh của giống lạc

L23 vụ Xuân 2010

Mức độ nhiễm bệnh ở các công thức đều

tƣơng đƣơng nhau và tƣơng đƣơng đối chứng.

Bệnh gỉ sắt ở các công thức đều nhiễm nhẹ

(cấp bệnh 3), riêng công thức 1 tỉ lệ nhiễm

cao hơn các công thức khác và cao hơn đối

chứng (cấp bệnh 5). Bệnh đốm đen và đốm

nâu cũng tƣơng tự, hầu hết các công thức đều

ở cấp bệnh 3 (nhiễm nhẹ), riêng ở công thức 5

thì tỉ lệ nhiễm bệnh cao hơn (cấp bệnh 5),

bệnh héo xanh vi khuẩn ở điểm 1 (nhẹ).

Bảng 1. Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến các giai đoạn sinh trƣởng phát triểnvà khả năng phân cành

Công thức

Thời gian

mọc...ra hoa

(ngày)

Thời gian

ra hoa

(ngày)

Tổng thời gian

sinh trƣởng

(ngày)

Cành cấp 1

(cành/cây)

Cành cấp 2

(cành/cây)

1 31 30 110 4,9 1,6

2 (Đ/c) 32 30 111 5,2 2,5

3 32 31 112 5,3 2,6

4 33 33 115 5,2 2,7

5 34 33 118 4,9 1,9

CV% - - - 2,5 4,4

LSD 5% - - - 0,2 0,2

Bảng 2. Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến mức độ nhiễm một số bệnh

ở giống lạc thí nghiệmn L23 vụ Xuân 2010

Bệnh hại

Công thức

Gỉ sắt

(cấp bệnh)

Đốm đen

(cấp bệnh)

Đốm nâu

(cấp bệnh)

Héo xanh VK

(điểm)

1 5 3 3 1

2 (Đ/c) 3 3 3 1

3 3 3 3 1

4 3 3 3 1

5 3 5 5 1

Bảng 3. Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến năng suất và các yếu tố

cấu thành năng suất của giống lạc L23 vụ Xuân 2010

Công

thức

Tổng

số

quả/

cây

Số

quả

chắc/

cây

Tỷ lệ

quả 1

nhân

(%)

Tỷ lệ

quả 3

nhân

(%)

P 100

quả

(g)

P 100

hạt

(g)

Tỷ lệ

hạt/quả

(%)

NS cá

thể

(g/cây)

NSLT

(tạ/ha)

NSTT

(tạ/ha)

1 13,6 10,5 13,3 0,6 170,5 68,5 68,2 13,9 46,3 19,1

2 (Đ/c) 15,6 12,9 11,1 0,0 171,2 69,1 68,4 18,0 60,0 22,9

3 17,0 14,2 11,2 0,0 171,6 69,3 68,5 20,3 67,7 26,2

4 17,5 14,7 9,2 0,0 172,3 70,4 68,6 21,4 71,2 29,3

5 16,6 14,0 13,4 0,2 172,5 71,1 68,0 20,1 67,1 26,2

CV% 3,5 2,3 - - 4,1 6,2 3,1 2,8 2,8 4,6

LSD

5% 1,1 0,6 - - 0,2 0,3 0,2 1,0 3,3 2,2

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 20: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thế Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 15 - 18

17

28.65

34.35

39.30

43.95

39.30

3.86

8.129.45

6.25

33.0531.1829.85

26.2324.79

12.77

0.00

10.00

20.00

30.00

40.00

50.00

1 2 (Đ/c) 3 4 5Công thức

Triệ

u đ

ồn

g/h

a

Thu

Chi

Lãi thuần

Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón đến

các yếu tố cấu thành năng suất và năng

suất của giống lạc L23 vụ Xuân 2010

- Ảnh hưởng của các tổ hợp phân bón đến

tổng số quả/cây: Tổng số quả/cây ở công thức

1 và công thức 5 là thấp hơn so với công thức

đối chứng (1,0 - 2,0 quả/cây). Nhƣng chỉ ở

công thức 1 là thấp hơn chắc chắn ở độ tin

cậy 95%. Công thức 3 và công thức 4 có tổng

số quả/cây cao hơn so với đối chứng từ 1,4 -

1,9 quả/cây và chắc chắn ở độ tin cậy 95%.

- Ảnh hưởng của các tổ hợp phân bón đến khối

lượng 100 quả: Khối lƣợng 100 quả ở công

thức 1 thấp hơn so với công thức đối chứng

0,7g và chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Các công

thức 3, 4 và 5 đều là các công thức có khối

lƣợng 100 quả cao hơn công thức đối chứng từ

0,4 - 1,3g và chắc chắn ở độ tin cậy 95%.

- Ảnh hưởng của các tổ hợp phân bón đến

năng suất lý thuyết: Năng suất lý thuyết đạt

cao nhất ở công thức 4 (71,2 tạ/ha) và năng

suất lý thuyết thấp dần ở các công thức có

mức phân bón thấp hơn và cao hơn, thấp nhất

là ở công thức 1 với mức phân bón nền. Năng

suất lý thuyết ở các công thức 3, 4, 5 cao hơn

ở công thức đối chứng từ 7,1 - 11,2 tạ/ha và

chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Riêng công thức

1 có năng suất lý thuyết thấp hơn so với công

thức đối chứng 13,7 tạ/ha ở độ tin cậy 95%.

- Ảnh hưởng của các tổ hợp phân bón đến

năng suất thực thu: Giống nhƣ năng suất lý

thuyết, năng suất thực thu ở các công thức

cũng cao nhất là công thức 4 (29,3 tạ/ha) và

thấp hơn ở các công thức còn lại, thấp nhất là

ở công thức 1 (19,1 tạ/ha). Năng suất thực thu

ở công thức 1 thấp hơn so với công thức đối

chứng 3,8 tạ/ha chắc chắn ở độ tin cậy 95%.

Công thức 3 và công thức 5 có năng suất thực

thu tƣơng đƣơng nhau và đều cao hơn so với

công thức đối chứng ở độ tin cậy 95%.

Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón khác

nhau đến hiệu quả kinh tế giống lạc L23

trong vụ Xuân 2010

Qua hạch toán kinh tế, thí nghiệm ảnh hƣởng

của các tổ hợp phân bón khác nhau đến giống

lạc L23 trong vụ Xuân 2010 cho kết quả nhƣ

trình bày ở biểu đồ 1.

Với chế độ chăm sóc nhƣ nhau và mức đầu tƣ

nhƣ đã trình bày thì ta thấy: tổng thu và lãi

thuần ở các công thức có sự khác biệt. Công

thức 4 cho năng suất lạc cao nhất (29,3 tạ/ha),

đồng thời tổng thu và lãi thuần cũng đạt cao

nhất so với các công thức khác trong thí

nghiệm (31,18 triệu đồng/ha và 12,77 triệu

đồng/ha). Lãi thuần cao hơn công thức đối

chứng là 4,65 triệu đồng/ha.

Ở công thức 3 và công thức 5 cho năng suất

nhƣ nhau (26,2 tạ/ha), nhƣng do mức chi phí

cho phân bón ở công thức 5 lớn hơn (3,2 triệu

đồng/ha) nên lãi thuần thấp hơn so với công

thức 3 (3,2 triệu đồng/ha). Công thức 3 cho

lãi thuần cao hơn đối chứng là 1,33 triệu

đồng/ha, trong khi đó lãi thuần ở công thức 5

lại thấp hơn đối chứng 1,82 triệu đồng/ha.

Tổng thu của công thức 1 thấp hơn so với

công thức đối chứng (5,7 triệu đồng/ha), trong

khi mức đầu tƣ cho công thức 1 thấp hơn

công thức đối chứng 1,44 triệu đồng/ha nên

lãi thuần của công thức 1 thấp hơn đối chứng

4,26 triệu đồng/ha.

Biểu đồ 1. Ảnh hƣởng của các tổ hợp phân bón khác nhau đến hiệu quả kinh tế giống lạc L23 trong vụ Xuân 2010

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 21: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thế Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 15 - 18

18

KẾT LUẬN

Giống lạc L23 có khả năng thích ứng tốt và phù

hợp với điều kiện sản xuất ở vùng sinh thái

huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, đƣợc ngƣời

dân địa phƣơng ủng hộ và đón nhận. Kết quả

nghiên cứu của chúng tôi đã bƣớc đầu xác định

đƣợc giống L23 có khả năng cho năng suất cao

hơn các giống tham gia thí nghiệm từ 5,8 - 11,1

tạ/ha. Nên có thể phát triển rộng ra sản xuất ở

Hữu Lũng, Lạng Sơn.

Tổ hợp phân bón (5000kg phân hữu cơ + 500kg

vôi bột + 30kg N + 90kg P2O5 + 60kg K2O/ha)

là thích hợp nhất với giống L23 trên đất một vụ

lúa của huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn.

Cần tiếp tục nghiên cứu một số biện pháp kỹ

thuật thâm canh lạc: mật độ, mức phân bón

cho giống đƣợc lựa chọn để xác định đƣợc

hiệu quả của biện pháp này một cách chắc

chắn, để phổ biến ra ngoài sản xuất tại vùng

lạc ở Hữu Lũng, Lạng Sơn, cũng nhƣ các

huyện trong tỉnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Ngô Thế Dân (chủ biên), Nguyễn Xuân Hồng,

Đỗ Thị Dung, Nguyễn Thị Chinh, Vũ Thị Đào,

Phạm Văn Toản, Trần Đình Long, C.L.L. Gowda

(2000), Kỹ thuật đạt năng suất lạc cao ở Việt nam.

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

[2]. Đƣờng Hồng Dật (2007), Cây lạc và biện

pháp thâm canh nâng cao hiệu quả sản xuất, Nxb

Thanh Hóa.

[3]. Trần Đình Long, Nguyễn Văn Chinh, Nguyễn

Văn Thắng, Hoàng Minh Tâm (1999), “Tổng qua

tình hình nghiên cứu phát triển tiến bộ trồng lạc ở

Việt Nam trong thời gian qua và phƣơng hƣớng

trong những năm tới”, Hội thảo về kỹ thuật trồng

lạc toàn quốc ở Thanh Hoá.

[4]. Boote K.J., Keting DL. (1990), “Growth

stages of pranut”, Arachis hypogaea L, Jounrnal

series, Florida Agricultural Experiment stations.

[5]. Gregory W.C; Krapovickas A. and Gregory

M. P (1980), Structure variation evoluation and

clasification in Arachis; Advances in Legume

science. Proceedings of the International Legume

Conference.

[6]. Sankara Reddi G.H (1988), Cultivation,

storage and marketing in groundnut, India Council

of Agricultural Research, kridhi Anusandhan

Bhavan, Pusa, New Delhi, pp. 318 - 382.

[7]. Xu Zeyong (1992), Groundnut production

and research in East Asia in the 1980s, in

groundnut - a global perspective, ICRISAT,

Patancheru, Andhra Pradesh 502324, India,

pp.157 - 175.

SUMARY

THE INFLUENCE OF COMBINATIONS OF FERTILIZERS ON THE YIELD OF L23

PEANUT VARIETY ON ONE-CROP LAND, HUU LUNG DISTRICT,

LANG SON PROVINCE, SPRING 2010

Nguyen The Hung; Nguyen Viet Hung; Thai Thi Ngoc Tram

College of Agriculture and Forestry- TNU

Huu Lung is a midland district of Lang Son Province, where the climatic conditions, land is

relatively favorable for peanut growth and development. The experiment in spring 2010 in Huu

Lung focused to study the effects of combinations of fertilizers to the growth and development of

peanut. Results showed that combined fertilizer (5000 kg manure + 500 kg lime + 30 kg N + 90 kg

P2O5 + 60 kg K2O/ha) is most appropriate for a variety L23 on the one-crop land of Huu Lung

District, Lang Son.

Keywords: Groundpeanut, fertilizers, yield, one-crop land

Tel: 0912386574; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 22: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Viết Hƣng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 19 - 22

19

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA HÌNH THỨC NHÂN GIỐNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG,

PHÁT TRIỂN VÀ HỆ SỐ NHÂN GIỐNG CỦA CÂY KHOAI MÔN TẠI BẮC KẠN

Nguyễn Viết Hƣng

*, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Thế Huấn Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Nghiên cứu ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến khả năng sinh trƣởng, phát triển và khả năng

nhân giống của cây khoai môn tại Bắc Kạn cho thấy: Cây giống khoai môn đƣợc nhân giống trồng

từ củ G1 từ cây invitro có khả năng cho năng suất đạt 65.65 tạ/ha, cao hơn cây khoai môn của Bắc

Kạn trồng từ củ con và cây khoai môn nuôi cấy invitro, nhƣng khả năng nhân giống thấp hơn cây

khoai môn nuôi cấy invitro. Nhân giống khoai môn trồng từ nuôi cấy invitro cho năng suất chƣa

cao, nhƣng khả năng nhân giống đạt cao 7,8 củ con/gốc tức hệ số nhân giống đạt 1/10 cao hơn

nhân giống bằng phƣơng pháp truyền thống gấp gần 02 lần.

Từ khóa: Cấy môn, khoai môn, năng suất, số củ, nhân giống

ĐẶT VẤN ĐỀ

Cây khoai môn (Colocasia esculeuta L.

Schott)là cây một lá mầm thuộc họ ráy

Araceae, chi Colocasia. Đây là cây đƣợc

trồng nhiều trên các loại đất khác nhau từ

đất ruộng vƣờn ở đồng bằng đến đất đồi dốc

ở miền núi. Sản phẩm của cây khoai môn

đƣợc dùng làm lƣơng thực vì có giá trị dinh

dƣỡng cao.

Tại Bắc Kạn, khoai môn đã đƣợc trồng ở một số hộ gia đình thuộc vùng đồng bào dân tộc Dao, Tày, Nùng,… nhƣng với diện tích nhỏ lẻ nên năng suất thấp, sản lƣợng không đáng kể. Trong những năm vừa qua, trên địa bàn tỉnh đã có những đề tài, dự án hỗ trợ nhằm giúp bà con các dân tộc nhân rộng diện tích trồng khoai môn. Một trong những khó khăn trong việc phát triển diện tích cây khoai môn là thiếu giống do hệ số nhân giống của cây khoai môn thấp. Hơn nữa, việc tổ chức sản xuất và chỉ đạo khâu tuyển chọn giống và đầu tƣ thâm canh chƣa đƣợc chú ý nên năng suất khoai chƣa cao, tỷ lệ củ đạt tiêu chuẩn làm giống còn rất thấp. Theo Nguyễn Thị Ngọc Huệ (2002) hệ thống cung cấp giống khoai môn hiện nay là hệ thống không chính thức, chủ yếu là do nông dân tự để giống, trao đổi, mua hoặc xin của họ hàng trong, giữa các cộng đồng lân cận do đó nguồn giống để phát triển diện tích lớn gặp nhiều khó khăn. Nhân giống khoai bằng công nghệ nuôi cấy mô đã đƣợc áp dụng nhiều nơi trên thế giới, cây con

Tel: 0912386574; Email: [email protected]

nhân bằng phƣơng pháp nuôi cấy mô giữ đƣợc đặc tính di truyền từ cây mẹ và có khả năng sinh trƣởng đồng đều, năng suất củ cao, K. Murakami và cs (2006). Ở Việt Nam, nhân giống cây khoai môn bằng phƣơng pháp nuôi cấy mô thực sự chƣa đƣợc nghiên cứu. Vì vậy việc đánh giá khả năng sinh trƣởng và khả năng nhân giống của cây khoai môn nhân giống bằng nuôi cấy invitro, nhằm cung cấp đủ nguồn giống khoai với chất lƣợng tốt cho tỉnh Bắc Kạn. Nên việc nghiên cứu về ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến khả năng sinh trƣởng, phát triển, hệ số nhân giống cây khoai môn tại Bắc Kạn là hết sức cần thiết.

NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Thí nghiệm đƣợc nghiên cứu trên cây khoai

môn nuôi cấy invitro, củ G1 từ cây nuôi cấy

invitro và củ giống lấy từ củ con đƣợc trồng

từ năm trƣớc. Tất cả các vật liệu nghiên cứu

đều có nguồn gốc từ khoai Bắc Kạn.

Nội dung nghiên cứu

- Nghiên cứu ảnh hƣởng của hình thức nhân

giống đến khả năng sinh trƣởng, phát triển và

năng suất của khoai môn.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Thí nghiệm gồm: 03 công thức đƣợc bố trí

theo khối ngẫu nhiên hoàn toàn với 03 lần

nhắc lại với diện tích ô thí nghiệm 20m2. Thí

nghiệm đƣợc trồng với mật độ 70cm x 40cm.

Công thức 1: Trồng từ củ con giống khoai

môn Bắc Kạn (đ/c)

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 23: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Viết Hƣng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 19 - 22

20

Công thức 2: Trồng từ củ G1 từ cây invitro

Công thức 3: Trồng từ cây invitro

- Quy trình thí nghiệm theo quy trình sản xuất

khoai môn của Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái

Nguyên. Các chỉ tiêu theo dõi theo phƣơng

pháp thí nghiệm đồng ruộng hiện hành.

Thời gian và địa điểm nghiên cứu

- Từ tháng 03 năm 2009 đến tháng 12 năm

2009 tại thị trấn Bằng Lũng, huyện Chợ Đồn,

tỉnh Bắc Kạn

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Nuôi cấy mô là một biện pháp nhân giống

nhanh nhiều loại cây trồng, nhƣng không phải

cây trồng nào khi tiến hành nhân giống bằng

phƣơng pháp này cũng đem lại hiệu quả nhƣ

mong muốn. Để xác định hiệu quả chính xác

của phƣơng pháp này đối với cây khoai môn

chúng tôi đã so sánh khả năng sinh trƣởng của

cây khoai môn đƣợc nhân giống bằng ba hình

thức là cây nuôi cấy invitro, củ G1 từ cây

nuôi cấy invitro và khoai môn Bắc Kạn, kết

quả đƣợc trình bày ở bảng 1.

Số liệu bảng 1 cho thấy: Chiều cao cây của

cây ở công thức 1 và công thức 2 có mức độ

sinh trƣởng tƣơng đƣơng nhau, đạt 71,77 -

72,07cm. Riêng cây invitro có mức độ sinh

trƣởng chiều cao thấp hơn, đạt 67,40cm. Tổng

số lá /cây chính của cả ba công thức tham gia

nghiên cứu đạt từ 8,63 - 8,80 lá/cây. Số thân

phụ của cây quyết định đến số củ con của

khoai môn khi thu hoạch, kết quả theo dõi cho

thấy số thân phụ của công thức trồng từ cây

nuôi cấy mô có số thân phụ lớn nhất đạt trung

bình 11,2 cây/gốc, sự sai khác có ý nghĩa ở

mức 95%.

Kết quả theo dõi thời gian lụi lá của cây khoai

môn nhân giống bằng invitro có thời gian vào

cuối tháng 12, trong khi cây khoai trồng từ củ

bi bình thƣờng thì có thời gian lụi lá từ đầu

tháng 12.

Kết quả so các yếu tố cấu thành năng suất của

các loại củ khoai môn đƣợc thể hiện qua bảng 2.

Số liệu bảng 2 cho thấy, cây đƣợc trồng từ củ

G1 cho củ cái có kích thƣớc nhƣ đƣờng kính

củ (58,17mm) và chiều cao củ (83,11mm) lớn

hơn hẳn công thức 1 và công thức 3. Khối

lƣợng củ cái và năng suất là các chỉ tiêu cuối

cùng đƣợc ngƣời trồng khoai quan tâm.

Bảng 1. Ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến khả năng sinh trƣởng của cây khoai môn Bắc Kạn

Công thức Chiều cao cây

cuối cùng (cm)

Tổng số lá

(lá/cây)

Số thân

cây phụ (cây)

Thời gian

lá lụi hết

Công thức 1 (đ/c) 72,07 b 8,80 a 5,2 a 5/12

Công thức 2 71,77 b 8,67 a 6,9 a 5/12

Công thức 3 67,40 a 8,63 a 11,2b 23/12

CV% 9,65 7,82 8,62 -

LSD05 2,80 0,32 1,91 -

Bảng 2. Ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến kích thƣớcvà trọng lƣợng củ cái

của giống khoai môn Bắc Kạn khi thu hoạch

Chỉ tiêu

Công thức

Đƣờng kính

củ cái (mm)

Chiều cao

củ cái (mm)

Khối lƣợng

củ cái (g)

So với đ/c

(%)

Công thức 1 (đ/c) 53,94 70,00 154,10 100,00

Công thức 2 58,17 83,11 180,30 117,00

Công thức 3 51,94 68,67 150,40 97,62

CV% 7,13 10,29 8,96 -

LSD05 6,38 7,31 7,67 -

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 24: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Viết Hƣng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 19 - 22

21

Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, khối lƣợng

củ cái của các công thức thí nghiệm đạt khá

cao, từ 150,40 - 180,30g/củ. Trong đó cây

trồng từ củ khoai môn Bắc Kạn và cây nuôi

cấy invitro có khối lƣợng củ cái tƣơng đƣơng

nhau, riêng công thức trồng từ củ G1 cho khối

lƣợng củ cái cao hơn hẳn, đạt 180,30 g/củ cao

hơn so với đối chứng 17%, sự sai khác có ý

nghĩa ở mức tin cậy 95%.

Một trong những khó khăn của việc phát triển

diện tích trồng khoai môn hiện nay là thiếu

giống. Tính trung bình muốn phát triển 1 ha

diện tích khoai môn cần từ 4-5 tạ củ giống,

lƣợng giống khoai môn hiện nay chủ yếu do

ngƣời trồng giữ lại những củ con từ vụ trƣớc.

Chính vì vậy việc tăng số lƣợng củ con cũng

chính là một trong những yếu tố góp phần

nâng cao hệ số nhân giống, góp phần giải

quyết khó khăn về giống cho ngƣời trồng.

Đánh giá khả năng nhân giống của các công

thức thí nghiệm thông qua số lƣợng và kích

thƣớc của củ con đƣợc trình bày qua bảng 3.

Để tiện cho việc phân loại chúng tôi phân các

loại củ con làm ba loại. Loại 1 là các củ con

có đƣờng kính củ lớn hơn 3 cm, loại 2 là các

củ có đƣờng kính củ từ 2-3 cm, loại 3 là các

củ nhỏ kích thƣớc nhỏ hơn 2 cm.

Số liệu bảng 3 cho thấy, trong các công thức thí nghiệm công thức khoai trồng từ cây nuôi cấy mô có số tuy số lƣợng củ loại 1 không có, nhƣng số lƣợng củ loại 2 đạt trung bình 7,8 củ/gốc, trong khi công thức khoai trồng từ giống G1 và giống khoai đƣợc để giống bằng phƣơng pháp truyền thống đều có số củ loại 2 chỉ đạt từ 2,2-2,4 củ/gốc. Cả ba công thức thí nghiệm đều có những củ con có kích thƣớc nhỏ hơn 2cm, loại củ này khi đem ra trồng cây con phát triển rất kém, do vậy khi nghiên cứu biện pháp kỹ thuật cho giống khoai môn Bắc Kạn cần có biện pháp tỉa bớt các thân phụ quá nhỏ để tăng cƣờng dinh dƣỡng nuôi củ. Ảnh hƣởng của các hình thức nhân giống cây khoai môn tới năng suất của các công thức thí nghiệm đƣợc thể hiện qua đồ thị 1.

Năng suất là chỉ tiêu cuối cùng thể hiện rõ nhất kết quả sau một vụ trồng khoai. Trong thí nghiệm, công thức trồng từ cây nuôi cấy invitro (công thức 3) có năng suất tƣơng đƣơng với đối chứng (công thức 1) trồng từ củ con giống khoai môn Bắc Kạn nhƣng thấp hơn công thức 2.

Bảng 3. Ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến số con củ/gốc và khối lƣợng củ của khoai môn Bắc Kạn

Chỉ tiêu

Công thức

Củ loại 1 Củ loại 2 Củ loại 3

Số củ

(củ)

Khối lƣợng

củ (g)

Số củ

(củ)

Khối lƣợng

củ (g)

Số củ

(củ)

Khối lƣợng

củ (g)

Công thức 1 (đ/c) 2,3 59,3 2,4 41,7 3,2 21,4

Công thức 2 1,7 60,5 2,2 43,5 2,6 19,8

Công thức 3 - - 7,8 35,1 3,9 20,5

59.59

65.65

59.42

56

58

60

62

64

66

Công thức 1 Công thức 2 Công thức 3

Năng suất (tạ/ha)

Đồ thị 1. Ảnh hƣởng của hình thức nhân giống đến năng suất của khoai môn Bắc Kạn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 25: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Viết Hƣng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 19 - 22

22

Tuy vậy, số củ con lại nhiều hơn, nên rất phù

hợp cho mục tiêu nhân giống nhanh. Công

thức 2 trồng từ củ G1 có năng suất cao hơn

hai công thức còn lại, đạt 65,65 tạ/ha. Kết quả

này cho thấy, việc chọn lọc giống chuẩn và

dùng hình thức nhân giống vô tính invitro để

nhân giống, sau đó lấy củ G1 của cây invitro

để trồng trong sản xuất sẽ góp phần tạo ra một

ruộng khoai đồng đều, và có khả năng cho

năng suất cao.

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

Kết luận

- Cây khoai môn G1 từ cây invitro có khả

năng cho năng suất đạt 65.65 tạ/ha, cao hơn

hẳn cây khoai môn của Bắc Kạn trồng từ củ

con và cây khoai môn nuôi cấy invitro, nhƣng

khả năng nhân giống thấp hơn cây khoai môn

nuôi cấy invitro.

- Cây khoai môn invitro không cho năng suất

cao, nhƣng có khả năng nhân giống nhanh đạt

7,8 củ con/gốc cao gấp 2 lần so với trồng

bằng củ truyền thống.

Đề nghị - Để có kết luận chính xác hơn chúng tôi xin đề nghị tiếp tục nghiên cứu đề tài này trong thời gian tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Mai Thạch Hoành, Nguyễn Công Vinh (2006)

“Giống và kỹ thuật thâm canh cây có củ” Nhà xuất

bản Nông nghiệp, Hà Nội

[2]. Mai Thạch Hoành (2006) “ Chọn tạo và nhân

giống cây có củ” Nxb Nông nghiệp, Hà Nội

[3]. Nguyễn Thị Ngọc Huệ, “Nghiên cứu cơ sở

khoa học để xây dựng điểm bảo tồn nguồn gen

khoai môn sọ trên đồng ruộng tại huyện Nho

Quan, Ninh Bình”, Tuyển tập các công trình khoa

học kỹ thuật nông nghiệp 2001-2002.

[4]. K. Murakami, K. Takashi, K. Ogawa (2006),

Morphological variation of corms in plant

regenerated from calluses of Taro (Colocasia

esculeuta L. Schott), SHS Acta Horticultae 725:

V International Symposium on In Vitro Culture

and Horticultural Breeding.

SUMMARY

EFFECT OF PROPAGATION METHODS ON GROWTH, DEVELOPMENT AND

PROPAGATION REGENERATION CAPACITY OF TARO

IN BAC KAN PROVINCE

Nguyen Viet Hung, Nguyen The Hung, Nguyen The Huan

College of Agriculture and Forestry- TNU

Results from a study of effect of propagation methods on growth, development of taro in Bac Kan

Province indicated that taro seedlings generating from roots of taro which is generated by in vitro

method has yield of 6.565 tons/ha, higher yield but fewer roots than those of taro seedlings generated

by in vitro methods. In vitro seedlings did not have high root yield but one seedling had an average

of 10.7 roots. It means regeneration rate is more than 10 which is at least two times higher than

traditional method.

Keywords: Tissue Culture, taro, yield, number of roots, propagation

Tel: 0912386574; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 26: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trần Trung Kiên và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 23 - 27

23

ẢNH HƢỞNG CỦA LIỀU LƢỢNG LÂN ĐẾN SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN

VÀ NĂNG SUẤT CỦA GIỐNG NGÔ CHẤT LƢỢNG PROTEIN CAO

(QPM) - QP4 VÀ NGÔ THƢỜNG - LVN10 TẠI THÁI NGUYÊN

Trần Trung Kiên

1, Bùi Văn Quang

2

1 Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, 2Hội Nông dân Quảng Ninh

TÓM TẮT Thí nghiệm với giống ngô QP4 (QPM) và LVN10 (ngô thƣờng) với 5 công thức bón lân: 0P2O5

(đối chứng), 40P2O5, 80P2O5, 120P2O5, 160P2O5 (trên nền: 10 tấn phân chuồng + 120N + 80K2O)

tại Thái Nguyên trong vụ Xuân 2005, Thu Đông 2005 và Xuân 2006. Kết quả trung bình ba vụ cho

thấy: So với mức lân 0P2O5 thì ở mức 160P2O5 thời gian sinh trƣởng rút ngắn 6 ngày ở giống QP4

và 7 ngày ở giống LVN10; Chiều cao cây tăng 11,8% (QP4) và 15,6% (LVN10); Chỉ số diện tích

lá tăng 39,1% (QP4) và 44,7% (LVN10); Năng suất tăng 90,2% (QP4) và 102,8% (LVN10). Với

hai giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10, ở mức lân 120P2O5, cả năng suất và hiệu quả

kinh tế đều đạt cao nhất.

Từ khoá: Hiệu quả kinh tế, năng suất, ngô chất lượng protein cao, phân lân

ĐẶT VẤN ĐỀ*

Từ năm 2001 - 2005, Viện Nghiên cứu Ngô

phối hợp với Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái

Nguyên tiến hành khảo nghiệm một số giống

ngô thụ phấn tự do (TPTD) có chất lƣợng

protein cao (QPM) và chọn đƣợc giống ngô

QP4 có triển vọng, cho năng suất và chất

lƣợng protein cao, đáp ứng nhu cầu giống ngô

TPTD QPM cho vùng núi khó khăn, nơi đồng

bào các dân tộc thiểu số vẫn còn tập quán

dùng ngô làm lƣơng thực chính.

Theo Evangelista (1999) năng suất ngô tăng

lên cùng với việc tăng liều lƣợng lân, năng

suất chỉ bắt đầu giảm xuống khi bón đến mức

160 kg P2O5/ha (Trần Văn Minh, 2004). Kết

quả nghiên cứu bƣớc đầu của Lê Văn Hải,

giống ngô lai HQ2000 đạt năng suất và hiệu

quả kinh tế cao nhất ở mức phân bón 160N +

120P2O5 + 160K2O (Lê Văn Hải, 2002).

Tuy nhiên, việc nghiên cứu ảnh hƣởng của

mức bón lân đến giống ngô TPTD QPM -

QP4 và giống ngô thƣờng - LVN10 ở vùng

trung du và miền núi phía Bắc thì chƣa đƣợc

nghiên cứu ở nƣớc ta.

Xuất phát từ nhu cầu lý luận và thực tiễn trên,

chúng tôi thực hiện đề tài "Nghiên cứu ảnh

hưởng của liều lượng lân đến sinh trưởng,

phát triển và năng suất của giống ngô chất

* Tel: 0983360276; Email:[email protected]

lượng protein cao (QPM) - QP4 và ngô

thường - LVN10 tại Thái Nguyên".

VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP

Vật liệu nghiên cứu

Giống ngô QP4 là giống ngô chất lƣợng

protein cao có triển vọng; LVN10 là giống

ngô thƣờng; Phân lân Supe (16% P2O5).

Phƣơng pháp nghiên cứu

Thí nghiệm trong 3 vụ: Xuân 2005, Thu Đông

2005 và Xuân 2006 tại Trƣờng Đại học Nông

Lâm Thái Nguyên, trên đất cát pha bạc màu.

Thí nghiệm hai nhân tố đƣợc bố trí theo kiểu

Split - plot, 3 lần nhắc lại, phân lân là nhân tố

chính gồm 5 công thức: P1 - 0P2O5 (đối

chứng); P2 - 40P2O5; P3 - 80P2O5; P4 -

120P2O5; P5 - 160P2O5 (trên nền: 10 tấn phân

chuồng + 120N + 80K2O) và hai nhân tố phụ

là G1 - QP4 và G2 - LVN10. Diện tích thí

nghiệm ô chính là 44,1 m2 (10,5 x 4,2 m), ô

phụ là 21 m2 (5 x 4,2 m); Gieo 6 hàng/ô với

khoảng cách cây 70 x 25 cm. Quy trình kỹ

thuật theo Viện Nghiên cứu Ngô và

CIMMYT, Quy phạm khảo nghiệm phân bón

10TCN216-95.

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

Ảnh hƣởng của các mức lân đến thời gian

sinh trƣởng

Số liệu Bảng 1 cho thấy, ảnh hƣởng của lân đến

thời gian sinh trƣởng qua các công thức (trung

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 27: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trần Trung Kiên và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 23 - 27

24

bình ba vụ) thể hiện rất rõ. Bón lân tăng làm rút

ngắn thời gian sinh trƣởng, ở mức lân 160P2O5

cây ngô sinh trƣởng ngắn hơn 6 ngày (QP4) và

7 ngày (LVN10) so với không bón lân (0P2O5).

Ảnh hƣởng của mức bón lân đến các giống ở vụ

Xuân ít hơn ở vụ Thu Đông 2 ngày (QP4) và 3

ngày (LVN10); ảnh hƣởng đến giống QPM -

QP4 ít hơn giống ngô thƣờng - LVN10.

Ảnh hưởng của lân đến các đặc điểm

hình thái

Trung bình của ba vụ thí nghiệm cho thấy,

ảnh hƣởng của lân đến chiều cao cây và chiều

cao đóng bắp của các giống rất rõ, bón tăng

lân làm tăng chiều cao cây và chiều cao đóng

bắp, ở mức 160P2O5 làm tăng thêm 11,8%

(QP4) và 15,6% (LVN10) so với không bón

lân (0P2O5). Giống QP4 có chiều cao cây và

chiều cao đóng bắp thấp hơn giống LVN10,

đồng thời ảnh hƣởng của lân đến chiều cao

cây ít hơn so với LVN10 (Bảng 2). Ảnh

hƣởng của các mức lân đến chiều cao cây ở

vụ Thu Đông cao hơn ở vụ Xuân.

Ảnh hƣởng của lân đến số lá của các giống

không rõ. Hai giống QP4 và LVN10 có số lá

tƣơng đƣơng nhau (Bảng 3). Ảnh hƣởng của

lân đến chỉ số diện tích lá của các giống rất

rõ, tăng dần theo mức bón lân tăng, mức

160P2O5 làm tăng thêm 39,1% ở QP4 và

44,7% ở LVN10 so với không bón lân

(0P2O5). Nhƣ vậy, lân ảnh hƣởng không lớn

đến số lá nhƣng làm tăng chỉ số diện tích lá

góp phần tăng năng suất sau này. Ảnh hƣởng

của mức bón lân đến các giống ở vụ Xuân

cao hơn ở vụ Thu Đông; đồng thời ảnh

hƣởng đến giống QPM - QP4 thấp hơn giống

ngô thƣờng - LVN10.

Bảng 1. Ảnh hƣởng của liều lƣợng lân đến thời gian sinh trƣởng

của giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10

Đơn vị tính: Ngày

CTPB Giống

Thời gian từ gieo đến

Tung phấn Phun râu Chín

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0P2O5

QP4 72 62 72 69 76 66 76 73 121 116 120 119

LVN10 76 66 75 72 80 70 80 77 127 124 125 125

40P2O5 QP4 70 59 69 66 73 62 72 69 120 114 117 117

LVN10 73 62 71 69 76 65 74 72 125 120 122 122

80P2O5 QP4 69 57 67 64 71 59 69 66 119 112 115 115

LVN10 71 60 69 67 74 62 72 69 124 117 120 120

120P2O5 QP4 68 56 66 63 70 58 68 65 118 110 114 114

LVN10 70 58 68 65 72 60 70 67 123 115 119 119

160P2O5 QP4 68 56 66 63 70 58 68 65 117 109 114 113

LVN10 70 57 68 65 72 59 70 67 122 115 118 118

Bảng 2. Ảnh hƣởng của lân đến chiều cao cây, chiều cao đóng bắp

của giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10

CTPB Giống Cao cây (cm) Cao đóng bắp (cm)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0P2O5

QP4 183,1 186,8 180,6 183,5 97,8 100,5 97,6 98,6

LVN10 199,9 194,2 195,7 196,6 108,3 114,4 111,5 111,4

40P2O5 QP4 189,7 192,3 186,7 189,6 99,9 100,9 97,9 99,6

LVN10 209,7 210,0 205,6 208,4 115,8 118,3 115,1 116,4

80P2O5 QP4 195,5 197,9 191,6 195,0 104,8 102,6 98,7 102,0

LVN10 219,0 219,5 214,6 217,7 120,2 119,5 118,0 119,2

120P2O5 QP4 200,7 207,6 198,2 202,2 105,0 105,4 103,3 104,6

LVN10 223,3 226,4 221,0 223,6 122,9 121,7 118,3 121,0

160P2O5 QP4 203,3 210,9 201,5 205,2 107,5 107,0 108,4 107,6

LVN10 226,6 230,3 224,8 227,2 122,2 125,6 120,7 122,8

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 28: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trần Trung Kiên và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 23 - 27

25

Ảnh hưởng của lân đến khả năng chống chịu

Trung bình ba vụ cho thấy, mức bón lân ảnh

hƣởng rất rõ đến tỷ lệ đổ rễ và gãy thân, bón

lân tăng làm giảm tỷ lệ đổ rễ và gãy thân,

mức 120P2O5 có tỷ lệ đổ rễ thấp nhất và cao

nhất là ở mức 0P2O5; ở mức 120P2O5 -

160P2O5 có tỷ lệ gãy thân thấp hơn ở mức

0P2O5 - 80P2O5. Ảnh hƣởng của các mức bón

lân đến tỷ lệ đổ rễ và gãy thân ở vụ Thu Đông

ít hơn ở vụ Xuân.

Mức bón lân khác nhau cũng ảnh hƣởng đến

mức độ nhiễm sâu đục thân và bệnh khô vằn,

bón lân tăng làm giảm tỷ lệ nhiễm sâu bệnh.

Mức bón 120P2O5 - 160P2O5 có tỷ lệ nhiễm sâu

đục thân thấp hơn ở mức 0P2O5 - 80P2O5. Ở

mức 120P2O5 bị nhiễm bệnh khô vằn thấp nhất

trong cả hai giống. Ảnh hƣởng của các mức bón

lân đến tỷ lệ nhiễm sâu đục thân và bệnh khô

vằn ở vụ Thu Đông ít hơn ở vụ Xuân.

Nhƣ vậy, bón lân có ảnh hƣởng đến khả năng

chống chịu của giống QP4 và LVN10, bón

mức lân cao 120P2O5 - 160P2O5 ngô có khả

năng chống chịu tốt hơn ở mức 0P2O5 -

80P2O5. Giống QP4 có khả năng chống đổ rễ,

gãy thân và sâu bệnh tốt hơn LVN10.

Ảnh hƣởng của lân đến các yếu tố cấu

thành năng suất và năng suất

Mức lân ảnh hƣởng lớn đến chiều dài bắp,

mức lân tăng thì chiều dài bắp cũng tăng, ở

mức 160P2O5 chiều dài bắp tăng hơn 23,7%

(QP4) và 31,1% (LVN10); đồng thời đƣờng

kính bắp cũng tăng 26,3% (QP4) và 28,2%

(LVN10) so với không bón lân (0P2O5).

Ảnh hƣởng của lân đến số hàng hạt/bắp

không lớn, biến động từ 13,6 (0P2O5) -

14,4 hàng (120P2O5) ở QP4 và từ 13,2

(0P2O5) - 14,1 hàng (120P2O5) ở LVN10.

Giống QP4 có số hàng hạt/bắp trung bình

cao hơn giống LVN10 từ 3 - 4 hàng.

Lân ảnh hƣởng lớn đến số hạt/hàng và khối

lƣợng 1000 hạt. Mức lân tăng thì số

hạt/hàng cũng tăng, ở mức 160P2O5 tăng

thêm 26,6% (QP4) và 30,7% (LVN10);

cùng theo đó khối lƣợng 1000 hạt cũng

tăng thêm 16,7% (QP4) và 14,3% (LVN10)

so với không bón lân (0P2O5).

Năng suất lý thuyết (NSLT) trung bình ba vụ

của các giống cũng tăng khi các mức lân tăng

từ 0P2O5 - 160P2O5, biến động từ 52,6 - 84,2

tạ/ha (QP4) và từ 54,8 - 91,1 tạ/ha (LVN10).

Nhƣ vậy, ở mức 160P2O5 năng suất lý thuyết

tăng thêm 60,1% (QP4) và 66,2% (LVN10)

so với không bón lân (0P2O5). Ảnh hƣởng của

lân đến năng suất thực thu (NSTT) trung bình

ba vụ đƣợc thể hiện rõ nhất, tăng theo các

mức lân tăng. Năng suất thực thu biến động

từ 28,8 (0P2O5) - 54,5 tạ/ha (160P2O5) ở QP4

và từ 29,8 (0P2O5) - 60,3 tạ/ha (160P2O5) ở

LVN10, Ở mức 160P2O5, năng suất thực thu

tăng hơn 89,2% ở QP4 và 102,4% ở LVN10

so với không bón lân (0P2O5). Ảnh hƣởng của

các mức bón lân đến năng suất thực thu ở vụ

Thu Đông ít hơn ở vụ Xuân (Bảng 4b).

Bảng 4a. Ảnh hƣởng của các mức lân đến các yếu tố cấu thành năng suất

và năng suấtcủa giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10

CT

PB Giống

Dài bắp

(cm)

Đƣờng kính bắp

(cm)

HH/

bắp

(hàng)

Hạt/hàng

(hạt)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0P2O5

QP4 13,0 13,4 12,8 13,1 3,9 3,8 3,7 3,8 13,6 26,6 26,5 25,7 26,3

LVN10 13,6 13,9 13,0 13,5 4,0 3,8 3,8 3,9 13,2 28,0 27,6 26,6 27,4

40P2O5 QP4 14,3 14,3 14,0 14,2 4,1 4,3 4,1 4,2 14,0 29,7 30,5 28,7 29,6

LVN10 14,9 15,2 14,5 14,9 4,3 4,3 4,3 4,3 13,7 30,2 31,6 29,2 30,3

80P2O5 QP4 15,1 15,0 14,5 14,9 4,3 4,6 4,4 4,4 14,2 31,1 33,8 30,0 31,6

LVN10 16,4 16,4 16,5 16,4 4,5 4,7 4,7 4,6 13,9 33,0 34,9 32,5 33,5

120P2O5 QP4 15,8 15,7 15,9 15,8 4,5 4,9 4,7 4,7 14,4 31,8 35,0 31,9 32,9

LVN10 17,0 17,5 17,8 17,4 4,8 5,1 4,9 4,9 14,1 34,5 36,8 34,6 35,3

160P2O5 QP4 16,0 16,0 16,5 16,2 4,6 4,9 4,8 4,8 14,4 31,9 35,4 32,5 33,3

LVN10 17,3 17,9 18,0 17,7 4,9 5,2 5,0 5,0 14,1 34,7 37,3 35,3 35,8

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 29: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trần Trung Kiên và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 23 - 27

26

Bảng 4b. Ảnh hƣởng của các mức lân đến các yếu tố cấu thành năng suất

và năng suất của giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10

CT

PB Giống

P1000hạt (g) NSLT (tạ/ha) NSTT (tạ/ha)

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

0P2O5

QP4 260,1 279,0 265,3 268,1 49,0 58,5 50,3 52,6 25,3 32,3 28,9 28,8

LVN10 280,7 290,7 279,5 283,6 52,4 59,3 52,7 54,8 27,6 31,2 30,5 29,8

40P2O5 QP4 287,7 300,5 284,0 290,7 65,2 70,8 64,0 66,7 35,7 42,7 39,0 39,1

LVN10 299,5 305,0 298,7 301,1 68,7 71,0 68,9 69,5 39,0 43,8 42,1 41,6

80P2O5 QP4 296,3 311,3 294,0 300,5 70,5 80,0 72,6 74,4 44,5 50,3 47,0 47,3

LVN10 310,0 316,7 306,7 311,1 78,3 84,1 79,4 80,6 48,3 53,7 51,9 51,3

120P2O5 QP4 307,1 317,1 309,3 311,2 77,5 87,7 80,7 82,0 50,5 55,5 54,3 53,4

LVN10 321,6 325,0 317,0 321,2 85,4 92,3 86,8 88,2 56,7 61,7 59,7 59,4

160P2O5 QP4 308,7 318,6 311,1 312,8 79,9 89,5 83,3 84,2 51,7 56,8 55,0 54,5

LVN10 325,0 328,3 319,4 324,2 89,2 93,9 90,1 91,1 57,9 62,1 60,9 60,3

Bảng 5. Ảnh hƣởng của mức 160P2O5 so với mức 0P2O5 ở một số chỉ tiêu chính

đối với hai giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10

Chỉ tiêu Đơn vị

tính

QP4 LVN10

X.05 TĐ.05 X.06 TB X.05 TĐ.05 X.06 TB

Thời gian sinh trƣởng Ngày - 4 - 7 - 6 - 6 - 5 - 9 - 7 - 7

Chiều cao cây % + 11,0 + 12,9 + 11,6 + 11,8 + 13,4 + 18,6 + 14,9 + 15,6

Chỉ số diện tích lá % + 45,8 + 37,0 + 34,6 + 39,1 + 54,2 + 39,3 40,7 + 44,7

Năng suất thực thu % + 104,3 + 75,9 + 90,3 + 90,2 + 109,8 + 99,0 + 99,7 + 102,8

Qua xử lý thống kê ở ba vụ cho thấy, tất cả các công thức có bón lân (40P2O5 - 160P2O5) đều có năng suất thực thu cao hơn công thức không bón lân (0P2O5) ở mức tin cậy 99%; Công thức 120P2O5 và 160P2O5 có năng suất thực thu thực thu tƣơng đƣơng nhau ở mức tin cậy 95%. Giống QP4 đạt NSTT trung bình qua các công thức bón lân thấp hơn giống LVN10 ở mức tin cậy 95%.

Trung bình ba vụ thí nghiệm cho thấy, ảnh hƣởng của các liều lƣợng lân đến một số chỉ tiêu chính của giống QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10 rất rõ. Ở công thức 160P2O5, kết quả các chỉ tiêu đạt đƣợc tăng thêm nhiều so với đối chứng không bón lân (0P2O5) (Bảng 5). Ảnh hƣởng của các mức lân đến các chỉ tiêu chính của giống QPM - QP4 thấp hơn so với giống ngô thƣờng - LVN10.

Hiệu quả kinh tế qua các công thức bón lân

Ở mức không bón lân (0P2O5) do năng suất thực thu trung bình ba vụ của hai giống QP4 và LVN10 đạt rất thấp nên hiệu quả kinh tế đạt thấp nhất. Với mức bón 120P2O5 ở cả hai giống QP4 và LVN10 đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.

Tóm lại, ảnh hƣởng của lân đến các giống ngô rất rõ rệt, năng suất ngô tăng lên cùng với việc

tăng liều lƣợng lân, kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Evangelista (1999).

KẾT LUẬN

Kết quả trung bình ba vụ thí nghiệm cho thấy: So với mức lân 0P2O5 thì ở mức 160P2O5 thời gian sinh trƣởng rút ngắn 6 ngày ở giống QP4 và 7 ngày ở giống LVN10; Chiều cao cây tăng 11,8% (QP4) và 15,6% (LVN10); Chỉ số diện tích lá tăng 39,1% (QP4) và 44,7% (LVN10); Năng suất tăng 90,2% (QP4) và 102,8% (LVN10).

Với hai giống ngô QPM - QP4 và ngô thƣờng - LVN10, ở mức lân 120P2O5 cả năng suất và hiệu quả kinh tế đều đạt cao nhất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Afendulop K.P. (1972), Ảnh hưởng của phân

bón đến quá trình phát triển các cơ quan của cây

ngô (tài liệu dịch), Một số kết quả nghiên cứu của

cây ngô, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

[2]. Chudry G.A., Ghulam - Habib, Muh amad

Sadg, Khan. M.A., Eff of Nitrogen, Phosphorus

and plant population on gain afield of dryland

maize.

[3]. CIMMYT (2001), The Quality Protein

Maize Revolution (Nguyễn Tiến Trƣờng, Lê

Quý Kha dịch).

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 30: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trần Trung Kiên và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 23 - 27

27

[4]. Cook. G.W. (1975), Fertilizing for maximum

yield.

[5]. De. Geus (1973), Fertilizer guide for tropic

and sutropic.

[6]. G. F. Sprague, J. W. Dudley (1988), Corn and

corn improvement.

[7]. Lê Văn Hải (2002), Nghiên cứu phản ứng của

giống ngô lai chất lượng protein cao HQ2000 với

phân bón trên đất bạc màu huyện Hiệp Hòa - Bắc

Giang, Luân văn Thạc sỹ khoa học Nông nghiệp.

[8]. Trần Trung Kiên, Phan Xuân Hào (2007),

Ảnh hƣởng của liều lƣợng đạm đến sinh trƣởng,

phát triển và năng suất của giống ngô chất lƣợng

protein cao (QPM) - QP4 và ngô thƣờng - LVN10

tại Thái Nguyên, Tạp chí Khoa học và Công nghệ

nông nghiệp Việt Nam, Số 4(5)/2007.

9, Trần Văn Minh (2004), Cây ngô - nghiên cứu

và sản xuất, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

SUMMARY

THE EFFECT OF PHOSPHORUS DOSAGES ON THE GROWTH,

DEVELOPMENT AND GRAIN YEILD OF QUALITY PROTEIN MAIZE

VARIETY (QPM) - QP4 AND NORMAL MAIZE VARIETY - LVN10

IN THAI NGUYEN

Tran Trung Kien

1*, Bui Van Quang

2

1 College of Agriculture and Forestry - TNU, 2 Quang Ninh Province Farmers Association

Experiment on 5 levels of phosphorus, as the main plots, combined with 2 varieties, as subplots,

was undertaken in Thai Nguyen in the 2005 spring, in the 2005 winter - autumn and in the 2006

spring crop of corn. This experiment was arranged as Split - plot design having 3 replicates. Five

main plots are P1 - 0P2O5; P2 - 40P2O5; P3 - 80P2O5; P4 - 120P2O5; P5 - 160P2O5 and two subplots

are G1 - QP4 (QPM); G2 - LVN10 (normal maize). The research results (average of three crop)

showed that: The mutunity durations of corn varieties at the level of 160P2O5 shorter than the

control 6 days for QP4 and 7 days for LVN10; Plant's height increased 11,8% for QP4 and by

15,6% for LVN10; Leaf area index increased 39,1% for QP4 and by 44,7% for LVN10; Grain

yield increased 90,2% for QP4 and by 102,8% for LVN10. At the level of 120P2O5, QP4 (QPM)

and LVN10 (normal maize) reached the highest yield and economic effectiveness.

Key words: Economic effectiveness, grain yield, quality protein maize, phosphorus

* Tel: 0983360276; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 31: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trần Trung Kiên và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 23 - 27

28

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 32: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 29 - 33

29

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA PHÂN BÓN HỮU CƠ VI SINH SẢN XUẤT TẠI CHỖ

ĐẾN SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN CỦA GIỐNG LÖA CTA 88 TẠI TỈNH LÀO CAI

Đặng Văn Minh1*

, Nguyễn Văn Tâm1, Lê Thị Thu

2 1Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên;

2Trạm Khuyến nông huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai

TÓM TẮT

Nghiên cứu sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh chế biến tại chỗ đƣợc tiến hành tại tỉnh

Lào Cai. Nghiên cứu bao gồm hai thí nghiệm. Thí nghiệm 1, sử dụng chế phẩm sinh học EMUNIV

để xử lý rơm rạ, chất độn chuồng thành phân hữu cơ. Thí nghiệm 2, tác giả sử dụng phân hữu cơ vi

sinh đƣợc chế biến từ thí nghiệm 1 để nghiên cứu sự ảnh hƣởng của chúng tới sinh trƣởng, phát

triển của giống lúa CTA 88. Thí nghiệm gồm 7 công thức, sử dụng hai loại phân đƣợc chế biến từ

rơm rạ và chất độn chuồng với các mức bón 3 tấn, 6 tấn, 9 tấn trên ha với mức nền 60N + 60P2O5

+ 50 K20. Hầu hết các công thức đƣợc bón thêm phân hữu cơ đều có năng suất cao hơn công thức

đối chứng, đặc biệt là các công thức bón ở mức 9 tấn/ha.

Từ khóa: Phân hữu cơ, lúa, vụ mùa, Coc San

ĐẶT VẤN ĐỀ

Thực trạng môi trƣờng nông thôn Việt Nam

hiện nay đang có nhiều vấn đề tồn tại. Một

trong những tồn tại đó là sự phát sinh rác thải

sinh hoạt đặc biệt là các chất thải từ phế phụ

phẩm nông nghiệp. Đa số ngƣời nông dân

thƣờng nghĩ rằng phế phụ phẩm nông nghiệp

là rác thải và là thứ bỏ đi. Họ tìm cách loại bỏ

nó hoặc tìm cách đốt bỏ các loại phế phụ

phẩm sau khi thu hoạch nông nghiệp. Điều

này sẽ gây ô nhiễm môi trƣờng và lãng phí

nguồn nguyên liệu phân bón vì đa số phế phụ

phẩm nông nghiệp đều là các chất hữu cơ nên

dễ dàng phân huỷ nếu có biện pháp xử lý hợp

lý. Tuy nhiên việc sử dụng phân bón hữu cơ

cho lúa đã trở thành nhu cầu không thể thiếu

đƣợc với nông dân vùng xuôi, nhƣng vẫn

chƣa đƣợc thực sự coi trọng ở nhiều địa

phƣơng do nhận thức của ngƣời dân chƣa đầy

đủ và thiếu nguồn phân bón hữu cơ (Nguyễn

Văn Bộ, 2003). Để giải quyết các khó khăn

trên, hiện nay có nhiều phƣơng pháp sử dụng

các chế phẩm vi sinh vật để xử lý rác và phụ

phẩm nông nghiệp làm phân bón và cải tạo

đất (Jones P.T.C and Mollison J.L,.1984; Lê

Văn Nhƣợng, 2001; Phạm Văn Toản, 2004;

Nguyễn Mỹ Hoa; 2008).

Trên địa bàn xã Cốc San, huyện Bát Xát, tỉnh

Lào Cai, mặc dù một khối lƣợng lớn phế phụ

Tel:0912334310; Email:[email protected]

phẩm nông nghiệp (5,36 tấn/hộ/năm) (Số liệu

điều tra năm 2009) đang bị lãng phí nhƣng

các hộ nông dân lại bỏ ra một lƣợng tiền lớn

để mua phân hóa học (0,147 tấn/hộ/năm) (Số

liệu điều tra 2009) phục vụ cho sản xuất nông

nghiệp. Điều này không chỉ làm tăng chi phí

trong sản xuất nông nghiệp và còn ảnh hƣởng

nghiêm trong đến hệ sinh thái. Vì vậy việc xử

lý phế phụ phẩm nông nghiệp làm phân bón

phục vụ sản xuất nông nghiệp không chỉ tận

dụng đƣợc nguồn rác thải mà còn đem lại

nhiều lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trƣờng.

VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP

THÍ NGHIỆM

Nghiên cứu đƣợc tiến hành trong năm 2009

và 2010 tại xã Cốc San, huyện Bát Xát, tỉnh

Lào Cai. Bao gồm 2 nội dung:

Nội dung 1: Xử lý một số phế phẩm nông

nghiệp thành phân hữu cơ bằng chế phẩm

sinh học EMUNIV

- Công thức thí nghiệm gồm:

+ Công thức 1: 800kg rơm + 100kg phân

chuồng + 1 gói EMUNIV 500g.

+ Công thức 2: 800kg chất độn chuồng + 1

gói EMUNIV 500g.

- Quy trình xử lý:

Nguyên liệu, phân chuồng đƣợc chia làm 6

phần. Một gói chế phẩm EMUNIV 500g đƣợc

hòa tan vào 20 lít nƣớc. Rải đều một lớp

nguyên liệu rồi đến một lớp phân chuồng và

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 33: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 29 - 33

30

tƣới một lớp chế phẩm EMUNIV, cứ nhƣ vậy

cho đến khi hết nguyên liệu. Sau khi ủ xong,

ta phải che đậy đống ủ bằng bạt, bao tải hoặc

nilon. Cứ khoảng 10 - 15 ngày tiến hành đảo

trộn một lần.

- Chất lƣợng phân bón đƣợc phân tích tại Trung tâm tài nguyên và bảo vệ môi trƣờng tỉnh Vĩnh Phúc

Nội dung 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của phân hữu cơ được sản xuất từ rơm, chất độn chuồng đến sinh trưởng, phát triển của giống lúa CTA 88

- Thời gian, địa điểm: Vụ mùa năm 2010 tại xã Cốc San, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

- Vật liệu nghiên cứu: Giống lúa CTA 88 nhập nội từ Thái Lan

- Công thức thí nghiệm: gồm 7 công thức

+ Công thức 1: 60N +60 P2O5 + 50 K2O + 3 tấn phân hữu cơ từ rơm rạ

+ Công thức 2: 60N + 60 P2O5 + 50 K2O + 6 tấn phân hữu cơ từ rơm rạ

+ Công thức 3: 60N +60 P2O5 + 50 K2O + 9 tấn phân hữu cơ từ rơm rạ

+ Công thức 4 : 60N +60 P2O5 + 50 K2O + 3 tấn phân hữu cơ từ chất độn chuồng

+ Công thức 5: 60N +60 P2O5 + 50 K2O + 6 tấn phân hữu cơ từ chất độn chuồng

+ Công thức 6: 60N +60 P2O5 + 50 K2O + 9

tấn phân hữu cơ từ chất độn chuồng

+ Công thức 7 (đối chứng): 60N +60 P2O5 +

50 K2O

- Phƣơng pháp bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm

đƣợc bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn

chỉnh với ba lần nhắc lại (diện tích mỗi ô 2,5

m x 3m)

- Các chỉ tiêu theo dõi đƣợc tiến hành bằng

phƣơng pháp nghiên cứu của Viện nghiên cứu

lúa quốc tế (IRRI).

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Thành phần các chất dinh dƣỡng trong sản

phẩm phân bón đƣợc chế biến từ phế phụ

phẩm nông nghiệp.

Chất lƣợng sản phẩm phân bón chế biến từ

chất độn chuồng và rơm đƣợc xử lý bằng

EMUNIV đều có chất lƣợng tốt, pH của hai

loại phân đều thuộc khoảng trung tính. Hàm

lƣợng N tổng số và P2O5 tổng số của hai loại

sản phẩm là ngang nhau. Tuy nhiên, hàm

lƣợng K2O tổng số của sản phẩm đƣợc chế

biến từ rơm rất cao, chiếm 3,10% (Bảng 1).

Ảnh hƣởng của các công thức bón phân

hữu cơ vi sinh đến chiều cao cây của giống

lúa CTA 88

Chiều cao cây của cây lúa chính là kết quả

của sự tăng trƣởng thân lá. Chiều cao cây phụ

thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ nhiệt độ, ánh

sáng, phân bón….

Bảng 1. Chất lƣợng của các sản phẩm phân bón hữu cơ

Tên mẫu

Các chỉ tiêu

pHKCl Mùn (%) N TS (%) P2O5 TS

(%)

P2O5

(mg/100g)

K2O TS

(%)

Rơm + EMUNIV 7,05 22,11 1,56 0,784 26,11 3,10

Chất độn chuồng + EMUNIV 7,32 25,41 1,45 0,982 32,10 2,02

Bảng 2: Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến chiều cao cây của giống lúa CTA 88

Đơn vị: cm

Công thức Tuần sau đẻ nhánh

2 4 6 8

CT 1 51.90 74.86 94.09 109.66

CT 2 49.60 70.00 93.30 108.16

CT 3 51.86 70.43 91.96 111.66

CT 4 53.26 76.90 98.83 107.80

CT 5 49.60 74.60 96.30 110.00

CT 6 52.13 77.36 98.03 107.66

CT đ/c 53.06 75.56 96.66 112.60

CV % 4.0 4.7 4.2 4.1

LSD0,05 3.66 6.15 7.06 7.96

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 34: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 29 - 33

31

Kết quả nghiên cứu ở bảng 2 cho thấy: Chiều

cao cây tăng dần qua các tuần theo dõi. Tuy

nhiên chiều cao cây của các công thức thí

nghiệm khác nhau không nhiều. Điều đó cho

thấy các công thức phân bón khác nhau không

ảnh hƣởng nhiều đến chiều cao cây ở các giai

đoạn sinh trƣởng phát triển.

Ảnh hƣởng của các công thức bón phân

hữu cơ vi sinh đến số nhánh đẻ của giống

lúa CTA 88

Số nhánh đẻ là một chỉ tiêu quan trọng có liên

quan chặt chẽ đến quá trình hình thành số

bông hữu hiệu và năng suất thu hoạch.

Kết quả nghiên cứu (Bảng 3) cho thấy:

- Giai đoạn từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 4 sau

đẻ nhánh, giai đoạn cây lúa đã phát triển

tƣơng đối hoàn chỉnh, cùng với thời tiết rất

thuận lợi cho đẻ nhánh, đặc biệt là chế độ

nƣớc tƣới phù hợp nên tốc độ đẻ nhánh đạt

cao nhất.

- Từ tuần thứ 4 đến tuần thứ 8 sau đẻ nhánh,

mặc dù số nhánh/khóm vẫn tiếp tục tăng

nhƣng với tốc độ thấp hơn, và số nhánh lúa

gần nhƣ đạt tối đa ở tuần thứ 8 sau đẻ nhánh.

Ở tuần này, số nhánh ở các công thức dao

động từ 12.25 nhánh/khóm đến 17.66

nhánh/khóm. Các công thức 2, 3, 5, 6 số

nhánh/khóm có sự sai khác với công thức đối

chúng ở mức tin cậy 95 %. Công thức 1, 4 số

nhánh/khóm không có sự sai khác so với công

thức đối chúng.. Điều này cho thấy, các công

thức khác nhau có ảnh hƣởng lớn đến số

nhánh. Số nhánh/khóm thƣờng tăng theo

lƣợng phân bón tăng.

Ảnh hƣởng của các công thức bón phân

hữu cơ vi sinh đến khả năng tích luỹ vật

chất khô của giống lúa CTA 88

Khả năng tích luỹ vật chất khô là một chỉ tiêu

quan trọng ảnh hƣởng tới năng suất. Khả

năng tích luỹ chất khô của cây lúa càng cao

thì tiềm năng cho năng suất càng lớn.

Bảng 3. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến số nhánh đẻ của giống lúa CTA 88

Đơn vị: nhánh/khóm

Công thức Tuần sau đẻ nhánh

2 4 6 8

CT 1 5.85 10.60 12.50 14.63

CT 2 7.00 11.80 13.66 15.60

CT 3 6.90 11.16 16.06 17.33

CT 4 6.16 11.06 12.91 12.25

CT 5 7.58 12.20 14.58 16.76

CT 6 7.41 11.00 15.43 17.66

CT đ/c 7.58 10.20 12.41 12.73

CV % 9.7 12.3 14.0 14.3

LSD0,05 1.17 2.39 3.42 3.83

Bảng 4. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến khả năng tích luỹ vật chất khô

của giống lúa CTA 88

Đơn vị: g/khóm

Công thức Giai đoạn sinh trƣởng

Đẻ nhánh hữu hiệu Trỗ bông Chín sáp

CT 1 6.06 15.06 21.00

CT 2 6.56 18.83 25.86

CT 3 6.66 19.20 26.73

CT 4 6.06 17.00 23.66

CT 5 6.23 17.63 24.20

CT 6 6.36 18.43 24.80

CT đ/c 5.76 16.00 22.06

CV % 3.8 2.3 2.6

LSD0,05 0.41 0.69 1.07

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 35: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 29 - 33

32

Kết quả thể hiện ở bảng 4 cho thấy:

- Giai đoạn đẻ nhánh hữu hiệu: Khả năng tích

luỹ vật chất khô dao động từ 5,76 – 6,66

g/khóm. Trong đó các công thức 2, 3, 5, 6

cao hơn công thức đối chứng, sai khác có ý

nghĩa ở mức độ tin cậy 95%, các công thức

còn lại đều không sai khác so với đối chứng.

- Thời kỳ trổ bông: Qua theo dõi ta thấy khả

năng tích luỹ vật chất khô của giống lúa

CTA88 trong các công thức thí nghiệm dao

động từ 15.06 - 19.20 g/khóm. Trong đó công

thức 3 có kết quả cao nhất đạt 19,20 g/khóm

- Thời kỳ chín sáp: Giai đoạn này lƣợng vật

chất khô tích lũy đƣợc trong cây đạt khá cao

(từ 21.00 - 26.73 g/khóm), đạt cao nhất ở

công thức 3. Sự ảnh hƣởng của các mức phân

bón trong giai đoạn này thể hiện rõ nhất khi

bón phân hữu cơ chế biến từ rơm ra. Khi tăng

mức phân bón từ 3 tấn/ha lên 9 tấn/ha đã làm

tăng mạnh khối lƣợng chất khô.

Ảnh hƣởng của các công thức bón phân

hữu cơ vi sinh đến yếu tố cấu thành năng

suất và năng suất của giống lúa CTA 88

Năng suất lúa là yếu tố quan trọng nhất phản

ánh kết quả sinh trƣởng, phát triển của cây

lúa. Năng suất lúa đƣợc tạo thành bởi các yếu

tố nhƣ: Số bông/m2, số hạt chắc/bông và khối

lƣợng 1000 hạt.

- Số bông/m2: Trong các yếu tố cấu thành

năng suất lúa thì số bông là yếu tố có tính

chất quyết định nhất và sớm nhất. Trong thí

nghiệm ta thấy số bông/m2 là yếu tố có biến

động lớn và chịu ảnh hƣởng rất rõ của các

công thức bón phân, giữa các công thức số

bông/m2 dao động từ 620.50 đến 720.82

bông/m2.

- Số hạt chắc/bông: Số hạt chắc/bông trong

các công thức thí nghiệm đạt từ 67.77 đến

73.33 hạt chắc/bông, trong đó đạt cao nhất ở

công thức 6. Điều đó cho thấy công thức 6 đạt

hiệu quả cao nhất trong việc quyết định số hạt

chắc trên bông.

- Trọng lƣợng 1000 hạt: Trọng lƣợng 1000

hạt là yếu tố phụ thuộc rất nhiều vào bản chất

di truyền giống. Tuy nhiên trong thực tế,

trọng lƣợng 1000 hạt sẽ đạt gần giá trị tuyệt

đối của giống khi đƣợc thâm canh hợp lý.

- Năng suất lý thuyết: Năng suất lý thuyết thể

hiện tiềm năng cho năng suất của giống.

Trong các công thức thí nghiệm, năng suất

đạt từ 101.76 đến 130,40 tạ/ha. Năng suất lý

thuyết đạt cao nhất ở công thức 6.

- Năng suất thực thu: Năng suất thực thu là

yếu tố đƣợc quan tâm nhất. Năng suất thực

thu trong các công thức đạt khá cao từ 56.33

đến 67.03 tạ/ha. Tất cả các công thức thí

nghiệm đều có năng suất cao hơn công thức

đối chứng, sự sai khác chắc chắn ở mức tin

cậy 95%. Ảnh hƣởng của phân bón đến năng

suất thực thu cho thấy, năng suất thực thu

tăng khi bón tăng lƣợng phân hữu cơ và

năng suất thực thu đạt cao nhất khi bón với

lƣợng 9 tấn/ha.

Bảng 5. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đến yếu tố cấu thành

năng suất và năng suất của giống lúa CTA 88

Công thức Các chỉ tiêu theo dõi

Số bông/m2

Tổng hạt/bông Hạt hắc/bông P1000 hạt (g) NSLT (tạ/ha) NSTT (tạ/ha)

CT 1 670,34 80,30 70,23 24,87 117.08 61.63

CT 2 710.64 86,74 68,29 24.82 120.45 64.23

CT 3 716,18 87.57 70.64 25.03 126.63 67.03

CT 4 668.30 85.14 71.33 24.93 118.84 61.53

CT 5 665.13 83.73 72.67 24.93 120.50 63.5

CT 6 720.82 87.66 73.33 24.67 130,40 65.00

CT đ/c 620.50 79.80 67.77 24.20 101.76 56.33

CV % - - - - - 4.5

LSD0,05 - - - - - 4.99

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 36: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 29 - 33

33

KẾT LUẬN

- Các phế phụ phẩm nông nghiệp rất đa dạng

là nguồn nguyên liệu tốt để xử lý thành phân

hữu cơ. Chất lƣợng phân hữu cơ xử lý từ rơm

rạ và chất độn chuồng đều có chất lƣợng tốt.

Trong đó tỷ lệ K2O tổng số của phân hữu cơ

chế biến từ rơm cao hơn (3,10%) phân hữu cơ

chế biến từ chất độn chuồng (1,02%) . Tỷ lệ

các chất dinh dƣỡng khác trong hai loại phân

là tƣơng đƣơng nhau.

- Phân hữu cơ đƣợc chế biến từ rơm rạ và

chất độn chuồng đếu có ảnh hƣởng tích cực

đến số nhánh/khóm, đến khả năng tích lũy vật

chất khô, các yếu tố cấu thành năng suất và

năng suất thực thu. Với mức nền là 60N + 60

P2O5 + 50 K2O thì năng suất thực thu của

giống lúa CTA 88 càng tăng khi bón tăng

lƣợng phân hữu cơ. Bón phân hữu cơ với mức

9 tấn/ha sẽ cho năng suất cao nhất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Nguyễn Văn Bộ (2003), Bón phân cân đối cho

cây trồng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp (tr 24 - 37)

[2]. Dilly.O and blume.H.P (1998), Indicators to

assess sustainable land use with reference to soil

microbiology, Advances in Geoecology 31, Inter.

Soci of Soil Sci (ISSS), 23-48

[3]. Nguyễn Mỹ Hoa, (2008) “Đánh giá chất lƣợng

phân hữu cơ vi sinh – vi sinh đƣợc ủ từ nguồn phế

thải thực vật nông thôn” Tạp chí Khoa học Đất, Số

30/2008

[4]. Lê Văn Nhƣợng (2001), Công nghệ xử lý một

số phế thải nông sản chủ yếu (lá mía, vỏ thải cà

phê, rác thải nông nghiệp) thành phân bón hữu cơ

sinh học. Đề tài KHCN 02-04B (2001)

[5]. Phạm Văn Toản (2004) Nghiên cứu công nghệ

sản xuất phân bón vi sinh vật đa chủng, phân bón

chức năng phục vụ chăm sóc cây trồng cho một số

vùng sinh thái. Đề tài Khoa học cấp Nhà nƣớc

KC.04.04 (2001-2004)

SUMMARY

STUDY THE OFFECTS OF ORGANIC FERTILIZERS PROCESSED IN LOCAL

AREA ON THE GROWTH AND DEVELOPMENT OF THE RICE VARIETY

CTA88 IN LAO CAI PROVINCE

Dang Van Minh1

, Nguyen Van Tam1, Le Thi Thu

2 1College of Agriculture and Forestry- TNU

2Extension station in Bat Xat, Lao Cai province

The study was conducted in Coc San commune, Bat Xat district, Lao Cai province. The study

consists of two experiments. In experiment 1, the authors used the biologic production EMUNIV

to process straws and breeding wastes into organic fertilizers. These organic fertilizers were

analyzed quality and the results showed that their whole quality is very good. In experiment 2, the

authors used the organic fertilizers proceesed in experiment 1 to study their effects on the growth

and development of the rice variety CTA 88. Experiment 2 consists 7 treatments ( including one

control treatment), uses two kinds of organic fertilizers which were processed from straws and

breeding wastes on the levels of 3 tons, 6 tons, 9 tons/ha and 60N + 60P2O5 + 50 K20. Allmost all

treatments which were added organic fertilizers increased rice yields, especially the treatments

with 9 tons/ha.

Keywords: Organic fertilize, rice, summer crop, Coc San

Tel:0912334310; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 37: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 29 - 33

34

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 38: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Viết Hƣng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 35 - 38

35

ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ TRỒNG ĐẾN NĂNG SUẤT GIỐNG LẠC L23

VỤ XUÂN 2010 TRÊN ĐẤT MỘT VỤ TẠI HỮU LŨNG - LẠNG SƠN

Nguyễn Viết Hƣng*

Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Cây lạc có vai trò quan trọng trong công thức luân canh với lúa, góp phần cải tạo đất, cho hiệu quả

kinh tế cao và tăng thu nhập trên đơn vị diện tích. Giống lạc L23 đƣợc trồng trong thí nghiệm vụ

xuân 2010 tại Hữu Lũng - Lạng Sơn với 05 mật độ khác nhau từ 25 - 50 cây/m2. Trong đó, mật độ

trồng lạc L23 càng thƣa cho kết quả về thời gian sinh trƣởng càng dài và khả năng phân cành càng

lớn. Mật độ gieo trồng giống lạc L23 thích hợp nhất trên đất một vụ lúa là 33 cây/m2 (30 x 10 cm).

Từ khóa: Cây lạc, mật độ, năng suất, đất một vụ

ĐẶT VẤN ĐỀ

Lạc (Arachis hypogaea line) là cây công

nghiệp ngắn ngày, cây thực phẩm, cây lấy dầu

có giá trị kinh tế cao, có khả năng cải tạo đất

tốt. Trong những năm gần đây, các nhà khoa

học đã và đang tập trung nghiên cứu, khảo

nghiệm tìm ra những bộ giống lạc thích hợp

nhất cho từng vùng lãnh thổ. Sản xuất lạc Việt

Nam đang tiếp cận dần với tiến bộ khoa học

thế giới, góp phần đẩy mạnh sản xuất, tăng

năng suất và sản lƣợng, dần đáp ứng đƣợc nhu

cầu cho tiêu dùng và công nghiệp chế biến

trong nƣớc và xuất khẩu.

Tuy nhiên hiện nay trong quá trình canh tác

lạc, ngƣời dân vẫn sử dụng các giống cũ và

canh tác theo phƣơng thức truyền thống.

Năng suất cây lạc rất thấp, hiệu quả kinh tế

thấp. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến

hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu tìm ra

mật độ trồng thích hợp nhằm nâng cao năng

suất lạc trên đất một vụ lúa của huyện Hữu

Lũng, tỉnh Lạng Sơn; trên cơ sở đó, góp phần

hoàn thiện quy trình sản xuất lạc trên đất một

vụ lúa của huyện.

PHƢƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM

- Thí nghiệm đƣợc tiến hành trên đất một vụ

với giống lạc L23 và đƣợc bố trí theo phƣơng

pháp khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh gồm 05

công thức, 03 lần nhắc lại. Các công thức thí

nghiệm bao gồm: (1) Mật độ 50 cây/m2 (20 x

10cm). (2) Mật độ 40 cây/m2 (25 x 10cm). (3)

Mật độ 33 cây/m2 (30 x 10cm). (4) Mật độ 25

Tel: 0912386574; Email: [email protected]

cây/m2 (40 x 10cm). (5) Mật độ 29 cây/m

2 (35

x 10cm) (Đ/c). Mật độ đối chứng là mật độ

hiện nay đƣợc ngƣời dân địa phƣơng trồng

phổ biến.

- Diện tích ô thí nghiệm là 8 m2 (1,6m x 5m)

(không kể rãnh).

- Số ô thí nghiệm: 3 x 5 = 15 (ô).

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ảnh hƣởng của mật độ trồng đến các giai

đoạn sinh trƣởng phát triển và khả năng

phân cành của giống lạc L23 vụ Xuân 2010

Mật độ trồng có ảnh hƣởng đến thời gian sinh

trƣởng của lạc L23. Tổng thời gian sinh

trƣởng ở các công thức có chiều hƣớng tăng

dần theo khoảng cách trồng ở các công thức

(từ 110 đến 115 ngày). Nhƣ vậy có nghĩa là

mật độ càng thƣa thì thời gian sinh trƣởng

càng dài.

Mật độ cũng có ảnh hƣởng đến khả năng phân

cành của cây. Khả năng phân cành càng lớn

khi mật độ càng thƣa. Cụ thể qua số liệu bảng

1 ta thấy số cành cấp 1 có sự khác nhau

không chắc chắn giữa các công thức ở độ tin

cậy 95%. Riêng chỉ có công thức 5 có số cành

cao hơn (5,2 cành/cây). Nhƣ vậy số cành cấp

1 không chịu ảnh hƣởng nhiều bởi mật độ.

Số cành cấp 2 có sự khác biệt giữa các công

thức tƣơng đối lớn. So với đối chứng, công

thức 1 có số cành cấp 2 ít hơn 1,2 cành/cây,

công thức 2 ít hơn 0,9 cành/cây, công thức 3

ít hơn 0,2 cành/cây. Riêng có công thức 4

nhiều hơn đối chứng 0,1 cành/cây. Có nghĩa

là số cành cấp 2 ở công thức 1, 2 thấp hơn đối

chứng ở độ tin cậy 95%.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 39: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Viết Hƣng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 35 - 38

36

Ảnh hƣởng của mật độ trồng đến mức độ

nhiễm bệnh ở giống lạc L23 vụ Xuân 2010

Về cơ bản, L23 là một giống kháng bệnh.

Trong vụ Xuân 2010, giống lạc L23 ở các

công thức mật độ khác nhau chỉ nhiễm một số

bệnh thông thƣờng trên cây lạc nhƣ gỉ sắt,

đốm đen, đốm nâu hay héo xanh vi khuẩn ở

mức độ nhẹ và rất nhẹ.

Mức độ nhiễm bệnh ở các công thức đều

tƣơng đƣơng nhau và tƣơng đƣơng đối chứng.

Bệnh gỉ sắt, đốm đen đều ở cấp bệnh 3 (nhẹ),

bệnh héo xanh vi khuẩn ở điểm 1 (nhẹ).

Riêng bệnh đốm nâu, ở các công thức 3, 4, 5

cũng ở cấp bệnh 3 (nhẹ), nhƣng ở công thức

1, 2 thì mức độ nhiễm bệnh cao hơn (cấp 5).

Ảnh hƣởng của mật độ trồng đến các yếu

tố cấu thành năng suất và năng suất

- Ảnh hưởng của mật độ đến tổng số quả/cây:

So với công thức đối chứng, tổng số quả/cây

ở các công thức 1, 2 và 3 thấp hơn từ 1,1 đến

6,7 quả/cây là chắc chắn ở độ tin cậy 95%.

Tổng số quả ở công thức 4 không sai khác so

với đối chứng. Nhƣ vậy tổng số quả/cây ở

công thức 4 và công thức đối chứng là tƣơng

đƣơng nhau và cao hơn các công thức còn lại

chắc chắn ở độ tin cậy 95%.

- Ảnh hưởng của mật độ đến khối lượng 100

hạt: Ở công thức 1 và 2 có khối lƣợng 100 hạt

thấp hơn đối chứng từ 5,2 đến 5,7 g chắc chắn

ở độ tin cậy 95%. Các công thức 3 và 4 có

khối lƣợng 100 tƣơng đƣơng so với đối chứng.

- Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất lý

thuyết: Công thức 1 và công thức 4 cho kết

quả năng suất lý thuyết thấp hơn đối chứng

5,4 - 7,3 tạ/ha và thấp hơn chắc chắn ở độ tin

cậy 95%. Công thức 3 có năng suất lý thuyết

cao nhất đạt 67,5 tạ/ha cao hơn chắc chắn so

với đối chứng 7,8 tạ/ha ở độ tin cậy 95%.

Công thức 2 có năng suất lý thuyết đạt 56,6

tạ/ha tƣơng đƣơng đối chứng.

- Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất thực

thu: Công thức 1 và công thức 4 cho kết quả

năng suất thực thu thấp hơn đối chứng từ 3,7 -

4,0 tạ/ha chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Công

thức 2 cho kết quả năng suất thực thụ cao hơn

đối chứng 1,1 tạ/ha, nhƣng không chắc chắn ở

độ tin cậy 95%. Có nghĩa là năng suất thực

thu ở công thức 2 tƣơng đƣơng với đối chứng.

Riêng chỉ có công thức 3 là cho năng suất

thực thu cao nhất, cao hơn 6,5 tạ/ha so với đối

chứng và chắc chắn ở độ tin cậy 95%.

Ảnh hưởng của mật độ đến tổng số quả/cây:

So với công thức đối chứng, tổng số quả/cây

ở các công thức 1, 2 và 3 thấp hơn từ 1,1 đến

6,7 quả/cây là chắc chắn ở độ tin cậy 95%.

Tổng số quả ở công thức 4 không sai khác so

với đối chứng. Nhƣ vậy tổng số quả/cây ở

công thức 4 và công thức đối chứng là tƣơng

đƣơng nhau và cao hơn các công thức còn lại

chắc chắn ở độ tin cậy 95%.

- Ảnh hưởng của mật độ đến khối lượng 100

hạt: Ở công thức 1 và 2 có khối lƣợng 100 hạt

thấp hơn đối chứng từ 5,2 đến 5,7 g chắc chắn

ở độ tin cậy 95%. Các công thức 3 và 4 có

khối lƣợng 100 tƣơng đƣơng so với đối chứng.

- Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất lý

thuyết: Công thức 1 và công thức 4 cho kết

quả năng suất lý thuyết thấp hơn đối chứng

5,4 - 7,3 tạ/ha và thấp hơn chắc chắn ở độ tin

cậy 95%. Công thức 3 có năng suất lý thuyết

cao nhất đạt 67,5 tạ/ha cao hơn chắc chắn so

với đối chứng 7,8 tạ/ha ở độ tin cậy 95%.

Công thức 2 có năng suất lý thuyết đạt 56,6

tạ/ha tƣơng đƣơng đối chứng.

- Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất thực

thu: Công thức 1 và công thức 4 cho kết quả

năng suất thực thu thấp hơn đối chứng từ 3,7 -

4,0 tạ/ha chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Công

thức 2 cho kết quả năng suất thực thu cao hơn

đối chứng 1,1 tạ/ha, nhƣng không chắc chắn ở

độ tin cậy 95%. Có nghĩa là năng suất thực

thu ở công thức 2 tƣơng đƣơng với đối chứng.

Riêng chỉ có công thức 3 là cho năng suất

thực thu cao nhất, cao hơn 6,5 tạ/ha so với đối

chứng và chắc chắn ở độ tin cậy 95%.

Ảnh hƣởng của mật độ trồng hiệu quả kinh

tế của giống lạc L23 trong vụ Xuân 2010

Kết quả hạch toán kinh tế ở các công thức

trồng mật độ khác nhau đối với giống lạc L23

trong vụ Xuân 2010 đƣợc thể hiện dƣới qua

biểu đồ 1.

Mật độ càng lớn thì chi phí cho giống càng cao. Ở công thức 1 với mật độ 50 cây/m

2 thì

chi phí cho giống là lớn nhất nên tổng chi phí cũng cao nhất (32,32 triệu đồng/ha). Tiếp đó,

chi phí giảm dần ở các công thức 2, 3, 5 và thấp nhất ở công thức 4 (30,54 triệu đồng/ha).

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 40: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Viết Hƣng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 35 - 38

37

Bảng 1. Ảnh hƣởng của mật độ đến các thời gian sinh trƣởng và khả năng phân cành

của các giống lạc L23 vụ Xuân 2010

Công thức Tổng thời gian

sinh trƣởng (ngày)

Cành cấp 1

(cành/cây)

Cành cấp 2

(cành/cây)

1 110 5,1 1,5

2 110 5,1 1,8

3 112 5,1 2,5

4 115 5.2 2,8

5 (Đ/c) 114 5,1 2,7

CV - 3,1 6,1

LSD05 - 0,3 0,3

Bảng 2. Ảnh hƣởng của mật độ đến mức độ nhiễm một số bệnh ở giống lạc L23 vụ Xuân 2010

Bệnh hại

Công thức

Gỉ sắt

(cấp bệnh)

Đốm đen

(cấp bệnh)

Đốm nâu

(cấp bệnh)

Héo xanh VK

(điểm)

1 3 3 5 1

2 3 3 5 1

3 3 3 3 1

4 3 3 3 1

5 (Đ/c) 3 3 3 1

Bảng 3. Ảnh hƣởng của mật độ trồng đến năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất

của giống lạc L23 vụ Xuân 2010

Công

thức

Tổng

số quả

/cây

Số quả

chắc

/cây

Tỷ lệ

quả 1

nhân

(%)

Tỷ lệ

quả 3

nhân

(%)

P 100

quả

(g)

P 100

hạt

(g)

Tỷ lệ

hạt/

quả

(%)

NS cá

thể

(g/cây)

NSLT

(tạ/ha)

NSTT

(tạ/ha)

1 11,1 8,1 9,6 4,5 171,2 70,1 67,6 10,9 54,3 19,6

2 13,5 10,0 14,1 0,0 171,5 69,6 68,4 14,2 56,6 24,4

3 16,7 13,6 9,2 1,5 172,5 75,6 69,8 20,5 67,5 29,8

4 18,0 13,8 8,7 0,2 173,6 75,5 69,5 21,0 52,4 19,3

5 (Đ/c) 17,8 13,6 10,1 0,0 173,9 75,3 69,6 20,6 59,7 23,3

CV% 3,6 2,3 - - 0,2 0,5 0,2 2,7 3,2 4,5

LSD.05 1,0 0,5 - - 0,7 0,6 0,3 0,9 3,5 2,0

Biểu đồ 1. Ảnh hƣởng của mật độ trồng đến hiệu quả kinh tế của lạc L23 vụ Xuân 2010

* Ghi chú: Giá lạc và chi phí sản xuất tính tại thời điểm tiến hành thí nghiệm tại Lạng Sơn

29.4

36.6

44.7

34.9532.32

2.924.84

1.594.11

28.9531.76 31.18 30.95

30.54

13.52

0

10

20

30

40

50

1 2 3 4 5 (Đ/c)

Công thức

Tri

ệu đ

ồn

g/h

a Thu

Chi

Lãi thuần

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 41: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Viết Hƣng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 35 - 38

38

Trên cùng một điều kiện chăm sóc và mức

đầu tƣ (phân bón, thuốc BVTV, nhân công)

nhƣ vậy thì ở các công thức mật độ khác nhau

cho kết quả năng suất thực thu khác nhau và

dẫn đến mức lãi thuần khác nhau. Trong đó, ở

công thức 3 với mật độ 33 cây/m2

cho năng

suất, tổng thu và lãi thuần cao nhất (29,8

tạ/ha, 44,7 triệu đồng/ha và 13,52 triệu

đồng/ha). Lãi thuần cao hơn công thức đối

chứng 9,41 triệu đồng/ha.

KẾT LUẬN

Mật độ trồng có ảnh hƣởng đến thời gian sinh

trƣởng của lạc L23. Mật độ càng thƣa thì thời

gian sinh trƣởng càng dài. Mật độ cũng có ảnh

hƣởng đến khả năng phân cành của cây. Khả

năng phân cành càng lớn khi mật độ càng thƣa.

Năng suất thực thu của lạc L23 tăng dần và

đạt cao nhất ở công thức mật độ trồng 33

cây/m2. Khi mật độ tăng cao hơn từ 33 cây/m

2

đến 50 cây/m2 thì năng suất thực thu giảm

dần. Mật độ gieo trồng giống lạc L23 thích

hợp trên đất một vụ lúa ở huyện Hữu Lũng,

Lạng Sơn là 33 cây/m2 (30 x 10 cm).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Ngô Thế Dân (chủ biên), Nguyễn Xuân Hồng,

Đỗ Thị Dung, Nguyễn Thị Chinh, Vũ Thị Đào,

Phạm Văn Toản, Trần Đình Long, C.L.L. Gowda

(2000), Kỹ thuật đạt năng suất lạc cao ở Việt Nam.

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

[2]. Đƣờng Hồng Dật (2007), Cây lạc và biện

pháp thâm canh nâng cao hiệu quả sản xuất, Nxb

Thanh Hóa.

[3]. Trần Đình Long, Nguyễn Văn Chinh, Nguyễn

Văn Thắng, Hoàng Minh Tâm (1999), “Tổng quan

tình hình nghiên cứu phát triển tiến bộ trồng lạc ở

Việt Nam trong thời gian qua và phƣơng hƣớng

trong những năm tới”, Hội thảo về kỹ thuật trồng

lạc toàn quốc ở Thanh Hoá.

[4]. Boote K.J., Keting DL. (1990), “Growth

stages of pranut”, Arachis hypogaea L, Jounrnal

series, Florida Agricultural Experiment stations.

[5]. Gregory W.C; Krapovickas A. and Gregory

M. P (1980), Structure variation evoluation and

clasification in Arachis; Advances in Legume

science. Proceedings of the International Legume

Conference.

[6]. Sankara Reddi G.H (1988), Cultivation,

storage and marketing in groundnut, India Council

of Agricultural Research, kridhi Anusandhan

Bhavan, Pusa, New Delhi, pp. 318 - 382.

SUMMARY

THE INFLUENCE OF PEANUT DENSITY ON THE YIELD OF L23 VARIETY

ON ONE-CROP LAND, HUU LUNG DISTRICT, LANG SON PROVINCE,

SPRING 2010

Nguyen Viet Hung

College of Agriculture and Forestry- TNU

Peanut has an important role in rotation with rice, contributing to soil improvement, increasing

economic efficiency and revenue per unit area. L23 peanut variety was grown in the experiment of

spring 2010 in Huu Lung - Lang Son with different 05 densities from 25 to 50 plants/m2. Between

them, the smaller density of L23 results in the longer the growing time and greater ability to

branch. Density planting peanut variety L23 on the most suitable one-crop land was 33 cay/m2

(30x10cm).

Key words: Groundpeanu, density, yield, one-crop land

Tel: 0912386574; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 42: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 39 - 42

39

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG CỦA CÂY PHÂN XANH HỌ ĐẬU

TRÊN ĐẤT SAU KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN

Đặng Văn Minh*, Đào Văn Núi

Trường Đại học Nông - Lâm ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Đất sau khai thác khoảng sản tại Thái Nguyên chiếm diện tích lớn, bị thoái hóa và bạc màu. Hiện

nay có nhiều phƣơng pháp khác nhau đã đƣợc áp dụng để cải tạo đất bị thoái hoá, bạc màu, nghèo

kiệt và cả đất bị ô nhiễm, trong đó có việc sử dụng các biện pháp sinh học. Mục tiêu chính của

nghiên cứu này là thử nghiệm các loại cây phân xanh họ đậu để cải tạo đất nghèo kiệt dinh dƣỡng

và thoái hóa do khai thác khoáng sản. Bằng việc lựa chọn một số cây phân xanh họ đậu và trồng

thử nghiệm trên đất sau khai khoáng, nghiên cứu đã xác định đƣợc cây trinh nữ không gai và cây

muồng lá nhọn có khả năng sinh trƣởng tốt và tạo sinh khối cao để cải tạo đất sau khai khoáng.

Từ khóa: Cải tạo đất, đất sau khai khoáng, cây phân xanh họ đậu

GIỚI THIỆU

Khai thác khoáng sản ở Thái Nguyên chiếm 1

diện tích lớn và đã làm thu hẹp diện tích đất

sản xuất nông nghiệp. Quá trình khai thác đã

làm mất khả năng canh tác của đất nông lâm

nghiệp nhƣ: đổ đất đá lên đất trồng trọt, nƣớc

thải bùn đất do quá trình tuyển quặng vùi lấp

đất canh tác,… Một yêu cầu cấp thiết đặt ra

làm thế nào để phục hồi lại khả năng canh tác

của đất, khắc phục hậu quả do khai thác

khoáng sản để lại.

Đất sau khai thác khoáng sản hầu hết không

còn khả năng canh tác nông lâm nghiệp, bỏ

hoang, làm thu hẹp diện tích đất sản xuất

nông nghiệp. Phục hồi lại khả năng canh tác

của đất, khắc phục hậu quả do khai thác

khoáng sản để lại bằng biện pháp sinh học là

một hƣớng đi mới, sử dụng các loài cây họ

đậu để cải tạo đất [1], [4], [5]. Mục đích của

nghiên cứu này là xác định một số loài cây

phân xanh họ đậu có khả năng sinh trƣởng tốt

trên đất sau khai khoáng tại tỉnh Thái Nguyên

để cải tạo và phục hồi loại đất này cho sản

xuất nông lâm nghiệp .

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Cây cải tạo đất bản địa và nhập nội đƣợc

trồng trên đất sau khai thác quặng sắt và đã

đƣợc hoàn thổ. Nghiên cứu đƣợc tiến hành

2009-2010. Địa điểm nghiên cứu bố trí thí

Tel:0912334310; Email:[email protected]

nghiệm là các bãi thải đất sau khai thác

khoáng sản ở khu vực mỏ sắt Trại Cau, huyện

Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Thí nghiệm đƣợc tiến hành gồm 8 công thức

với 3 lần nhắc lại, đƣợc bố trí theo kiểu hoàn

toàn ngẫu nhiên (CRD) [3]: CT 1: Muồng lá

nhọn (Cassia occidentalis L.); CT 2: Đậu

công (Flemingia congesta); CT 3: Đậu ren

(Rensonic); CT 4: Trinh nữ không gai

(Mimosa sp); CT 5: Sunnhep (Crotalaria

juncea); CT 6: Xục xặc (Sesbania javaica

Mi); CT 7: Cốt khí cao (Tephrosia candida);

CT 8: Đối chứng (ĐC - không trồng cây).

Cây trồng đƣợc theo dõi, đo đếm các chỉ tiêu

sinh trƣởng nhƣ chiều cao, phân cành theo

phƣơng pháp thông dụng của nghiên cứu thí

nghiệm đồng ruộng (1 tháng 1 lần). Với các

chỉ tiêu về năng suất chất xanh, chất thô, số

lƣợng nốt sần đƣợc tiến hành 6 tháng 1 lần

[3]. Số liệu sau khi theo dõi đƣợc xử lý thống

kế theo các phƣơng pháp thống kê hiện hành

(anova) trên phần mền exel và irristat.

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

Đất thí nghiệm là đất sau khai thác quặng sắt,

đất nghèo kiệt và bị thoái hóa do sự đào bới

trong quá trình khai khoáng. Kết quả phân

tích đất cho thấy đất có độ pH thấp (5,0), hàm

lƣợng các chất dinh dƣỡng ở mức nghèo và

trung bìnhnghiên cứu ban đầu (Bảng 1).

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 43: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 39 - 42

40

Theo dõi khả năng sinh trƣởng các loại cây

phân xanh họ đâu trên đất sau khai khoáng

cho thấy. Sinh trƣởng chiều cao trong những

tháng đầu của tất cả các giống nghiên cứu

chậm, tuy nhiên trong các tháng thứ 3 trở đi

sự sinh trƣởng nhanh hơn. Trong đó cây trinh

nữ không gai là cây thân bụi có khả năng sinh

trƣởng chiều dài thân nhanh nhất (Bảng 2).

Bảng 1. Thành phần dinh dƣỡng đất tại khu vực bãi thải

Khu vực lấy mẫu Hàm lƣợng các chất

pH (H2O) OM (%) N (%) P (%) K (%)

Bãi thải 5,0 1,646 0,080 0,060 0,162

Khu vực không có

khai khoáng 5,5 2,250 0,090 0,089 0,160

Bảng 2. Chiều cao (dài) cây theo giai đoạn

Đơn vị: cm

Công

thức

Sau trồng tháng

1 2 3 4 5 6 7 8

CT 1 7.07 32.75 62.75 87.95 127.54 146.82 158.87 163.20

CT 2 4.18 11.11 20.62 40.66 44.64 49.25 54.23 54.99

CT 3 3.80 9.15 23.82 41.67 69.75 94.13 120.45 127.12

CT 4 11.05 35.42 87.17 118.73 155.74 175.98 198.46 209.89

CT 5 43.92 82.63 105.2 126.46 147.58 157.67 164.42 164.59

CT 6 14.33 25.87 43.29 62.49 75.97 87.36 91.21 94.43

CT 7 8.94 26.18 43.03 58.18 72.35 86.03 92.88 94.81

CV (%) 17,0 13,7 15,7 13,8 14,6 12,8 14,3 15,2

LSD5% 3,97 7,66 15,16 18,49 25,33 25,57 31,51 34,59

Hình 1. Sinh trƣởng chiều cao của cây

Sinh trƣởng chiều cao

0

50

100

150

200

250

1 2 3 4 5 6 7 8

Sau trồng tháng

cm

Ct1 (muồng lá nhọn)

Ct2 (Đậu công)

Ct3 (Đậu ren)

Ct4 (Xấu hổ không gai)

Ct5 (sunnhemp)

Ct6 (xục xặc)

Ct7 (Cốt khí cao)

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 44: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 39 - 42

41

Sự sinh trƣởng phát triển của các các loại cây

phân xanh cải tạo đất còn thể hiện sự ra nhánh

qua các thời điểm theo dõi. Các giống ra

nhánh nhiều thì khả năng cho sinh khối sẽ lớn

[2] . Kết quả theo dõi về sự ra nhánh của các

giống trong thí nghiệm cho thấy, sau khi

trồng 2 đến 3 tháng các giống bắt đầu ra

nhánh (Bảng 3). Trong đó cây trinh nữ không

gai và cây sunnhep khả năng ra nhánh cao

nhất ngay từ tháng thứ 2 sau trồng.

Khả năng cải tạo đất của các loài cây phân

xanh họ đậu đƣợc đánh giá qua các chỉ tiêu:

năng suất chất xanh, chất khô, số lƣợng nốt

sần trên cây. Chỉ tiêu về năng suất chất xanh,

chất khô và số lƣợng nốt sần thể hiện khả

năng cải tạo đất của cây đó là sự trả lại các

chất xanh tạo mùn và cung cấp dinh dƣỡng

cho đất. Kết quả theo dõi hàm lƣợng chất

xanh và chất khô của các giống thí nghiệm

thể hiện ở bảng 4 và hình 2.

Khả năng sau 6 tháng trồng, cây muồng lá

nhọn và cây trinh nữ không gai cho sinh khối

chất xanh và chất khô cao nhất. Trong đó cây

trinh nữ không gai sinh trƣởng tốt nhất, là cây

cho năng suất chất xanh – chất khô cao nhất

với lƣợng 18,9 tấn/ha chất xanh và 4,46

tấn/ha chất khô (Bảng 4); đồng thời cũng là

loài cây cho số lƣợng nốt sần nhiều nhất với

635,33 nốt/cây (Bảng 5). Đây là loài cây đƣợc

nhập nội vào Việt Nam, loài cây này không

giống nhƣ loài trinh nữ thƣờng có gai. Loài

này không gai nên có thể làm thức ăn cho gia

súc. Cũng theo nhƣ tác giả Trần An Phong,

cây trinh nữ không gai là cây phân xanh có

tác dụng che phủ đất chống xói mòn, lấn át cỏ

dại, đồng thời làm phân xanh rất tốt [2].

Bảng 3. Sự ra nhánh của các cây phân xanh họ đậu trong thí nghiệm

Đơn vị: nhánh/cây

Công thức Sau trồng tháng

1 2 3 4 5 6 7 8

CT 1 0.00 0.03 0.40 1.17 2.03 2.13 2.53 2.63

CT 2 0.00 0.03 0.47 1.33 1.73 1.87 2.07 2.23

CT 3 0.00 0.00 0.00 0.87 1.30 1.40 1.67 2.40

CT 4 0.00 4.27 8.43 13.87 15.97 17.97 19.3 20.27

CT 5 0.00 2.33 2.27 2.80 3.90 4.47 4.77 4.80

CT 7 0.00 0.00 0.30 1.66 2.58 3.53 4.44 5.67

CV (%) 0,0 37,9 32,5 26,7 27,5 28,8 30,0 25,3

LSD5% 0,00 0,63 0,97 1,45 2,58 3,53 4,43 5,67

Bảng 4. Năng suất chất xanh, khô của các giống thí nghiệm

Đơn vị: tấn/ha

Công thức Sau khi trồng 6 tháng

Chất xanh Chất khô

Ct1 (muồng lá nhọn) 14.23 5.40

Ct2 (Đậu công) 2.39 0.99

Ct3 (Đậu ren) 3.87 1.83

Ct4 (Trinh nữ không gai) 18.29 6.46

Ct5 (sunnhep) 5.56 2.18

Ct6 (xục xặc) 1.77 0.66

Ct7 (Cốt khí cao) 3.98 2.06

Bảng 5. Số lƣợng nốt sần (nốt sần/cây)

Công thức CT 1 CT 2 CT 3 CT 4 CT 5 CT 6 CT 7 CV (%) LSD5%

Sau trồng

6 tháng 69,00 15,00 42,67 635,33 12,33 202,33 26,67 6,2 15,62

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 45: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 39 - 42

42

KẾT LUẬN Hầu hết các cây phân xanh họ đậu thử nghiệm

trên đất sau khai thác khoáng sản tại Thái

Nguyên đều sinh trƣởng phát triển đƣợc trên

loại đất nghèo kiệt và thoái hóa này. Trong số

các loại cây phân xanh cải tạo đất đƣợc

nghiên cứu, cây trinh nữ không gai và cây

muồng lá nhọn là cây có khả năng sinh trƣởng

nhanh, khả năng tạo chất xanh trả lại đất cao

nhất, có số lƣợng nốt sần/cây rất cao. Cần tiếp

tục nghiên cứu hai loại cây này trên các loại

đất khai khoáng có địa hình khác nhau để có

thể nhân giống và phổ biến mở rộng mô hình

trồng, để cải tạo diện tích đất bị nghèo kiệt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Lê Đức, Trần Khắc Hiệp (2006), Giáo trình

đất và bảo vệ đất, Nxb Hà Nội

[2]. Trần An Phong (1977), Gieo trồng và sử dụng

cây phân xanh. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

[3]. Hoàng Văn Phụ, Đỗ Thị Ngọc Oanh

(2002), Giáo trình phương pháp nghiên cứu

trong trồng trọt, Giáo trình Cao học. Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội.

[4]. Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên (2002), Cây phủ

đất ở Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

[5]. Hà Đình Tuấn (2000), Cây phủ đất Việt Nam.

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

Hình 2. Năng suất chất xanh - chất khô

SUMMARY

STUDY GROWTH OF WILD LEGUMES IN THE DEGRADED SOIL AFTER

MINING IN THAI NGUYEN PROVINCE

Dang Van Minh, Dao Van Nui

College of Agriculture and Forestry- TNU

Degraded soils after mining occupied a large area of Thai Nguyen province. These soils are very

poor and can often not be used for agriculture. There are many different methods have been

applied to improve degraded, discolored, poor and contaminated soils. One among these methods,

using biological method seems to be suitable to farmers. The objective of this study is to testing

some green manure plants and leguminous species to improve soil after mining in Thai Nguyen

province that is considered as a sustainable method. Results of the study indicated that Cassia

occidentalis L. and Mimosa sp are potential plants that can be used to grow and improve these

poor soils after mining.

Keywords: soil improvement, post-mining land use, legume green manuring

Tel:0912334310; Email:[email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 46: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48

43

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỊA PHƢƠNG

TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG TẠI RỪNG ĐẶC DỤNG HỮU LIÊN,

HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

Nguyễn Hữu Giang

*

Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng diện tích và chất lƣợng rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên bị suy

giảm liên tục là do công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng còn nhiều bất cập, việc quản lý sử

dụng tài nguyên rừng không những chƣa đạt đƣợc hiệu quả cao mà còn chƣa đáp ứng đƣợc nhu

cầu phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trƣờng. Kết quả nghiên cứu thấy rằng hình thức

quản lý rừng và đất rừng do hộ gia đình quản lý là có hiệu quả nhất, hiệu quả thấp nhất là do Ban

quản lý rừng đặc dụng quản lý. Tất cả ngƣời dân ở các thôn bản sống trong RĐD đã tham gia xây

dựng “Quy ƣớc bảo vệ rừng” tuy nhiên hầu hết ngƣời dân chƣa quan tâm đến bản cam kết này.

80,07% số hộ không biết gì về chƣơng trình 661 và các chính sách liên quan đến cơ chế hƣởng lợi

trong trồng rừng, việc chỉ thuê khoán lao động theo thời vụ giữa Ban quản lý QĐD với ngƣời dân

đã không tạo ra sinh kế ổn định lâu dài cho hộ gia đình thông qua thực hiện chƣơng trình 661.

Từ khóa: Quản lý rừng, rừng, cộng đồng, rừng đặc dụng, Hữu Liên; Lạng Sơn

ĐẶT VẤN ĐỀ

Rừng đặc dụng (RĐD) Hữu Liên lần đầu tiên đƣợc Chủ tịch Hội đồng Bộ trƣởng quyết định

thành lập vào năm 1986 có diện tích 3.000ha. Năm 1992 đƣợc Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ NN&PTNT) quy hoạch lại. Năm 2006 đƣợc UBND tỉnh Lạng Sơn tái thành lập với diện tích 10.640ha, Ban quản lý RĐD Hữu Liên là một đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở NN&PTNT

tỉnh Lạng sơn. Toàn bộ diện tích RĐD Hữu Liên nằm trên địa phận của 5 xã thuộc huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Sự bùng nổ dân số, sự phát triển không ngừng của xã hội đã dẫn đến nhu cầu sinh hoạt của ngƣời dân sống trong khu vực RĐD Hữu Liên ngày càng tăng

đặc biệt là nhu cầu về gỗ làm nhà, đóng đồ, củi đun... Mặt khác nhu cầu gỗ, lâm sản ngoài gỗ trên thị trƣờng nhất là các loại gỗ quý hiếm rất cao nên ngƣời dân đã bị các đối tƣợng xúi giục lôi kéo, tiếp tay cho các hành vi khai thác, mua bán vận chuyển lâm sản trái

phép đã dẫn đến hậu quả là TNR tại RĐD Hữu Liên bị xâm hại. Từ yêu cầu thực tế trên, rất cần thực hiện nghiên cứu về thực trạng quản lý và sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng trong công tác quản lý rừng (QLR) tại RĐD Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn

nhằm tìm ra hình thức QLR có hiệu quả nhất.

Tel: 0982688286; Email: [email protected]

MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu

Phân tích, đánh giá thực trạng QLR và sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng trong công tác quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở đi sâu tìm hiểu các hoạt động bảo vệ, sử dụng rừng, từ đó xác định đƣợc khó khăn, bất cập và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLR.

Nội dung nghiên cứu

- Thực trạng quản lý rừng đặc dụng;

- Sự tham gia quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng;

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLR.

Phƣơng pháp nghiên cứu

- Kế thừa tài liệu từ một số báo cáo tổng kết,

đánh giá về tình hình quản lý rừng do Ban

quản lý rừng đặc dụng, UBND các xã cung

cấp (trong 5 năm gần đây);

- Phƣơng pháp RRA để phỏng vấn có định

hƣớng với tổng số 25 lãnh đạo của cơ quan

quản lý trực tiếp (Sở Nông nghiệp và PTNT,

huyện Hữu Lũng, Ban quản lý rừng và 5 xã

có rừng);

- Sử dụng một số công cụ PRA: Đi lát cắt, Sơ

đồ tài nguyên, Sơ đồ venn, phƣơng pháp phân

tích điểm mạnh điểm yếu, cơ hội thách thức

(SWOT) và điều tra phỏng vấn trực tiếp 120 hộ

gia đình tiêu biểu trong khu vực;

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 47: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48

44

- Phƣơng pháp xử lý số liệu: Sử dụng thống

kê toán học dƣới dạng các bảng biểu để tổng

hợp các thông tin thu đƣợc.

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

Thực trạng quản lý rừng đặc dụng

Rừng đặc dụng Hữu Liên hiện đang có 4 hình

thức QLR chủ yếu đó là: (i) Rừng và đất rừng

do cộng đồng quản lý (Gọi là tổ giữ rừng):

Mỗi thôn bản tùy theo diện tích rừng đƣợc

quản lý nhiều hay ít mà lập ra từ 1 - 4 tổ giữ

rừng, mỗi tổ có từ 3-7 thành viên. Hoạt động

của tổ giữ rừng là phối hợp với kiểm lâm và

đội 12 của xã để thƣờng xuyên tiến hành kiểm

tra, giám sát và đôn đốc ngƣời dân trong thôn

thực hiện tốt việc bảo vệ diện tích rừng đã ký

hợp đồng bảo vệ. Tổ giữ rừng đƣợc hƣởng

thù lao hàng tháng trích từ nguồn quỹ của

thôn, mức hƣởng do hội nghị toàn thôn quyết

định. Trong đó kiểm lâm hỗ trợ

200.000đ/tháng cho công tác quản lý bảo vệ,

phần quỹ còn lại do bà con đóng góp hoặc lấy

từ tiền xử phạt các vụ vi phạm TNR hay thu

tiền của những ngƣời không tham gia lao

động công ích (Mức thu từ 15.000 - 30.000

đồng tùy theo thực trạng kinh tế của từng

thôn); (ii) Rừng do ban quản lý rừng đặc dụng

Hữu Liên quản lý, tổng số 3.308 ha; (iii) Đội

12 của các xã (Đội 12 đƣợc thành lập theo

Chỉ thị số 12/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính

phủ). Hoạt động của Đội 12 là tổ chức tuyên

truyền phổ biến giáo dục pháp luật về rừng tới

cộng đồng dân cƣ trong các thôn bản thông

qua hệ thống loa thông tin đại chúng và tăng

cƣờng phối hợp với kiểm lâm tuần tra bảo vệ

rừng, kiểm tra trên khâu lƣu thông, vận

chuyển lâm sản trái phép, bắt giữ và xử lý các

đối tƣợng vi phạm và (iv) Rừng do hộ gia đình

quản lý: Kết quả ký hợp đồng bảo vệ rừng với

hộ gia đình năm 2009 đƣợc thể hiện qua bảng 1.

Theo khoản 8, Quyết định số 02/CP, ngày

15/1/1994, quá trình ký kết hợp đồng bảo vệ

rừng với các hộ gia đình trong RĐD Hữu

Liên bắt đầu từ năm 1994. Đến hết năm 2009,

Ban quản lý RĐD đã giao 7.332ha rừng cho

427 hộ sống tại 23 thôn của 5 xã quản lý. Các

hợp đồng bảo vệ rừng đƣợc ký đối với các

trƣờng hợp mà các điều kiện không phù hợp

để di dời dân cƣ sống trong khu bảo vệ

nghiêm ngặt, cho phép các hộ sống hài hòa

trong sự bảo vệ quản lý. Trong khuôn khổ các

hợp đồng này, các hộ gia đình đƣợc phép thu

lƣợm củi đun và các sản phẩm không thuộc

gỗ khác nhƣng không đƣợc phép chặt cây.

Đổi lại họ đƣợc nhận 90.000đ/ha/năm, các

hợp đồng có giá trị trong 1 năm và có thể thay

đổi. Cán bộ Ban quản lý RĐD kiểm tra hàng

năm và có thể hủy bỏ hợp đồng đối với các hộ

gia đình quản lý không tốt, năm 2009 vẫn có

103/427 hộ vi phạm hợp đồng.

Để tìm hiểu hiệu quả quản lý rừng, đề tài đã

tiến hành phỏng vấn 120 hộ về vai trò của các

bên trong việc quản lý rừng, kết quả thể hiện

ở bảng 2.

Bảng 1. Kết quả ký hợp đồng bảo vệ rừng với hộ gia đình năm 2009

TT Xã Số thôn tham gia

QLR

Số hộ tham gia

(hộ)

Diện tích

(ha)

Số hộ vi phạm

hợp đồng (hộ)

1 Yên Thịnh 7 124 1.860 33

2 Hữu Liên 12 263 4.658 63

3 Hữu Lễ 1 17 253 5

4 Vạn Linh 2 10 211 1

5 Hòa Bình 1 13 350 1

Cộng 23 427 7.332 103

Bảng 2. Hiệu quả quản lý rừng của các bên tham gia

Mức độ

Các bên tham gia Rất hiệu quả Hiệu quả Trung bình Ít hiệu quả Không hiệu quả

1. Hộ gia đình 81.67 15 3.33 0 0

2. Tổ giữ rừng 0 0 39.17 60.83 0

3. Ban QLR đặc dụng 0 0 0 90.83 9.17

4. Đội 12 0 0 0 56.35 43.65

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 48: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48

45

Kết quả cho thấy: Hiệu quả quản lý rừng cao

nhất là hộ gia đình (96,67% ý kiến đánh giá là

rất hiệu quả và có hiệu quả 3,33% ý kiến ở

mức trung bình). Ở cách quản lý này, mặc dù

quyền sở hữu tài nguyên rừng không thuộc về

ngƣời dân nhƣng quan hệ giữa ngƣời dân với

Ban quản lý RĐD và các bên tham gia khác là

chặt chẽ do các mối quan hệ xã hội, làng xã,

gia đình tạo dựng nên. Mặt khác ngƣời dân

phải tự chịu trách nhiệm với diện tích rừng đã

ký kết do vậy hiện tƣợng vi phạm hợp đồng ít

hơn. Tiếp theo là đến Tổ giữ rừng (39,17%

đánh giá ở mức trung bình còn lại là ít hiệu

quả). Với ban QLR và đội 12 thì 100% ý kiến

đánh giá ở mức ít và không có hiệu quả. Đội

12 không quản lý trực tiếp rừng mà chỉ phối

hợp với kiểm lâm, tổ giữ rừng để phổ biến,

tuyên truyền, tuần tra kiểm soát. Nhƣ vậy,

hiệu quả QLR trực tiếp kém nhất là rừng do

Ban quản lý RĐD Hữu Liên quản lý. Phân

tích thực trạng để tìm ra nguyên nhân sự kém

hiệu quả trong công tác QLR của ban quản lý

RĐD Hữu Liên nhƣ sau:

- Tổ chức nhân sự: Từ 01/01/2008 Ban quản

lý đƣợc kiện toàn lại gồm có 09 ngƣời, trong

đó cán bộ có trình độ đại học 04 ngƣời, cán

bộ có trình độ trung cấp 05 ngƣời. Ban quản

lý phân làm 02 phòng là phòng hành chính

tổng hợp 03 ngƣời (gồm 01 lãnh đạo, 01 kế

toán, 01 văn thƣ thủ quỹ kiêm tạp vụ) và

phòng kỹ thuật tuyên truyền kiêm địa bàn

gồm 06 ngƣời;

- Do công tác QLR chƣa đồng nhất từ Ban

quản lý RĐD cũ thuộc Hạt Kiểm Lâm sang

Ban quản lý RĐD mới thuộc Sở NN&PTNT

tỉnh Lạng Sơn có khe hở nên bọn lâm tặc lợi

dụng và một số cán bộ Ban quản lý RĐD mới

là chủ rừng nhƣng thiếu trách nhiệm, lợi dụng

chức quyền thu tiền hối lộ lâm luật của bọn

lâm tặc và cấu kết với một số tổ trƣởng tổ giữ

rừng làm sai quy chế bảo vệ rừng;

- Cán bộ lãnh đạo Ban quản lý RĐD là ngƣời

mới, còn nhiều hạn chế về chuyên môn

nghiệp vụ, chƣa có kinh nghiệm trong lãnh

đạo điều hành đơn vị (Trƣởng Ban quản lý về

nhận công tác từ 10/10/2007, hiện chƣa có

Phó trƣởng ban);

- Nhân viên trong Ban QLR cũng là ngƣời

mới tham gia công tác nên còn bỡ ngỡ, chƣa

có kinh nghiệm, chƣa ai đƣợc tham gia tập

huấn về quản lý rừng;

- Địa bàn hoạt động rộng, địa hình phức tạp,

xa sự giám sát của lãnh đạo, phƣơng tiện đi

lại không có. Cơ sở vật chất và các trang thiết

bị phục vụ cho công tác còn quá nghèo nàn

nên cũng ảnh hƣởng lớn đến tâm lý của cán

bộ và chất lƣợng công việc.

Kết quả nghiên cứu về các hoạt động khai

thác, sử dụng rừng của ngƣời dân cho thấy

thu nhập từ lâm nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ so với

tổng thu nhập của hộ. Với hộ nghèo thu nhập

từ lâm nghiệp khoảng 2,5 triệu đồng chiếm

22,27%, hộ trung bình 3,5 triệu đồng chiếm

20,03% và hộ khá là gần 4 triệu đồng chiếm

14,89%.

Hình 1. Thu nhập từ lâm nghiệp so với tổng thu Hình 2. Tỷ lệ % các loại lâm sản đƣợc thu hái từ rừng

Thu nhập từ lâm nghiệp so với tổng thu nhập

0

5,000,000

10,000,000

15,000,000

20,000,000

25,000,000

30,000,000

Đồ

ng

/n

ăm

Tổng thu

Lâm nghiệp

Tổng thu 11,593,740 18,035,802 26,324,313

Lâm nghiệp 2,581,844 3,613,094 3,919,688

Hộ nghèo Hộ trung bình Hộ khá

Loại lâm sản được thu hái từ rừng

40

68

57

92

13

0

10

20

30

40

50

60

70

80

90

100

Cây thuốc Thực phẩm Nguyên liệu thủ

công

Vật liệu xây

dựng

Khác

Tỷ lệ %

số

hộ

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 49: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48

46

Lâm sản ngƣời dân thu hái từ rừng rất đa dạng

và đƣợc chia thành 5 loại đó là làm thuốc, thực

phẩm, nguyên liệu thủ công, vật liệu xây dựng

và một số công dụng khác. Trong số này nhiều

sản phẩm đƣợc sử dụng ở địa phƣơng, phần

còn lại nhƣ động vật rừng và cây thuốc đƣợc

ngƣời dân địa phƣơng đem bán. Việc chặt cây

để làm nhà, đóng đồ, làm hàng rào và củi đun

là nhu cầu chính đáng của ngƣời dân, tuy nhiên

trên thực tế việc lạm dụng khai thác những loài

cây gỗ có giá trị ( Nghiến, Hoàng Đàn…) đang

diễn ra hết sức phức tạp và quyết liệt mặc dù

ngƣời dân hiểu đƣợc rằng việc chặt cây lấy gỗ

đƣợc coi là phạm pháp cho dù với bất cứ mục

đích gì, ngoại trừ dùng cho việc làm nhà nhƣng

phải đƣợc sự đồng ý của chính quyền địa

phƣơng. Mùa cao điểm khai thác gỗ là vào

những tháng cuối năm trong khoảng từ tháng

8-12 âm lịch.

Lâm sản ngoài gỗ rất đa dạng và đƣợc hầu hết

các hộ gia đình thu hái để sử dụng và bán. Kết

quả điều tra cho thấy: Có tổng số 81 loài thực

vật lâm sản ngoài gỗ đƣợc ngƣời dân khai thác

sử dụng, trong đó có tới 48 loài đƣợc ngƣời

dân sử dụng làm dƣợc liệu, chiếm 59,3%;

Nhóm loài làm rau ăn có 20 loài, chiếm

24,7%; Nhóm loài lấy bột có 5 loài, chiếm

6,2% và nhóm loài làm thủ công mỹ nghệ có 8

loài, chiếm 9,9%. Nhƣ vậy, ngƣời dân khai

thác các loài lâm sản ngoài gỗ để làm dƣợc

liệu chiếm tỷ lệ cao nhất, đây là điểm cần lƣu ý

trong quản lý tài nguyên cây thuốc và kiến

thức bản địa về sử dụng thảo mộc làm thuốc

của các cộng đồng dân tộc thiểu số đặc biệt là

trong cộng đồng ngƣời Dao.

Sự tham gia quản lý bảo vệ rừng của cộng đồng

Tham gia xây dựng “Quy ƣớc bảo vệ rừng” ở cấp thôn bản: Tất cả các thôn bản đều đã xây dựng xong quy ƣớc bảo vệ rừng, bên cạnh đó

việc ký cam kết bảo vệ rừng của ngƣời dân đã đƣợc triển khai đến tất cả các thôn bản có ngƣời dân sống trong RĐD, tuy nhiên hầu hết ngƣời dân chƣa quan tâm đến bản cam kết này do họ không nhận đƣợc sự hỗ trợ gì để cải thiện cuộc sống. Các bản cam kết này

đƣợc lập bằng tiếng phổ thông trong khi trên địa bàn có 70% dân số là ngƣời dân tộc thiểu số, trong số đó khoảng 30% không biết tiếng phổ thông nên họ không hiểu. Vai trò của các

già làng chƣa đƣợc phát huy trong các hoạt động văn hóa, xã hội và công tác bảo vệ rừng (do già làng không có phụ cấp gì).

Sự tham gia của các hộ gia đình vào chƣơng

trình 661: Qua phỏng vấn cho thấy 80,07% số

hộ không biết gì về chƣơng trình 661 và các

chính sách liên quan đến cơ chế hƣởng lợi

trong trồng rừng. Ngƣời dân chỉ biết tham gia

trồng rừng, bảo vệ rừng theo thuê khoán của

Ban quản lý. Điều này cho thấy chính sách

chƣa đƣợc phổ biến đến dân, Ban quản lý

nắm giữ chính sách và thực hiện theo kế

hoạch riêng, ngƣời dân mất cơ hội chọn lựa

các giải pháp thích hợp cho mình. Nghiên cứu

cho thấy sự hƣởng lợi của các hộ chủ yếu là

(i) Đƣợc thuê và trả công trồng, chăm sóc,

bảo vệ rừng trồng tuy nhiên số hộ tham gia

cũng không nhiều, tối đa là 15%. Sự thuê

khoán lao động theo thời vụ giữa Ban quản lý

RĐD với ngƣời dân đã không tạo ra sinh kế

ổn định lâu dài cho hộ gia đình thông qua

thực hiện chƣơng trình 661 và (ii) Ký hợp

đồng bảo vệ rừng tự nhiên: Việc ký hợp đồng

bảo vệ rừng giữa hộ gia đình với ban quản lý

RĐD đƣợc thực hiện hàng năm, tuy nhiên vẫn

còn một số hộ vi phạm hợp đồng mà nguyên

nhân chính là thiếu tiền để chi trả cho các

hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Khi thiếu tiền,

ngƣời dân có thể chặt cây lấy gỗ bán mặc dù

họ biết làm nhƣ vậy là vi phạm. Rõ ràng là

trách nhiệm của một số ngƣời dân chƣa cao,

ngƣời dân không có chuyên môn nên ngoài

việc sử dụng các sản phẩm từ rừng thì họ

không có tác động nào để xây dựng và phát

triển rừng. Công tác bảo vệ rừng có ảnh

hƣởng tiêu cực đến đời sống nông hộ nhƣ

giảm thu nhập và giảm sản lƣợng khai thác

các sản phẩm khác từ rừng, bên cạnh đó cũng

có những ảnh hƣởng tích cực từ công tác này.

Kết quả điều tra 120 ngƣời về sự ảnh hƣởng

của hoạt động bảo vệ rừng đến đời sống hộ,

cho thấy. (i) Có 5 vấn đề đƣợc ngƣời dân

đánh giá về sự ảnh hƣởng tiêu cực của hoạt

động bảo vệ rừng đến đời sống hộ đƣợc xếp

theo thứ tự từ cao đến thấp nhƣ sau: Giảm sản

lƣợng khai thác các sản phầm từ rừng (có

82% ý kiến); Giảm thu nhập (67% ý kiến);

Giảm diện tích chăn thả gia súc (48% ý kiến);

Giảm diện tích đất sản xuất (46% ý kiến); Các

ý kiến khác (21% ý kiến).

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 50: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48

47

Rõ ràng là khi rừng đƣợc bảo vệ nghiêm ngặt

hơn thì ngƣời dân không thể tự do khai thác

các sản phẩm từ rừng, họ không thể phá rừng

để lấy đất sản xuất nông nghiệp và không thể

tự do chăn thả gia súc. Tất cả các yếu tố này

đều làm giảm thu nhập của hộ. (ii) Có 6 vấn

đề đƣợc ngƣời dân đánh giá về những tác

động tích cực của bảo vệ rừng đến đời sống

hộ đó là: Môi trƣờng tốt hơn (69% ý kiến);

Nguồn nƣớc ổn định cho sinh hoạt, sản xuất

(68% ý kiến); Giảm lũ vào mùa mƣa (51% ý

kiến); Tăng thu nhập từ công bảo vệ rừng

(36% ý kiến); Cải thiện cơ sở hạ tầng (21% ý

kiến); Các ý kiến khác (16% ý kiến). Nhƣ vậy

ngƣời dân cũng đã nhận thấy đƣợc vai trò to

lớn của rừng với môi trƣờng và trực tiếp đến

cuộc sống, sinh hoạt của họ.

* Những hạn chế trong việc cuốn hút cộng

đồng tham gia vào quản lý rừng:

- Ngƣời dân sống trong và xung quanh RĐD

chƣa thấy đƣợc lợi ích do việc thành lập RĐD

mang lại. Họ chỉ thấy việc thành lập RĐD là

gây ra nhiều khó khăn trong cuộc sống của họ;

- Ranh giới của RĐD, ranh giới của vùng đệm

đƣợc xác định rõ ràng trên bản đồ tuy nhiên

trên thực địa thì rất khó khăn để xác định nên

nhiều khi ngƣời dân không biết mình có xâm

phạm vào ranh giới khu bảo tồn không;

- Thiếu sự phối hợp với các chƣơng trình

quốc gia hay các dự án trong lĩnh vực quản lý

bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và phát triển

rừng (Giao đất, giao rừng, khoán khoanh nuôi

bảo vệ, trồng rừng...);

- Ngƣời dân thiếu vốn để đầu tƣ sản xuất,

thiếu kiến thức kỹ thuật về trồng, gieo ƣơm và

các kỹ thuật trong sản xuất lâm nông nghiệp.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

quản lý rừng

Trên cơ sở phân tích thực trạng QLR và sự

tham gia quản lý bảo vệ rừng của ngƣời

dân, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm

góp phần nâng cao khả năng QLR tại RĐD

Hữu Liên nhƣ sau:

- Tiếp tục thực hiện giao khoán bảo vệ rừng

cho hộ gia đình quản lý, gắn trách nhiệm hơn

nữa với các hộ và có chế tài mạnh hơn để xử

lý các hộ vi phạm hợp đồng, nếu hộ nào vi

phạm hợp đồng trong 2 năm liên lục thì

không giao khoán bảo vệ trong năm tiếp theo;

- Kiện toàn lại bộ máy lãnh đạo ban quản lý

RĐD, cử lần lƣợt cán bộ đi tập huấn nâng cao

năng lực về công tác quản lý bảo vệ rừng;

- Đổi mới cách thức hoạt động của đội 12

bằng cách phối hợp tổ chức các lớp tập huấn,

tuyên truyền cho cộng đồng dân cƣ về luật

bảo vệ và phát triển rừng, các văn bản liên

quan đến bảo vệ rừng...;

- Ban quản lý RĐD cần phối hợp chặt chẽ hơn

nữa với chính quyền và các tổ chức trong xã,

thôn để thực hiện công tác QLR, phối hợp với

ngân hàng để hƣớng dẫn ngƣời dân vay vốn

đầu tƣ vào sản xuất, nâng cao năng xuất, chất

lƣợng các mặt hàng nông sản.

Bảo vệ rừng làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống nông hộ

46

82

48

67

21

0

10

20

30

40

50

60

70

80

90

Giảm diện tích đất

sản xuất

Giảm sản lượng

khai thác các sản

phẩm khác từ rừng

Giảm diện tích

chăn thả gia súc

Giảm thu nhập Khác

% s

ố h

Bảo vệ rừng có tác động tích cực đến đời sống nông hộ

68

51

36

21

69

16

0

10

20

30

40

50

60

70

80

Nguồn nước ổn

định cho sản

xuất và sinh

hoạt

Giảm lũ vào

mùa mưa

Tăng thêm thu

nhập từ công

khoán BVR

Cải thiện cơ sở

hạ tầng

Môi trường tốt

hơn

Khác

% s

ố h

Hình 4. Ảnh hƣởng của hoạt động bảo vệ rừng đến đời sống nông hộ

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 51: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 - 48

48

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bảo Huy và cộng sự (2005), “Báo cáo nghiên

cứu tham vấn hiện trường khu vực tây nguyên về

Lâm nghiệp, giảm nghèo và sinh kế nông thôn ở

Việt nam”, Chƣơng trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp

và đối tác, Hà Nội.

[2]. Nguyễn Ngọc Lung (1998), “Forest

management system and forestry policies in Vietnam.

Proceeding of the national seminar on sustainable

forest management and forest certification” (Ho Chi

Minh City 1-12 February 1998)

[3]. Furey, N., L.X.Cảnh và Fanning, E (2000)

“Khảo sát đa dạng sinh học và đánh giá công tác

bảo tồn tại khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên”,

Chƣơng trình nghiên cứu rừng Frontier-Việt Nam do

Tổ chức khám phá môi trƣờng LONDON và Viện

Sinh thái và Tài nguyên sinh vật Hà Nội

SUMMARY

THE CURRENT SITUATION OF FOREST MANAGEMENT AND THE

PARTICIPATORY OF LOCAL COMMUNITY IN FOREST PROTECTION

AT HUU LIEN SPECIAL-USE FOREST, HUU LUNG DISTRICT, LANG SON

Nguyen Huu Giang

College of Agriculture and Forestry – TNU

Inappropriate management of forest resources is a reason leads to continuous degradation of area

and quality of forest in Huu Lien special use forests. The low efficiency of forest resource

management doest not meet the needs of sustainable development in economic, social and

environment. The result of study shows that household management of forest and forest land is

the most effective management and Special used forest management board is the most low

effective management. All people living in villages of the special-used forest have participated in

the construction "Protecting forest convention" but most people have not interested in this pledge.

80,07% of households have not known anything about 661 programs and policies related to the

mechanism of benefit in the reforestation, the only hire seasonal labor exchange between the

special used-forest management with the people has not created the long-term stability of

livelihoods to households through the program 661

Keywords: Forest management, forest, community, special use forests, Huu Lien - Lang Son

Tel: 0982688286; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 52: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 49 - 54

49

INDIGENOUS STUDY ABOUT NATIVE PLANT SPECIES ERYTHROPALUM

SCANDENS BL (BO KHAI) IN THE NORTHERN MOUNTAINOUS REGION OF

VIETNAM

Dang Van Minh, Dang Kim Vui, Nguyen Chi Hieu

College of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University

SUMMARY

Erythropalum scandens BL (local name is Bo Khai) are native plant species in Northern

mountainous region of Vietnam. These plant species have been widely used by local people as

vegetable and medicinal herb. However, there are still very few research and little information

about these plants. The overall project objective of this study is to apply farmer approach to

understand the natural growth and distribution, value and scarcity of native plant species

Erythropalum scandens BL in the Northern mountainous region of Vietnam. Results of the

research indicated that these plants were found in both limestone and hill land ecosystems.

Erythropalum scandens BL was found mostly in foot slope and catchment areas. Young plants of

Erythropalum scandens BL grow well in shade light under thick forest. Market demand of these

vegetables is high as being good taste and considering clean vegetables. These plant species have

been over exploited, increasing scarcity in the region. Farmers have collected seedlings and seeds

from forests to grow in their gardens as new crops but without much success due to lack of

knowledge and technology.

Keyword: Native plant species, indigenous knowledge, natural growth and distribution, scarcity

INTRODUCTION

The Northern Mountainous Region (NMR) is

home to a large proportion of Vietnam‟s

population and includes representatives of

thirty-five ethnic minority groups. Poor

literacy and low education levels create a

poverty trap that is difficult to overcome.

Way of living of people in this region still

follows self-sufficient method with heavily

depending on forest. However, the forests in

this region have come under increasing

pressure by many interrelated forces as

overexploiting, shifting cultivation,

exploitation for agriculture.

Non timber forest products (NTFP) are one

main source of income of local people in

mountain areas. In this region, the NTFPs have

been traditionally exploited by local people for

food and other uses, such as medicine or

materials for handicraft. NTFPs, therefore, are

considered as an important income generation

source for local people, particularly for those

whose living is much dependent on forest (Vu

Van Dung et al., 2002).

Tel:0912334310; Email:[email protected]

Among NTFPs, there are some native plant

species in NMR are popularly being used by

local people as food stuff and vegetable, e.g.

Erythropalum scandens BL (local name is Bo

Khai) that have been widely used by local

people as vegetable and medicinal herb.

Recently, some local people have collected

these plants from forest and sold to traders in

city. These vegetables are expensive as

considering clean and special vegetable with

very good taste. Consequently, these wild

plant species in forest are being over

exploited and in some places they are nearly

disappeared. Many farmers in the NMR now

can recognize the importance of these species

for their life, but there are increasing

difficulties for collection of plants from

natural forests. This is understandable, since

these species are exploited by many people.

Farmers, who have been working and living

on their place for a long time, usually

understand the plants in their place well.

Chamber (1983) stated that farmers‟

knowledge about the specific conditions in

which they produce may be more exact than

and often superior to that of researchers who

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 53: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 49 - 54

50

are outsiders. Farmers‟ knowledge is

sometimes referred to indigenous knowledge

or rural people‟s knowledge. Eyzaguirre

(1988) defined indigenous knowledge (here

referring to indigenous technical knowledge)

as a body of information applied to the

management of natural resources and labor at

a specific place. Scoones and Thompson

(1994) considered farmers‟ knowledge to be

highly specific and contextually bound

knowledge emerging from localized and

practical experience. Farmers‟ knowledge and

scientific knowledge usually complement

each other in sustainable programs as they are

both general and specific, theoretical and

practical (Scoones and Thompson, 1994).

Eyzaguirre (1988) suggested that the use of

indigenous technical knowledge would be

useful in adapting new technologies. Farmers

in many developing countries have a great

potential to identify new crops and

technologies that can provide the basis of

more specialized, non-traditional and high-

value exports. For example, in the rice

farming system in Asia, rice researchers tried

to incorporate farmers‟ perspectives into

identification of research issues and setting

research priorities. The concept “farmer-back-

to-farmer”, “farmer-first”, or “farmer-based

experimentation” was successfully applied in

many places (Fujisake, 1992).

The overall project objective of this study is

to apply farmer approach to understand the

natural growth and distribution, value and

scarcity of native plant species Erythropalum

scandens BL. in the Northern mountainous

region of Vietnam. The results of this study

will be good reference to develop scientific

research priority to conserve these plants in

forests and develop techniques to grow them

in gardens as new crop..

METHODOLOGY

The study was taken places in the Bac Kan province, which is approximately 160 kilometers north of Hanoi, the capital of Vietnam.. The study places are rich in natural resources with various native plant species growing due to diverse climate and other physical conditions (Castella and Dang, 2002).

Participatory method was highly appropriate approach to collect information. Survey was conducted to get fully understanding indigenous knowledge of local farmers regarding natural growth and distribution, value and scarcity of native plant species, as well as market orientation of these products in the local areas.

The questionnaire was developed based on the minimum socioeconomic survey approach described by Moran (1989). The questionnaire was used as an interview guide, in which the questions were structured in a way that was understood easily by the farmers. The questionnaire guide was pre-tested and corrections were then made to ensure that questions incorporated into the final survey were understandable by the farmers and satisfied the research objectives.

Sample size of the farmer survey was 62 farmers from two selected districts named Bach Thong and Cho Don districts of Bac Kan province.

Both qualitative and quantitative information described and recorded by farmers were synthesized. The results were then presented in a cross-tabular form as means and percentages.

RESULTS AND DISCUSSION

Farmer perceptions about natural

distribution and growth of plants

Erythropalum scandens BL (local name is Bo

Khai) are wild plant species and very popular in the study areas. Erythropalum scandens BL has line stem shape with 5-10 m long. This plant species can be found in places with altitude from 100-1000 m above sea level.

According to farmers‟ observation, 26 and

38% interviewed farmers indicated that Erythropalum scandens BL species are usually found in limestone ecosystem respectively, while only 2 % interviewed farmers see these plant in hill lands. Remaining interviewed farmers have no idea

about specific land ecosystem that these plants grown (Table 1). These results indicated that Erythropalum scandens BL can grow in diverse land ecosystems, but it is likely that . limestone ecosystem would be more suitable to these plant species.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 54: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 49 - 54

51

Regarding to landscape position, Erythropalum scandens BL was found mostly in lower slope position. 74% interviewed

farmers recognized that Erythropalum scandens BL species grow mostly in foot slope and level (catchment areas). Erythropalum scandens BL species found in lower slope position is an indication that this kind of plants requires more fertile soils and

high soil moisture. This result is suitable to other research results that indicated Erythropalum scandens BL usually grow in alluvial soils and riverine forests (http://www.efloras.org/).

As wild plant species, the growth of these plant species have been affected by various environmental factors in forests such as sunlight regime, moisture, etc. However, the affects of such environment factors on growth of plants vary among species. 85 % interviewed farmer recognized that young seedlings of Erythropalum scandens BL were found in shade light areas under thick forest (Table 3). It is likely that young seedlings of Erythropalum scandens BL require more shade light to grow. It is apparent that deforestation will result in reducing population of Erythropalum scandens BL species.

This result is suitable with other observations from farmers when they brought young plants from forest to grow in their gardens. Farmers

recognized that plants planting in the gardens grow much slower compared to growth of young plants in forest. This is explained that the young plant Erythropalum scandens BL growing in the forest is always in the shade of the trees‟ canopy, while growing in the

garden, plants have received more direct sunlight.

Farmers’ perception about values and

market access of these plants’ products

Erythropalum scandens BL have been widely used by local people as vegetable and medicinal herb. 100% interviewed farmers indicated that they have used these plants for vegetable (Table 4). These species are considered as clean and special vegetable with very good taste. Erythropalum scandens BL can also be good medicinal herb as recognized by 67% of interviewed farmers, respectively.

As being high valuable vegetable and medicinal herb, Erythropalum scandens BL and Phyllanthus elegans L. become popular in market not only in rural areas but also in urban areas.

Table 1. Farmers‟ perception on growing places in natural forest of native plant species

Erythropalum scandens BL and Phyllanthus elegans L

Land ecosystem Number farmers answer yes Percentage

Hill lands 1 2

Limestone Ecosystem 16 26

No specific sites 45 73

Total 62 100

Table 2. Farmers‟ perception on plants growing in different slope positions

Topography Number of farmers agreed Percentage

foots lope and level (Catchment‟s areas) 46 74

Shoulder and upper level 12 19

No specific place 4 6

Total 62 100

Table 3. Farmers‟ perception of young plants growing in different sunlight

Sunlight regime Number of

farmers agreed Percentage

Shade area in thick forest 52 85

In more direct sunlight areas (e.g. thin forests, barren lands,

bush areas after deforestation) 9 15

Total 61 100

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 55: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 49 - 54

52

Recently, some local people have collected

these plants from forest and sold to traders in

city (table 5). These vegetables are expensive

as considering clean and special vegetable

with very good taste. Many collectors from

city come to villages to buy these vegetables

and then sell them in city markets,

Consequently, these wild plant species in

forest are being over exploited and in some

places they are nearly disappeared.

Farmers’ perception about harvesting and

the scarcity of the plants in natural forest

Harvest method is important to conserve

natural plant resources. Unsuitable method

may cause to unsustainable harvesting. Data

in table 6 indicated that most of farmers

harvested Erythropalum scandens BL by

cutting young leaves and buds. Its

consequence would lead to rapidly reduce

plant population in the region and cause to

disappear of these species in some places.

Data in table 7 present some indicators

indicating scarcity of these plant species in

the region. Compared to last 7 years and last 5

years, number of people and frequency going

to collect these vegetables from forest

increased, travelling time to forests to get

vegetables was longer, quantity of vegetable

collected for one going significant increased.

All of these indicators indicated scarcity of

these natural resources increasing every year.

Table 4. Farmers perception about value of native plant species Erythropalum scandens BL

Purpose for use Number of farmers agreed Percentage

Vegetable 62 100

Medicinal herb 42 67

Total interviewees 62 -

Table 5. Market access of native plant species Erythropalum scandens BL

Number of farmers agreed Percentage

Number of farmer have sold vegetable 26 100

Place of selling:

- Selling for collector

- Selling in commune market

7

19

27

73

Table 6. Method of harvest from natural forest

Harvest method Number of farmers agreed Percentage

Harvest young leaves and

buds 50 86

Cutting trees to get

young leaves and buds 8 14

Total 58 100

Table 7. Comparison of number of people, time and frequency to collect native plant species

Erythropalum scandens BL and Phyllanthus elegans L from forest

7 years ago 5 years ago current year

Number of farmers involved harvest 31 54 58

Travel time to harvest (hour) 1.8 2 2.4

Frequency to collect vegetable in forest

(times per month) 3 3.33 4.4

Quantity of vegetable collected per travel

(bunch of vegetable) 35 32 25

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 56: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 49 - 54

53

Farmer planting these native plants

Farmers now can recognize the importance of

these species for their life, but there are

increasing difficulties for collection of plants

from natural forests. Many farmers want to

grow these native plant species as vegetable

crop. 40% of interviewed farmers indicated

that they have grown plant species

Erythropalum scandens BL respectively in

their home garden (Table 8).

Farmers have collected seedlings and seeds

from forests to grow in their gardens. Results

from the farmer survey indicated that more

farmers are wanting to grow these plants in

their garden as a crop, but without much

success due to lack of knowledge and

technology.

CONCLUSION

Erythropalum scandens BL (local name is Bo

Khai) are native plant species in Northern

mountainous region of Vietnam. These plants

were found in limestone and hill land

ecosystems, but it is likely that limestone

ecosystem would be more suitable than hill

land ecosystem. Erythropalum scandens BL

was found mostly in foot slope and catchment

areas, Young plants of Erythropalum

scandens BL grow well in shade light under

thick forest. These plant species have been

widely used by local people as vegetable and

medicinal herb. There is good market access

for these vegetables due to being good taste

and considering clean vegetables. These plant

species have been over exploited, increasing

scarcity in the region. Farmers have collected

seedlings and seeds from forests to grow in

their gardens as new crops but without much

success due to lack of knowledge and

technology.

ACKNOWLEDGEMENTS

The author would like to thank for the Seed

Fund for Research and Training (SFRT) of

the Southeast Asian Regional Center for

Graduate Study and Research in Agriculture

(SEARCA) for funding. Thanks for Faculty

stuff and Graduate students and

undergraduate students of Thai Nguyen

University of Agriculture and Forestry, as

well as Forestry department of Bac Kan

province, Vietnam for their help during

survey and collection of data.

REFERENCE

[1]. Castella, J.C. and D.Q. Dang. 2002.

Renovation of Mountainous Region: Changes of

land Use System and Development Strategy for

Farmers in Bac Kan, Vietnam. Agricultural

Publishing House, Hanoi. Pp. 149-173 (by

Vietnamese).

[1]. Chambers R. 1983. Rural Development:

Putting the Last First. Longman Inc., London.

Pp.75-103.

[2]. Eyzaguirre, P. 1988. Farmers knowledge,

world science, and the organization of agricultural

research systems. In Moock, J.L. and R.E. Rhoades

(eds). Diversity, Farmer Knowledge, and

Sustainability. Cornell University Press. Pp. 11-34.

[3]. Fujisaka, S. 1992. Farmer knowledge and

sustainability in rice-farming systems: blending

science and indigenous knowledge innovation. In

Moock, J.L. and R.E. Rhoades (eds). Diversity,

Farmer Knowledge, and Sustainability. Cornell

University Press. Pp. 69-84.

[4]. Moran, E. 1989. Socioeconomic survey

methods. Part 1: The minimum socioeconomic

survey. In Anderson, J.M. and J.S.I. Ingram (eds).

Tropical Soil Biology and Fertility. A Handbook

of Methods. C.A.B. International, Oxon (UK). Pp.

89-100.

[5]. Scoones, I. and J. Thompson. 1994.

Knowledge, power and agriculture- towards a

theoretical understanding. In Scoones, I. and J.

Thompson (eds). Beyond Farmer First: Rural

People‟s Knowledge, Agricultural Research and

Extension Practice. Intermediate Technology

Publications Ltd., London. Pp. 29-40.

[6]. Vu Van Dung, Jenne De Beer, Pham Xuan

Phuong. 2002. Overview of non timber forest

products in Vietnam. Document of the Project:

Sustainable utilization of non-timer forest

products. Project Secretariat. 8-Chuong Duong

Do, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 57: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đặng Văn Minh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 49 - 54

54

Table 8. Situation of farmers planting native plant species Erythropalum scandens BL

Content Number farmers Percentage

Number of farmers have grown plants in gardens

(of total 62 interviewees) 25 40

Planting places:

- Home gardens

- Forest lands after clearing

23

2

92

8

Sources of seedlings/seeds

- Seedlings taken from forest

- Collection seeds from forest

20

5

80

20

TÓM TẮT

NGHIÊN CỨU KIẾN THỨC BẢN ĐỊA VỀ CÂY RAU BÕ KHAI

ERYTHROPALUM SCANDENS BL TẠI VÙNG NÖI PHÍA BẮC VIỆT NAM

Đặng Văn Minh*, Đặng Kim Vui, Nguyễn Chí Hiểu

Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên

Erythropalum scandens BL (tên địa phƣơng là Bò Khai) là loài cây bản địa có ở khu vực miền núi

phía Bắc Việt Nam. Loài cây này từ lâu đã đƣợc ngƣời dân địa phƣơng sử dụng làm rau và thuốc.

Tuy nhiên, hiện nay các thông tin cũng nhƣ các nghiên cứu về loại cây này vẫn còn ít và thiếu.

Mục tiêu của nghiên cứu này là ứng dụng phƣơng pháp tiếp cận thực địa để tìm hiểu sự sinh

trƣởng cũng nhƣ sự phân bố tự nhiên của cây Bò Khai, tìm hiểu giá trị và mức độ khan hiếm của

loài Erythropalum scandens BL tại khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu

cho thấy cây Bò Khai có mặt ở cả hệ sinh thái núi đá vôi và đồi đất thấp. Erythropalum scandens BL

đƣợc phát hiện mọc chủ yếu ở chân đồi và các bờ suối. Cây Erythropalum scandens BL non có thể

sinh trƣởng tốt dƣới tán rừng rậm. Nhu cầu của thị trƣờng về loại rau này rất cao do rau có vị thơm

ngon và đƣợc coi là rau sạch. Hiện nay rau Bò Khai đang đƣợc khai thác quá mức, làm suy kiệt số

lƣợng loài. Ngƣời dân đã tiến hành thu thập hạt rau trong rừng sau đó đem gieo trồng trong vƣờn

nhà, tuy nhiên kết quả thu đƣợc rất thấp do thiếu kiến thức cũng nhƣ kỹ thuật trồng rau Bò Khai.

Từ khóa: Loài thực vật bản địa, kiến thức bản địa, tăng trưởng tự nhiên và phân bố, sự khan hiếm

* Tel:0912334310; Email:[email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 58: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Hƣng Quang và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 55 - 58

55

STUDY ON DIFFERENT FEED FORM ON THE PERFORMANCE

OF BROILERS CHICKEN

Quang N. H.

1* and Ebrahimi R

2

1College of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University 2Ramin University of Agriculture and Natural Resources

ABSTRACT

In this study, it was conducted to evaluate the effects of three various physical diet forms (whole

pellet, whole crumble, and mix crumble and pellet) on broilers performance. It was performed by

using 150 broilers (male and female mix) from commercial Arbor Acres breed in a completely

randomized design with 3 diets by 2 replications (25 chickens per each replication). Daily gain,

feed intake and FCR were measured in whole period, furthermore, carcass mean, breast, leg meat,

abdominal fat, liver, and gizzard were measured and analyzed at end of the experiment. Body

weight was not significant different among the tests. Feed intake was highest in the pellet groups.

FCR in the crumble groups was higher than that of the other groups. The results indicate that the

physical form of the diet had a significant effect on abdominal fat, which was highest in broilers

that fed with pellet diet.

Keywords: Particle size, performance, broiler chicken, body weight, FCR

INTRODUCTION

In poultry diets, cereal grains such as yelow

corn, rice, wheat are the primary energy

source. Therefore, not only must producers be

concerned about the composition of the grain,

but also how it is processed so the animal

may fully utilize the nutrients. Researches

shown that the physical form of diets and feed

particle size have a great effect on poultry

yield (Behnke and Beyer, 2004) [3]. The

effects of particle size on feed quality and

quality of poultry has been researched in a

number of settings (Behnke, 1994) [2]. Small

particle size increases the surface area of the

grain, thus allowing for greater interaction

with digestive enzymes. It also improves the

ease of handling and the mixing

characteristics. In poultry diets, the effects of

feed particle size appear to be confounded

with complexity of the diet as well as further

processing such as pelleting or crumblizing.

Cabrera (1994) [4] found no effect of feed

particle size (1,000 to 400 microns) on growth

performance of broiler chicks fed a complex

(added tallow, meat and bone meal, and

feather meal) diet fed in a crumblized form.

In the second trial, feed efficiency was

Tel:0985.588.164; Email: [email protected]

improved 3 percent by reducing particle size

from 1,000 to 500 microns in simple diets fed

as a meal form but not in crumblized diets.

Therefore, the response to reduced particle

(600 to 500 microns) size in broiler chicks

appears to be greatest when fed simple (grain-

soybean meal) diets in a meal form. Feeding a

complex diet in a crumblized form did not

appear to require particle size below 1,000

microns. Studies with laying hens suggest no

advantages in reducing particle size below

800 microns. In analyzing results of several

experiments evaluating the effects of dietary

particle size on pig performance, it is clear

that the greatest effect of particle size is on

feed efficiency. Most researchers would agree

that reducing mean particle size of cereal

grains to ≤600 µm results in marked

improvements in nutrient digestibility and

efficiency of growth. Decreasing the particle

size of ingredients results in a greater surface

area to volume ratio. Smaller particles will

have a greater number of contact points

within a pellet matrix as compared to larger

particles (Behnke, 1994) [2]. Some reports

suggest that the effects of feed particle size on

performance may be maintained even after

pelleting. There appears to be a general

consensus that particle sizes of broiler diets

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 59: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Hƣng Quang và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 55 - 58

56

based on maize or sorghum, optimum particle

size should be between 600 and 900 μm.

Available data clearly show that grain particle

size is more critical in mash diets than in

pelleted or crumble diets. Although it has

been postulated that finer grinding increases

substrate availability for enzymatic digestion,

there is evidence that coarser grinding to a

more uniform particle size improves the

performance of birds maintained on mash

diets. This counter-intuitive effect may result

from the positive effect of feed particle size

on gizzard development. A more developed

gizzard is associated with increased grinding

activity, resulting in increased gut motility

and greater digestion of nutrients. Although

grinding to fine particle size is thought to

improve pellet quality, it will markedly

increase energy consumption during milling.

Systematic investigations on the relationships

of feed particle size and diet uniformity with

bird performance, gut health and pellet

quality are warranted if efficiency is to be

optimized in respect of the energy

expenditure of grinding (Amerah et al, 2007)

[1]. In this research we investigated the

Effects of feed particle size on the

performance and carcass characteristics of

broilers.

MATERIALS AND METHODS

Birds and Diets

Experiments were performed using 150

broilers (male and female) from a commercial

Arbor acres breed. Starter and grower diets

were prepared and manufactured from a local

factory. All diets (Table 1) were corn-

soybean-based and were formulated to meet

or exceed NRC recommendations. All diets

and water were provided for ad libitum

consumption.

Statistical Analysis

The birds allocated in a completely

randomized design with 3 diets by 2

replications (25 chickens/each replication).

The chicken was grown till 42 days. The diets

that were used are shown in table (1). The

data collected were analyzed by using SAS

(SAS Institute, 2002) [8]. The average daily

gain and FCR were measured. At the end of

the experimental period 4 birds were

dissected from each treatment group to allow

carcass, leg meat, breast meat, abdominal fat,

gizzard and liver weight to be measured.

Table 1. Ingredient of diets formulated to NRC (1994) [6] specifications

(kg per tone)

No Ingredient Starter Grower

1 Yellow corn 462 512

2 Soybean meal 276 226

3 Rice bran 120 120

4 Shell 10 9

5 Sodium bicarbonate 1.5 -

6 Salt 1 1

7 Fish meal 50 50

8 Peanut meal 50 50

9 Phosphate 9 12

10 Methionine 1.8 1.8

11 Vitamin - Mineral premix 6 6

12 Oil 5 5

Nutrient contents

1 Calcium (%) 1.04 1.04

2 Phosphorus (%) 0.55 0.54

3 Methionine (%) 0.83 0.78

4 Lysine (%) 1.90 1.80

5 ME (kcal/kg) 2885 2925

6 Crude protein (%) 22.00 20.50

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 60: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Hƣng Quang và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 55 - 58

57

RESULTS AND DISCUSSION

Effects of Feed Particle Size on Weight

Gain

Just as presented in Table 2, the average daily

gain of chickens fed with pelleted diet was

greater than those fed with the crumbled, and

mixture of crumble and pellet diets. The

effects of the pelleted diet seemed to be

through enhancing feed intake and improving

FCR (Table 2). These results are support by

the work of Salari et al 2006 [7], Van biljohn

(2005) [9], Galobart and Moran (2005) [5].

Blobasy et al (2005), which showed that the

form of the diet hadn‟t significant effect on

weight gain and FCR.

Effects of Feed Particle Size on Feed Intake

According to the average of daily feed intake

(Table 2), we can understand that the daily feed intake in birds that used pellet was higher than that of bird fed other diets. Walstroom et al (1999) [10] reported that crumble diets as compared with mashed diets had most effects on feed intakes of hybrid

layers. Increasing feed intake in pelleted diets is due to increased of digestibility, gelatinization of diet elements and increased palatability. On the basis of these results the effect of processing on improving performance of broiler is clear, making it

important growers pay attention to the particle size of chicken food stocks because of its influence on FCR and weight gain.

Effects of Feed Particle Size on FCR

As shown in Table 2, in the whole period,

FCR were improved for pellet diet. These

results are supported by Salari et a. (2006)

[7]; Galobart and Moran (2005) [5]. Van

biljan (2005) [9] showed that the Feed

particle size did not significantly effect on

feed efficiency however caused to improve

the FCR.

Effects of Feed Particle Size on carcass

characteristics

As show in Table 3, the texture/physical form

of the diet has a significant effects on

abdominal fats (p<0.05); however weight of

carcass, breast meat, leg meat, liver, gizzard

did not differ by feed particle size. Salari et al

(2006) [7] has shown that pellet diets had

significant effect on an increasing abdominal

fats and decreasing femur percent of broiler

compared to other diets.

CONCLUSION

The results of this study indicate that feeding

of pellet diet did not have significant effect on

body weight, body weight gain, feed intake

and feed conversion ration. However it

showed the improvement of feed intake and

FCR compare to bird feeding with whole

crumble or crumble and pellet mixture. The

physical form of the diet had a significant

effect on abdominal fat, which was highest in

broilers that fed with pellet diet.

Table 2. Effects of feed particle size on Average Daily Gain, Feed Intake and FCR

No Items Whole pellet Whole crumble Crumble and pellet mixture

1 Daily weight gain (g) 60.86 2.32 55.52 2.44 58.76 3.8

2 Feed intake (g/chicken/day) 105.83 6.43 101.87 7.45 102.78 6.43

3 Feed conversion ration (FCR)

(kg feed/kg body weight) 1.73 0.27 1.84 0.18 1.80 0.00

Table 3. Effects of feed particle size on carcass characteristics (g)

No Items Whole pellet Whole crumble Crumble and pellet mixture

1 Carcass meat 1242.70 22.50 1509.70 30.00 1612.52 15.00

2 Breast meat 551.25 27.50 486.10 5.00 524.10 40.00

3 Leg meat 459.76 35.00 468.08 7.00 496.70 41.00

4 Abdominal fats 50.09a 0.00 38.20

b 4.00 32.20b 5.50

6 Liver 70.77 1.00 63.12 6.20 72.70 2.15

7 Gizzard 50.46 0.00 51.60 2.00 42.03 5.65

* Different description letter in the same row is significantly differed with P<0.05

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 61: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Hƣng Quang và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 55 - 58

58

REFERENCES

[1]. Ameraha1, A.M., V. Ravindrana1 c1, R. G.

Lentlea1 and D.G. Thomas, 2007. Feed particle

size: Implications on the digestion and

performance of poultry. World's Poul. Scie. J,

63:439-455. Doi: 0.1017/S0043933907001560.

[2]. Behnke, K. C. 1994. Factors affecting pellet

quality. Maryland Nutrition Conference. Dept of

Poultry Science and animal Science, collage of

Agricultural, University of Maryland, collage

Park.

[3]. Behnke, K. C. and R. S. Beyer. 2004. Effect of

feed processing on broiler performance.

Dissertation, Kansas State University, Manhattan.

http://www.veterinaria.uchile.cl/publicacion/VIIIp

atologia/SEMINARIOS/semi2.pdf

[4]. Cabrera, M. R. 1994. Effects of sorghum

genotype and particle size on milling

characteristics and performance of finishing pigs,

broiler chicks, and laying hens. M.S. Thesis.

Kansas State University, Manhattan, KS 66506.

[5]. Galobart. J. and E. T. Moran. 2005. Influence

of stocking density and feed pellet quality on heat

stressed broilers from 6 to 8 weeks of age.

International Journal of Poultry Sci. 4(2): 55-59.

ISSN 1682-8356.

http://www.pjbs.org/ijps/fin307.pdf

[6]. National Research Council. 1994. Nutrient

Requirements of Poultry. 9th rev. ed. National

Academy Press, Washington, DC. ISBN-13: 978-

0-309-04892-7.

[7]. Salari, S., H, Kermanshahi and H. N.

Moghadam. 2006. Effect of sodium bentonite and

comparison of pellet vs. mash on performance of

broiler chickens. Int. J. Poul. Sci. 5 (1): 31-34.

ISSN 1682-8356. 198.63.53.154

[8]. SAS Institute. 2002. Statistical Analysis

System Proprietary Software. Release 8.1. SAS

Inst.Inc., Cary, NC.

[9]. Van biljon, J. N. 2005. The effect of feed

processing and feed texture on body weight, feed

conversion and mortality in male broiler.

Department of production Animal and community

Health faculty of Veterinary Science University of

Pretoria. Dissertation of University of Pretoria.

http://en.scientificcommons.org/45542782

[10]. Wahlström, A., K. Elwinger and S. Thomke.

1999. Total tract and ileal nutrient digestibility of

a diet fed as mash or crumble pellets to two laying

hybrids. Animal feed Sci and Tech. 77: 229-239.

DOI: 10.1016/S0377-8401(98)00255-7.

TÓM TẮT

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC DẠNG THỨC ĂN

ĐẾN KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA GÀ THỊT

Nguyễn Hƣng Quang1

và Ebrahimi R2

1Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên 2Trường Đại học Nông nghiệp và các nguồn tự nhiên Ramin

Nghiên cứu đƣợc tiến hành nhằm đánh giá ảnh hƣởng của ba loại hình thức ăn có cấu trúc khác nhau

(thức ăn viên, thức ăn mảnh vụn và hỗn hợp thức ăn viên và thức ăn mảnh vụn) đến khả năng sản

xuất thịt của gà broiler. Thí nghiệm đƣợc tiến hành trên 150 gà thịt broiler giống AA lẫn trống mái

chia thành 3 lô thí nghiệm với 2 lần lặp lại (25 gà/ô thí nghiệm lặp lại). Các chỉ số đƣợc tiến hành

theo dõi đánh giá ảnh hƣởng của 3 loại hình thức ăn: sinh trƣởng tích lũy, tăng khối lƣợng, tiêu thụ

thức ăn, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng, khối lƣợng và tỷ lệ thịt xẻ, thịt ngực, thịt đùi, mỡ bụng,

gan và dạ dày cơ. Kết quả chỉ ra rằng khối lƣợng sinh trƣởng tích lũy của các lô thí nghiệm là không

sai khác thống kê. Gà ở lô thí nghiệm sử dụng thức ăn viên có tiêu thụ thức ăn cao, tuy nhiên tiêu tốn

thức ăn ở gà lô thí nghiệm sử dụng thức ăn mảnh lại cao hơn 2 lô còn lại. Kết quả cũng chỉ ra rằng gà

sử dụng thức ăn viên có khối lƣợng mỡ bụng cao nhất và sai khác có ý nghĩa thống kê so với 2 lô thí

nghiệm sử dụng thức ăn mảnh vụn và hỗn hợp mảnh vụn với thức ăn viên.

Từ khóa: Kích cỡ thức ăn, chỉ số sinh trưởng, gà broiler, sinh trưởng tích lũy, tiêu tốn thức ăn

Tel:0985.588.164; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 62: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 59 - 64

59

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA GIỐNG, MẬT ĐỘ BÃI THẢ ĐẾN KHẢ NĂNG

SẢN XUẤT THỊT CỦA GÀ BÁN NUÔI NHỐT Ở NÔNG HỘ

Nguyễn Thị Thuý Mỵ

1*, Trần Thanh Vân

2, Nguyễn Tiến Đạt

1

1Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên; 2Đại học Thái Nguyên

TÓM TẮT Nghiên cứu đƣợc tiến hành ở nông hộ xã Quyết Thắng và Phúc Xuân, thành phố Thái Nguyên trên

900 con gà lai F1 (Ri x Sasso) và gà địa phƣơng, với 3 mật độ bãi thả khác nhau: 2, 3 và 4 m2/con.

Kết quả cho thấy:

Mật độ bãi chăn thả khác nhau có ảnh hƣởng đến khả năng của gà F1 (Ri x Sasso) và gà địa

phƣơng. Ở mật độ bãi thả 3 m2/con, hai loại gà đều cho kết quả tốt nhất, các chỉ tiêu đều cho kết

quả tốt hơn so với mật độ bãi thả 2 và 4 m2/con.

Giống gà khác nhau có ảnh hƣởng rõ rệt đến kết quả, gà lai F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) cho kết quả sức

sản xuất thịt tốt hơn và giá chi phí trực tiếp cho kg gà thịt thấp hơn so với gà địa phƣơng ở tất cả

các mật độ bãi thả.

Nông hộ nên sử dụng gà lai có ½ máu gà nhập nội với mật độ bãi thả 3 m2/con nuôi gà thịt bán

chăn thả cho kết quả tốt.

Từ khóa: bán nuôi nhốt, mật độ bãi thả, gà lai, gà địa phương

ĐẶT VẤN ĐỀ

Chăn nuôi gà an toàn sinh học là áp dụng các

biện pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo cho đàn gà

khỏe mạnh, không dịch bệnh. Hiện nay, chăn

nuôi gà thả vƣờn đang rất phát triển ở các địa

phƣơng. Theo Trần Thanh Vân và cs (2002)

[7], mật độ bãi thả thích hợp cho gà thịt lông

màu nhập nội là 3m2/con. Tuy nhiên, mật độ

bãi thả thích hợp với gà lai và gà địa phƣơng

vẫn chƣa đƣợc xác định.

Để nghiên cứu ảnh hƣởng của loại gà và mật

độ bãi chăn thả đến sức sản xuất thịt của

phƣơng thức nuôi gà bán chăn thả, làm cơ sở

khuyến cáo và định hƣớng kỹ thuật cho ngƣời

chăn nuôi gà, góp phần vào xây dựng mô hình

chăn nuôi gà an toàn sinh học tại Thái Nguyên,

chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài này.

ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG

PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng, thời gian và địa điểm nghiên cứu

Gà địa phƣơng và gà lai F1 (♂ Ri x ♀ Sasso)

nuôi bán chăn thả với mật độ bãi thả lần lƣợt

là 2, 3, 4 m2/con tại nông hộ của 2 xã Quyết

Thắng, Phúc Xuân, TP Thái Nguyên. Thời

gian từ tháng 10/2009 đến tháng 10/2010.

Tel: 0912 28 28 16; Email: [email protected]

Nội dung, phƣơng pháp và các chỉ tiêu nghiên cứu

* Nội dung nghiên cứu

Ảnh hƣởng của mật độ bãi thả khác nhau đến khả năng sản xuất thịt của gà lai F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) và gà địa phƣơng nuôi trong nông hộ tại 2 xã Quyết Thắng, Phúc Xuân.

* Phương pháp nghiên cứu

Thí nghiệm đƣợc bố trí theo phƣơng pháp phân lô so sánh, đảm bảo đồng đều về các yếu tố, chỉ khác nhau về đối tƣợng gà và mật độ bãi thả.

* Các chỉ tiêu theo dõi

- Tỷ lệ nuôi sống; Sinh trƣởng tích luỹ, sinh trƣởng tuyệt đối; Hệ số chuyển đổi thức ăn; Chỉ số sản xuất và giá chi phí trực tiếp cho 1 kg tăng.

Phƣơng pháp xử lý số liệu

Số liệu thí nghiệm đƣợc xử lý theo phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi của Nguyễn Văn Thiện và cs, 2002 [6] và phần mềm Minitab.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm

Gà thí nghiệm ở các lô đều có tỷ lệ nuôi sống cao, dao động từ 94,67 đến 96,67 %. Tỷ lệ nuôi sống giữa các lô thí nghiệm là tƣơng đƣơng. Từ tuần 7 đến 12, không có gà chết ở tất cả các lô thí nghiệm. Tính chung cho 3 mật độ, tỷ lệ nuôi sống của gà lai và gà địa phƣơng sai khác không rõ rệt.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 63: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 59 - 64

60

Sơ đồ bố trí thí nghiệm

Lô thí nghiệm

Diễn giải

Lô thí nghiệm Lô đối chứng

Lô I Lô II Lô III Lô IV Lô V Lô VI

Loại gà gà lai F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) gà địa phƣơng

Số lƣợng (con) 50 50 50 50 50 50

Số lần lập lại 3 3 3 3 3 3

Tổng số gà thí nghiệm 150 150 150 150 150 150

Thời gian TN 1 – 12 tuần tuổi

Phƣơng thức nuôi Bán chăn thả

+ 1- 4 tuần tuổi Nhốt hoàn toàn

+ 5 – 12 tuần tuổi Thả vƣờn ban ngày

- Chuồng nuôi (gà/m2) 8

- Bãi chăn (m2/gà) 2 3 4 2 3 4

Bảng 1. Tỷ lệ nuôi sống cộng dồn của gà thí nghiệm (%)

Tuần

tuổi

F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) Gà địa phƣơng

Lô I Lô II Lô III Lô IV Lô V Lô VI

mX x mX x mX x mX x mX x mX x

3 96,00 ± 1,15 96,67 ± 1,67 96,00 ± 0,00 96,67 ± 0,67 97,33 ± 0,67 97,33 ± 0,67

7 95,33 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 96,00 ± 1,15 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67

8 95,33 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 96,00 ± 1,15 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67

9 95,33 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 96,00 ± 1,15 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67

10 95,33 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 96,00 ± 1,15 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67

11 95,33 ± 0,67 94,67 ± 0,67 94,67 ± 0,67 96,00 ± 1,15 96,67 ± 0,67 96,67 ± 0,67

12 95,33a ± 0,67 94,67

a± 0,67 94,67

a± 0,67 96,00

a± 1,15 96,67

a± 0,67 96,67

a± 0,67

*Ghi chú: Theo hàng ngang những số mang các chữ cái giống nhau thì sai khác giữa chúng không có ý

nghĩa thống kê (P>0,05).

So sánh với kết quả nghiên cứu của Nguyễn

Thị Thúy Mỵ và cs, 2009 [4] trên gà Sasso

bán nuôi nhốt ở vụ Xuân – Hè và vụ Thu –

Đông, có tỷ lệ nuôi sống dao động 96,89 % -

97,33 % thì kết quả của chúng tôi thấp hơn

không đáng kể.

Điều này chứng tỏ, mật độ bãi thả khác nhau

không ảnh hƣởng rõ rệt tới tỷ lệ nuôi sống của

cả gà địa phƣơng và gà lai.

Sinh trƣởng của gà thí nghiệm

* Sinh trưởng tích luỹ

Kết quả thể hiện ở bảng 2 cho thấy: Sinh

trƣởng tích luỹ của gà thí nghiệm tăng dần

qua các tuần tuổi, ở tất cả các lô thí nghiệm

với độ đồng đều cao. Tại thời điểm 12 tuần

tuổi, khối lƣợng gà thí nghiệm cao nhất ở lô II

là 2022,1 g, tiếp đến là lô I 1984,8 g, và thấp

nhất ở lô IV, 1231,1 g.

Kết quả thí nghiệm cho thấy: Trong cùng một mật độ bãi thả, sinh trƣởng tích luỹ giữa gà F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) luôn cao hơn so với gà địa phƣơng. Tính chung, khối lƣợng gà lai (1990,1 g) cao hơn gà địa phƣơng (1268,3 g), sự sai khác này có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Ở gà lai, khối lƣợng lô II cao nhất, thấp nhất ở lô III, sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Lô I và lô II sai khác không có ý nghĩa thống kê với P>0,05. Ở gà địa phƣơng, khối lƣợng lô V cao nhất, thấp nhất là lô IV với sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Lô V và lô VI có sai khác không có ý nghĩa thống kê với P>0,05. Nhƣ vậy, mật độ bãi thả khác nhau đã ảnh hƣởng tới sinh trƣởng của gà thí nghiệm. Sinh trƣởng tích lũy của gà lai và gà địa phƣơng cho kết quả tốt nhất ở mật độ bãi thả 3m

2/con.

So sánh với nghiên cứu của Lê Huy Liễu, 2004 [3], nghiên cứu trên gà Ri x Lƣơng Phƣợng và (Ri x kabir) thì kết quả của chúng tôi cao hơn.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 64: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 59 - 64

61

So sánh với kết quả của Nguyễn Huy Đạt,

2001 [2] nghiên cứu trên gà ¾ Lƣơng Phƣợng

và ¼ Ri nuôi bán chăn thả. Nguyễn Văn Đại

và cộng sự 2001 [1] nghiên cứu trên gà lai

(Mía x Kabir), đều có kết quả tƣơng đƣơng

với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tƣơng

đƣơng với kết quả nghiên cứu của Bế Kim

Thanh, 2002 [5]; của tác giả Trần Thanh Vân

2002 [7] trên gà Sasso ở mật độ bãi thả

3m2/con cho kết quả sinh trƣởng tốt nhất.

* Sinh trưởng tuyệt đối

Bảng 3 cho thấy cùng mật độ bãi thả, sinh trƣởng tuyệt đối trung bình từ 0-12 tuần tuổi của lô I là 23,17 g/con/ngày cao hơn lô IV là 14,29 g/con/ngày, lô II là 23,64 g/con/ngày cao hơn lô V là 15,15 g/con/ngày, lô III là 22,93 g/con/ngày cao hơn lô VI là 14,74g/con/ngày.

Bảng 2. Sinh trƣởng tích lũy của gà thí nghiệm (gam) (n = 3 đàn)

TT

Gà F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) Gà Địa phƣơng

Lô I Lô II Lô III Trung

bình Lô IV Lô V Lô VI

Trung

bình

mX x mX x mX x mX x mX x mX x mX x mX x

Nở 38,17

± 0,07

38,16

± 0,06

38,26

± 0,28 38,20

± 0,03

31,25

± 0,28

30,70

± 0,38

31,08

± 0,27 31,01

± 0,16

4 419,15

± 4,07

418,89

± 1,83

419,02

± 3,08 419,02

± 0,08

238,21

± 2,99

235,46

± 2,78

238,90

± 4,16 237,52

± 1,05

10 1625,0

± 5,83

1657,7

± 8,30

1600,1

± 6,66 1627,6

± 16,7

938,74

± 6,16

988,92

± 3,40

967,10

± 5,02 964,90

± 14,5

11 1814,4

± 6,03

1849,8

± 8,56

1787,1

± 6,15 1817,1

± 18,10

1089,0

± 5,32

1143,8

± 5,93

1123,1

± 7,76 1118,6

± 16,0

12 1984,8

ab

± 7,70

2022,1a

± 11,8

1963,4b

± 7,79

1990,1*a

±17,20

1231,1d

± 5,17

1302,6c

± 8,37

1271,2cd

± 14,70

1268,3*b

± 20,70

* Ghi chú: Theo hàng ngang (trừ 2 cột trung bình so sánh riêng với nhau) những số mang các chữ cái

giống nhau thì sai khác giữa chúng không ý nghĩa thống kê.

Bảng 3. Sinh trƣởng tuyệt đối của gà thí nghiệm (g/con/ngày) (n = 3 đàn)

Mật độ

bãi thả

Gà F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) Gà Địa phƣơng

Lô I Lô II Lô III Trung

bình Lô IV Lô V Lô VI

Trung

bình

mX x mX x mX x mX x mX x mX x mX x mX x

8-9 29,78

± 0,51

31,07

± 0,30

28,57

± 0,12

29,80

± 0,72

17,54

± 0,19

21,20

± 0,32

19,62

± 0,49

19,45

± 1,06

9-10 28,64

± 0,38

30,17

± 0,60

28,00

± 0,13

28,93

± 0,64

18,96

± 0,84

21,28

± 0,77

20,20

± 0,42

20,14

± 0,67

10-11 27,06

± 0,04

27,44

± 0,17

26,70

± 0,27

27,07

± 0,21

21,46

± 0,35

22,16

± 0,64

22,29

± 0,65

21,97

± 0,26

11-12 24,34

± 0,24

24,62

± 0,55

25,19

± 0,47

24,71

±0,25

20,30

± 0,19

22,82

± 0,86

21,16

± 1,31

21,43

± 0,74

0-12 23,17

ab

± 0,10

23,62a

± 0,14

22,93b

± 0,09

23,24*a

± 0,20

14,29d

± 0,06

15,15c

± 0,11

14,76cd

± 0,17

14,74*b

± 0,25

* Ghi chú: Theo hàng ngang (trừ hai cột trung bình so sánh riêng) những số mang các chữ cái giống nhau

thì sai khác giữa chúng không có ý nghĩa thống kê.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 65: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 59 - 64

62

Tính chung, sinh trƣởng tuyệt đối của gà lai

(23,24 g/con/ngày) cao hơn gà địa phƣơng

(14,74 g/con/ngày), sự sai khác có ý nghĩa

thống kê với P<0,001. Ở gà lai, sinh trƣởng

tuyệt đối lô II cao nhất, thấp nhất là lô III. Lô I

sai khác không có ý nghĩa thống kê so với lô II

và lô III (P>0,05). Ở gà địa phƣơng, sinh

trƣởng tuyệt đối lô IV cao nhất, thấp nhất là lô

VI. Lô VI sai khác không có ý nghĩa thống kê

so với lô IV và lô V (P>0,05). Lô V và lô IV

sai khác có ý nghĩa thống kê với P<0,05). Kết

quả trên cho thấy, gà lai và gà địa phƣơng cho

kết quả sinh trƣởng tốt nhất ở mật độ bãi thả

3m2/con.

Khả năng chuyển hoá thức ăn

Qua bảng 4 cho thấy tiêu tốn thức ăn

(TTTA)/kg tăng khối lƣợng của gà thí nghiệm

tăng dần qua các tuần tuổi và có sự khác nhau

giữa các lô. Trong cùng mật độ bãi thả tại thời

điểm 12 tuần tuổi, TTTA của lô I là 2,92 kg

thấp hơn lô IV là 3,98 kg, lô II thấp hơn lô I là

3,60 kg, lô III là 3,00 kg thấp hơn lô VI là 3,69

kg. Tính chung, TTTA của gà lai (2,89 kg) thấp

hơn so với gà địa phƣơng (3,76 kg), sự sai khác

này có ý nghĩa thống kê với P<0,01.

Ở gà lai, TTTA của lô II thấp nhất, cao nhất là

lô III. Sự sai khác giữa các lô không có ý nghĩa

thống kê với P>0,05. Ở gà địa phƣơng, TTTA

của lô V thấp nhất, lô IV cao nhất. Lô V và lô

VI sai khác so với lô IV có ý nghĩa thống kê

với P<0,05. Lô V và lô VI sai khác không có ý

nghĩa thống kê với P>0,05.

Kết quả trên cho thấy, ở mật độ bãi thả 3m2/con,

TTTA của cả gà lai và gà địa phƣơng đều thấp

hơn so với các mật độ bãi thả còn lại.

Chỉ số sản xuất

Kết quả bảng 5 cho thấy, từ 8 đến 12 tuần tuổi

chỉ số sản xuất của gà lai cao hơn hẳn gà địa

phƣơng. Ở gà lai, chỉ số sản xuất của lô II là

85,18 cao hơn so với lô I là 79,76 và lô III là

79,40, sự sai khác này có ý nghĩa thống kê với

P<0,05.

Bảng 4. Tiêu tốn thức ăn cộng dồn của gà thí nghiệm (kg) (n = 3 đàn)

Tuần

tuổi

Gà F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) Gà địa phƣơng

Lô I Lô II Lô III Trung

bình Lô IV Lô V Lô VI

Trung

bình

8 2,39 2,28 2,44 2,37 3,55 3,29 3,34 3,39

9 2,50 2,37 2,56 2,48 3,66 3,36 3,43 3,49

10 2,61 2,47 2,70 2,59 3,81 3,44 3,52 3,59

11 2,76 2,60 2,84 2,73 3,87 3,52 3,58 3,66

12 2,92c

2,75c

3,00c

2,89 3,98

a 3,60

b 3,69

b 3,76

* Ghi chú: Theo hàng ngang (trừ 2 cột trung bình so sánh riêng với nhau) những số mang các chữ cái

giống nhau thì sai khác giữa chúng không ý nghĩa thống kê.

Bảng 5. Chỉ số sản xuất của gà thí nghiệm (n = 3 đàn)

Lô TN

Tuần tuổi Gà F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) Gà Địa phƣơng

Lô I Lô II Lô III Lô IV Lô V Lô VI

8 117,54b 125,71

a 111,86

b 49,87

c 49,00

c 48,70

c

9 110,11b 125,18

a 105,69

b 46,81

d 61,13

c 56,64

c

10 103,64b 116,53

a 98,28

b 45,80

d 59,97

c 55,96

c

11 92,69b 100,64

a 88,96

c 54,50

d 61,14

d 62,27

d

12 79,76b 85,18

a 79,40

b 48,60

d 61,40

c 56,88

c

* Ghi chú: Theo hàng ngang những số mang các chữ cái giống nhau thì sai khác giữa chúng không có sai

khác trong thống kê.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 66: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 59 - 64

63

Ở gà địa phƣơng, chỉ số sản xuất của lô V là

61,40 cao hơn so với lô IV là 48,60 và lô VI là

56,88. Điều này cho thấy, ở mật độ bãi thả

3m2/con chỉ số sản xuất của gà lai và gà địa

phƣơng cho kết quả tốt hơn so với mật độ 2 và

4m2/con.

Sơ bộ tính giá chi phí trực tiếp

Qua bảng 6 cho thấy, chi phí trực tiếp cho 1

kg gà xuất bán của gà lai thấp hơn so với gà

địa phƣơng. Tính chung, chi phí cho 1 kg gà

xuất bán của gà lai là 28489,3 đ/kg, gà địa

phƣơng là 38701,2 đ/kg.

Ở cả gà lai và gà địa phƣơng, chi phí cho 1

kg gà xuất bán ở mật độ 3m2/con thấp hơn so

với mật độ 2 và 4m2/con. Ở mật độ bãi thả

3m2/con, chi phí/kg gà xuất bán của gà lai là

27245,4 đ/kg, ở gà địa phƣơng là 37189,4 đ/kg.

KẾT LUẬN

Mật độ bãi chăn thả khác nhau có ảnh hƣởng

đến khả năng của gà F1 (Ri x Sasso) và gà địa

phƣơng. Ở mật độ bãi thả 3 m2/con, hai loại gà

đều cho kết quả tốt nhất, các chỉ tiêu đều cho

kết quả tốt hơn so với mật độ bãi thả 2 và 4

m2/con; tại thời điểm 12 tuần tuổi, khối lƣợng

bình quân của gà lai là 2022,1 g và gà địa

phƣơng là 1302,6 g; sinh trƣởng tuyệt đối của

gà lai là 23,62 g/con/ngày và gà địa phƣơng là

15,15 g/con/ngày; TTTA của gà lai là 2,75

kg/kg tăng khối lƣợng và gà địa phƣơng là

3,60 kg/kg tăng khối lƣợng; chỉ số sản xuất của

gà lai là 85,18 và gà địa phƣơng là 61,40; chi

phí trực tiếp/kg gà thịt của gà lai là 27245,4

đ/kg và gà địa phƣơng là 37189,4 đ/kg.

Giống gà khác nhau có ảnh hƣởng rõ rệt đến

kết quả, gà lai F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) cho kết

quả sức sản xuất thịt tốt hơn và giá chi phí

trực tiếp cho kg gà thịt thấp hơn so với gà địa

phƣơng ở tất cả các mật độ bãi thả: đến 12

tuần, khối lƣợng là 1990,1 g của gà lai so với

1268,3 g của gà địa phƣơng; sinh trƣởng tuyệt

đối tƣơng ứng là 23,24 g/con/ngày và 14,74

g/con/ngày; hệ số chuyển hoá thức ăn là 2,89

và 3,76; Chỉ số sản xuất là 81,45 và 55,63;

Giá chi phí trực tiếp là 28.489,3 đ/kg gà thịt

và 38.701,2 đ/kg gà thịt.

Nông hộ nên sử dụng gà lai có ½ máu gà

nhập nội với mật độ bãi thả 3 m2/con nuôi gà

thịt bán chăn thả cho kết quả tốt.

Bảng 6. Sơ bộ tính giá chi phí trực tiếp (đ/kg gà thịt) (n = 3 đàn)

Diễn giải

F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) Gà Địa phƣơng

Lô I Lô II Lô III Tính

chung Lô IV Lô V Lô VI

Tính

chung

Phần chi phí trực tiếp (đ/kg gà)

Chi phí giống 3459,9 3372,4 3497,7 3443,3 6078,8 5689,4 5840,4 5869,5

Chi phí thức ăn 24417 22973 25049 24146 33830 30600 31365 31932

Chi phí thuốc TY 500 500 500 500 500 500 500 500

Chi phí khác 400 400 400 400 400 400 400 400

Tổng chi (đ/kg) 28776,9 27245,4 29446,7 28489,3 40808,8 37189,4 38105,4 38701,2

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Nguyễn Văn Đại, Trần Thanh Vân, Trần

Long, Đặng Đình Hanh (2001), “Đặc điểm ngoại

hình và khả năng sinh trƣởng, cho thịt của gà lai

F1 (Trống Mía x Mái Kabir) nuôi nhốt và bán

chăn thả tại Thái Nguyên”, Tạp chí Chăn nuôi số

5 – 2001, trang 9-13.

[2]. Nguyễn Huy Đạt, Hồ Xuân Tùng và cộng tác

viên (2001), Nghiên cứu lai giữa gà Lương

Phượng với gà Ri nhằm chọn tạo ra giống gà thả

vườn phục vụ chăn nuôi nông hộ, Báo cáo khoa

học, Viện Chăn nuôi, tr.106-120.

[3]. Lê Huy Liễu (2004), “Nghiên cứu khả năng

sinh trưởng, cho thịt của gà lai F1 (♂ Lương

Phượng x ♀Ri) và F1( ♂Kabir x♀ Ri) nuôi thả

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 67: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thúy Mỵ và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 59 - 64

64

vườn tại Thái Nguyên”, Luận án tiến sỹ nông

nghiệp, Đại học Thái Nguyên.

[4]. Nguyễn Thị Thúy Mỵ, Hoàng Thị Hồng

Nhung, Nguyễn Thị Hải, Trần Thanh Vân (2009),

"Nghiên cứu ảnh hƣởng của mùa vụ và phƣơng

thức nuôi tới khả năng sinh trƣởng và cho thịt của

gà thƣơng phẩm Sasso", Tạp chí Khoa học và

Công nghệ số 1 (49) năm 2009, trang 90-95.

[5]. Bế Kim Thanh (2002), “Xác định mật độ bãi

thả tối ưu cho gà thịt thương phẩm lông màu

Sasso, Lương Phượng nuôi bán chăn thả vụ hè –

thu tại Thái Nguyên”, Luận văn Thạc sỹ khoa học

Nông nghiệp, trƣờng Đại học Nông Lâm Thái

Nguyên, trang 50-52.

[6]. Nguyễn Văn Thiện (2008), Thống kê sinh vật

học ứng dụng trong chăn nuôi, Nxb Nông nghiệp,

Hà Nội.

[7]. Trần Thanh Vân (2002), “Nghiên cứu ảnh

hưởng của một số biện pháp giống, kỹ thuật đến

khả năng sản xuất thịt của gà lông màu Kabir,

Lương Phượng, Sasso nuôi bán chăn thả tại Thái

Nguyên’’, Báo cáo đề tài cấp Bộ B 2001- 02-10,

trang 50-55.

SUMMARY

EFFECT OF BREEDS, GARDEN DENSITIES ON PERFORMANCE OF CHICKEN

RAISING IN SEMIINTENSIVE SYSTEM AT HOUSE HOLD

Nguyen Thi Thuy My1

, Tran Thanh Van2, Nguyen Tien Dat

1

1College of Agriculture and Forestry - TNU 2Thainguyen University

The trial was carried out at house holds in Quyet Thang & Phuc Xuan Communes, Thai Nguyen

city on 900 crossed breed and local breed chickens raising in semiintensive system with variety of

garden density of 2, 3 and 4 square meters per chicken.

Garden densities per chicken had influenced on performance of both crossed breed and local breed

chickens raising semi intensive system. Garden density of 3 square meters per chicken showed the

best results which is was, better than that of 2 and 4 square meters per chicken.

Chicken breeds had influenced on performance, crossed breed F1 (♂ Ri x ♀ Sasso) there were

better results of producing meat, direct cost of producing live chicken meat was lower when

compare to local breed at all level garden densities.

Households should raise crossed beed chicken with ½ blood of imported breed and at 3 square

metters garden per chicken in semiintensive system.

Keywords: Semi intensive system, chicken density on garden, local breed, crossed breed.

Tel: 0912 28 28 16; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 68: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trần Thị Hoan và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 65 - 68

65

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA KHOẢNG CÁCH TRỒNG SẮN LẤY LÁ

ĐẾN SẢN LƢỢNG LÁ SẮN VÀ GIÁ THÀNH CỦA BỘT LÁ SẮN

Trần Thị Hoan

*, Từ Trung Kiên

Trường Đại học Nông lâm - ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Chúng tôi đã nghiên cứu trồng sắn lấy lá để làm thức ăn cho vật nuôi với 3 khoảng cách trồng khác

nhau là 1,0m x 0,4m; 0,8m x 0,4m; 0,6m x 0,4m. Kết quả nghiên cứu cho thấy: năng suất lá sắn trung

bình đạt cao nhất ở khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m) là 52,66 tạ/ha/lứa, của khoảng cách trồng (0,6m

x 0,4 m) đứng hàng thứ hai, đạt 42,74 tạ/ha/lứa, khoảng cách trồng (1,0m x 0,4m) có năng suất thấp

hơn cả, đạt 41,11 tạ /ha/lứa. Về sản lƣợng lá tƣơi, vật chất khô, protein khoảng cách trồng 0,8m x

0,4m cũng đạt cao nhất (tấn/ha/2 năm), lần lƣợt là: 31,594; 8,239; 1,840, và có chi phí sản xuất cho

1kg bột lá sắn thấp nhất : 3,871 đồng.

Từ khóa: Khoảng cách, trồng, sắn lấy lá, sản lượng, bột lá sắn

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ở các nƣớc phát triển, bột lá thực vật là một

thành phần gần nhƣ không thể thiếu đƣợc

trong thức ăn hỗn hợp của vật nuôi. Hiện nay,

ở Việt Nam bột lá thực vật chƣa đƣợc sản

xuất để đƣa vào thức ăn hỗn hợp. Trong

tƣơng lai nƣớc ta cũng phải sản xuất bột lá

thực vật để đƣa vào thức ăn hỗn hợp nhƣ các

nƣớc phát triển. Trong các loại cây trồng,

chúng tôi thấy cây sắn có triển vọng để sản

xuất bột lá. Cây sắn có sản lƣợng lá lớn, tỷ lệ

protein trong lá khá cao rất thích hợp cho việc

chế biến thành bột lá để phối trộn vào thức ăn

hỗn hợp của gia súc và gia cầm. Vì vậy,

chúng tôi dự kiến tiến hành một số thí nghiệm

về cây sắn với mục tiêu là sản xuất bột lá sắn.

Trong thí nghiệm này chúng tôi nghiên cứu

ảnh hƣởng của khoảng cách trồng sắn lấy lá

đến sản lƣợng lá và giá thành của bột lá sắn.

NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nội dung nghiên cứu

Nghiên cứu khoảng cách trồng sắn lấy lá khác

nhau để tìm ra khoảng cách thích hợp, có sản

lƣợng cao và giá thành sản phẩm thấp.

Đối tƣợng, địa điểm, thời gian nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu: Giống sắn KM94

- Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Thực hành Thực nghiệm, trƣờng Đại học Nông lâm Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

- Thời gian nghiên cứu: Năm 2009 - 2010

Tel: 0988.520 086; Email: [email protected]

Phƣơng pháp nghiên cứu

Thí nghiệm với ba khoảng cách trồng: 1,0 m

x 0,4m (hàng cách hàng 1,0m, cây cách cây

0,4m); 0,8m x 0,4m và 0,6m x 0,4 m.

Mỗi khoảng cách trồng đƣợc bố trí trên diện

tích 30m2 và đƣợc lặp lại 3 lần, bố trí thí

nghiệm theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn. Liều

lƣợng bón phân cho 1ha/1 năm là: Phân

chuồng: 10 tấn, đạm là: 120 kg N, lân: 40 kg

P2O5, Kali: 80 kg K2O. Năm thứ hai bón cùng

liều lƣợng nhƣ trên.

Các chỉ tiêu và phƣơng pháp theo dõi

- Thành phần dinh dƣỡng của đất thí

nghiệm và khí tƣợng khu vực nghiên cứu

(tỉnh Thái Nguyên).

- Năng suất và sản lƣợng lá sắn, thành phần

dinh dƣỡng của lá sắn và giá thành sản phẩm.

- Phƣơng pháp theo dõi các chỉ tiêu là các

phƣơng pháp thông dụng đƣợc sử dụng trong

nghiên cứu trồng trọt và chăn nuôi.

* Phương pháp xử lý kết quả: Các số liệu thu

thập đƣợc xử lý bằng phƣơng pháp thí

nghiệm trong chăn nuôi của Nguyễn Văn

Thiện (2000) [3] và trên phần mềm thống kê

Minitab 14.

KẾT QUẢ THẢO LUẬN

Khí tƣợng khu vực thí nghiệm

Khu vực thí nghiệm (tỉnh Thái Nguyên) có

nhiệt độ trung bình năm là: 24,2oC, ẩm độ

trung bình năm là 80,2%, lƣợng mƣa trung

bình năm là: 1700 mm. Nhƣ vậy, khí tƣợng

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 69: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trần Thị Hoan và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 65 - 68

66

của khu vực thí nghiệm hoàn toàn phù hợp

với sự sinh trƣởng của cây sắn trồng sán lấy

củ. Tuy nhiên, thời gian cuối năm nhiệt độ và

lƣợng mƣa thƣờng thấp, không hoàn toàn phù

hợp với trồng sắn để lấy lá.

Thành phần dinh dƣỡng đất thí nghiệm

Đất khu vực thí nghiệm có pH là 4,51, Nitơ

tổng số là 0,03 %; P2O5 tổng số: 0,06%, P2O5

dễ tiêu là 11,81 mg/100g, K2O tổng số 0,14

%; K2O dễ tiêu : 3,52 mg/100g; OM: 2,20 %.

Theo Từ Quang Hiển và CS (2002) [1] thì

đây là loại đất chua vừa và nghèo dinh dƣỡng,

vì vậy để cây trồng có năng suất cao cần phải

bón thêm phân cho cây trồng.

Năng suất lá sắn

Chúng tôi đã theo dõi năng suất lá sắn liên tục trong hai năm (2009 -2010), mỗi năm thu hoạch đƣợc 3 lứa. Kết quả về năng suất lá của từng lứa đƣợc tính trung bình từ hai năm, xem tại bảng 1.

Số liệu của bảng 1 cho thấy: Năng suất lá sắn của lứa 1 cao hơn lứa 2, năng suất lứa thứ 3 chỉ bằng 30% của lứa đầu và khoảng 50% của lứa thứ 2. Sở dĩ năng suất lứa thứ 3 thấp, vì thời kỳ này lƣợng mƣa thấp, các chất dinh dƣỡng cũng cạn kiệt dần do cung cấp cho hai lứa đầu.

Năng suất lá sắn trung bình đạt cao nhất ở

khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m) là 52,66

tạ/ha/lứa, của khoảng cách trồng (0,6mx0,4m)

đứng hàng thứ hai, đạt 42,74 tạ/ha/lứa,

khoảng cách trồng (1,0m x 0,4m) có năng

suất thấp hơn cả, đạt 41,11 tạ /ha/lứa.

Năng suất trung bình của khoảng cách trồng

(0,8m x 0,4m) có sự sai khác rõ rệt so với hai

khoảng cách trồng còn lại với P< 0,05, năng

suất của hai khoảng cách trồng (1,0m x 0,4

m) và (0,6m x 0,4m) không có sự sai khác rõ

rệt với p>0,05.

Thành phần hóa học của lá sắn

Lá sắn có thành phần học nhƣ sau: 26,08 %

VCK, trong vật chất khô có tỷ lệ protein là:

22,70 %, lipit: 7,92 %, xơ: 12,21 %, dẫn xuất

không chứa ni tơ: 47,40 %, khoáng tổng số:

7,49 %. Kết quả này phù hợp với kết quả

nghiên cứu của Nguyễn Thị Lộc và CS (2008)

[2], Y. Froehlich và CS. (2001) [4]

Tỷ lệ protein của lá sắn khá cao, tỷ lệ này chỉ

thua kém so với bột lá keo giậu (26-30%),

còn lớn hơn so với hầu hết các lá họ đậu khác.

Vì vậy, cũng có thể sử dụng bột lá sắn nhƣ

một nguồn cung cấp protein cho vật nuôi.

Sản lƣợng lá sắn

Căn cứ vào năng suất lá sắn của từng lứa, tỷ

lệ vật chất khô và protein trong lá sắn chúng

tôi đã tính đƣợc sản lƣợng lá sắn tƣơi, vật

chất khô, protein của 1ha trong hai năm và

đƣợc trình bày tại bảng 2.

Bảng 1. Năng suất lá sắn trung bình theo các lứa thu hoạch (tạ/ha/lứa)

Lứa thu hoạch

Khoảng cách trồng và năng suất

1,0 x 0,4

( X ± Xm )

0,8 x 0,4

( X ± Xm )

0,6 x 0,4

( X ± Xm )

Lứa 1 57,03 ± 0,96 67,66± 1,68 57,81± 1,47

Lứa 2 44,01± 0,85 59,11± 1,35 47,40± 1,08

Lứa 3 22,29 ± 0,60 31,20± 1,26 23,02± 0,34

NSTB 41,11 52,66 42,74

Bảng 2. Sản lƣợng lá sắn (tấn/ha/2 năm)

Khoảng cách

SL tƣơi

( X ± Xm )

VCK

( X ± Xm )

Protein

( X ± Xm )

1,0 x 0,4 24,667 ± 0,35 6,432 ± 0,06 1,436 ± 0,02

0,8 x 0,4 31,594 ± 1,6 0 8,239 ± 0.26 1,840 ± 0,09

0,6 x 0,4 25,646 ± 1,74 6,688 ± 0,29 1,493 ± 0,10

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 70: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trần Thị Hoan và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 65 - 68

67

Bảng 4. Chi phí cho một đơn vị sản phẩm

Chỉ tiêu Đơn vị Khoảng cách trồng và năng suất

1,0 x 0,4 0,8 x 0,4 0,6 x 0,4

Chi phí 1ha/2 năm VNĐ 35.613.000 37.979.000 35.933.000

Sản lƣợng BLS/ha/2 năm Kg 7.010 8.990 7.298

Chi phí cho 1kg BLS VNĐ 4.650 3.871 4.512

Sản lƣợng lá sắn tƣơi đạt cao nhất ở khoảng

cách trồng (0,8m x 0,4m) là 31,594 tấn/ha/2

năm. Khoảng cách trồng (0,6m x 0,4m) đứng

hàng thứ hai là 25,646 tấn/ha/2 năm, ở khoảng

cách trồng thƣa nhất (1,0m x 0,4m) đạt sản

lƣợng lá thấp nhất: 24,667 tấn/ha/2 năm. Kết

quả hoàn toàn phù hợp với kết quả công bố của

D Wyllie, 1979 [5].

Sản lƣợng vật chất khô của lá sắn cũng xếp

theo thứ tự nhƣ sản lƣợng lá tƣơi, khoảng cách

trồng (0,8m x 0,4m) là: 8,239 tấn/ha/2 năm,

khoảng cách (0,6m x 0,4m) đứng thứ hai là

6,688 tấn/ha/2 năm, khoảng cách (1,0m x

0,4m) đạt thấp nhất là: 6,432 tấn/ha/2 năm.

Sản lƣợng protein cũng đạt cao nhất ở khoảng

cách trồng có sản lƣợng lá cao nhất (0,8m x

0,4m) là 1,840 tấn/ha/2 năm và thấp nhất ở

khoảng cách trồng có sản lƣợng lá tƣơi thấp

nhất ( 1,0m x 0,4m) là: 1,436 tấn/ha/2 năm.

Sản lƣợng lá sắn tƣơi, vật chất khô và protein

của khoảng cách trồng (0,8m x 0,4 m) có sự

sai khác rõ rệt so với các khoảng cách trồng

(0,6m x 0,4m) và (1,0m x 0,4m) với p< 0,05.

Cả 3 sản lƣợng nêu trên (tƣơi, vật chất khô,

protein) của khoảng cách trồng (0,6m x 0,4m)

so với (1,0m x 0,4m) không có sự sai khác

nhau rõ rệt với p> 0,05.

Nhƣ vậy, khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m)

đạt cả 3 sản lƣợng lá tƣơi, vật chất khô,

protein cao nhất.

Chi phí sản xuất cho 1 kg bột lá sắn

Căn cứ vào chi phí phân bón, công lao động,

hom giống, nghiền bột lá sắn cho 1ha trong hai

năm và sản lƣợng bột lá sắn (BLS) của 2 năm,

chúng tôi đã tính đƣợc chi phí sản xuất 1kg bột

lá sắn và kết quả đƣợc trình bày tại bảng 4.

Chi phí sản xuất trồng sắn lấy lá cho 1ha

trong vòng hai năm nhiều nhất đối với khoảng

cách trồng (0,8m x 0,4m) là 37,979 triệu đồng

và khoảng cách trồng (0,6m x 0,4m) là 35,933

triệu đồng, còn khoảng cách trồng

(1,0mx0,4m): 35,613 triệu đồng, nhƣng sản

lƣợng bột lá sắn cũng đạt cao nhất ở khoảng

cách trồng (0,8m x 0,4m): 8,990 tấn/ha/2 năm

và thứ hai là khoảng cách trồng (0,6m x

0,4m): 7,298 tấn/ha/2 năm, và thứ 3 là khoảng

cách (1,0m x 0,4m): 7,010 tấn/ha/2 năm. Vì

vậy, chi phí cho 1kg bột lá sắn thấp nhất ở

khoảng cách trồng (0,8m x 0,4m) là : 3,871

đồng (VNĐ) và cao nhất ở khoảng cách

trồng: (1,0m x 0,4m) là 4,650 VNĐ.

KẾT LUẬN

Trồng sắn với mục đích lấy lá để sản xuất

bột lá làm thức ăn chăn nuôi với 3 khoảng

cách trồng khác nhau là 1,0m x 0,4m; 0,8m x

0,4m và 0,6m x 0,4m, kết quả nghiên cứu

cho thấy khoảng cách trồng 0,8m x 0,4m đạt

sản lƣợng lá tƣơi, vật chất khô, protein cao

nhất và chi phí cho sản xuất cho 1kg bột lá

sắn thấp nhất. Vì vậy, có thể áp dụng khoảng

cách trồng này để trồng sắn lấy lá với mục

đích làm thức ăn chăn nuôi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Từ Quang Hiển, Nguyễn Khánh Quắc, Trần

Trang Nhung (2002), Đồng cỏ và cây thức ăn gia

súc, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr.8-49.

[2]. Nguyễn Thị Lộc và Lê Văn An. Nghiên cứu

sử dụng củ và lá sắn ủ xanh trong khẩu phần lợn

thịt F1 (ĐB x MC), Tạp chí Khoa học Đại học

Huế, (2008) 43- 48.

[3]. Nguyễn Văn Thiện (2000), Phương pháp thí

nghiệm trong chăn nuôi. Nxb Nông nghiệp.

[4]. Froehlich. Y và Thái Văn Hùng. Sử dụng lá

khoai mì trong công nghiệp chế biến thức ăn gia

súc, Sắn Việt Nam hiện trạng định hướng và giải

pháp phát triển những năm đầu thế kỷ XXI, Viện

Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam (2001)

173 -174.

[5]. Wyllie D. (1979), Cassava leaf meals in

broiler diets, Faculty of Agriculture, Forestry and

Veterinary Science, University of Dar es Salaam,

Morogoro, Tanzania.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 71: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trần Thị Hoan và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 65 - 68

68

SUMMARY

STUDY ON EFFECT OF CROP DENSITY ON CASSAVA LEAF YIELD AND

COST OF LEAF POWDER

Tran Thi Hoan, Tu Trung Kien

College of Agriculture and Forestry - TNU

Three densities of cassava (1,0m x 0,4m; 0,8m x 0,4m; 0,6m x 0,4m) were planted. It showed that

the density of 0,8m x 0,4m provided the highest leaf yield which was 5.266 ton/ha; the density of

0,6 m x 0,4 m provided 4.211 ton/ha, the density of 1 m x 0,4 m provided the lowest yield which

was 4.111 ton/ha. In term of fresh leaves, dry matter, protein the density of 0,8m x 0,4m provided

highest values which were 31,594; 8,239; 1,840 respectively with the lowest cost which was 3.871

VND/kg leaf powder.

Keywords: Spacing, planting, cassava leaves, production, cassava leaf meal

Tel: 0988520086; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 72: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75

69

THE INFLUENCE OF WEANING TIME ON THE GROWTH OF

PIGLETS AND REPRODUCTIVE PERFORMANCE OF SOWS

IN VIET YEN DISTRICT, BAC GIANG PROVINCE

Truong Huu Dung

1*, Nguyen Thi Hanh

2

1College of Agriculture and Forestry - TNU

2Viet Yen Bac Giang College of Agriculture and Forestry

ABSTRACT

Findings of the influence of weaning age on the growth of piglets and reproductive performance of

Landrace, Yorkshire sows showed:

When weaned at 18 days old, weaners grew better than those weaned at 25 days of age, in

particular: In the period of 45 and 60 days, weaner‟s bodyweight was, 13,62; 21,19 kg - 13,29 and

20.70 kg/head respectively with (P <0,05). In addition, the early weaning had no negative effect on

the susceptibility rate of piglets for some gastrointestinal diseases, such as diarrhea and

coccidiosis.

Weaned at 18 days of age does not reduce the fertility of sows in the next litters, result of

reproductive performance of herd of sows in the two comparative and experiment groups showed

that the number of newborn piglets/ litter; number of alive newborn piglets/ litter and number of

weaned pigs/ litter is similar: 11,42 -11,33 head/ litter; 10,45 - 10,44 head/ litter; 9,47- 9, 38 head/

litter(P> 0,05), respectively.

Weaned piglets at 18 days of age also help the sow re-estrus sooner, which reduces weight loss

and improves feed consumption ratio (FCR) of weaners at 60 days of age compared with weaned

pigs at 25 days of age, these values were: 5,11 - 6,75 days (P <0,05): 10,17 - 11,80% (P <0,05) and

FCR: 2,47 - 2,75 , respectively.

Keywords: Early weaning; sow fertility, FCR, Etc

INTRODUCTION

In animal production sector, pigs production

is a conventional practice and it plays an

important role in livestock production as its

products mainly supplied to the market are

pork, which accounted for 75-76% of the total

meat supplied. Currently, pigs production in

Viet Nam had grown very well, the numbers

of sows increased from 2.9 million in 2001 to

4.09 million in 2009, which accounted for

13.10% of exotic sows, expecting to reached

14.20% by 2010.

Although pig production in Viet Nam has

grown rapidly in term of quantity as well as in

term of quality. However, the quality of pork

produced is relatively low, with lower

percentate of lean meat, especially those

produced in the midland provinces in the

northern mountainous region. Thus, it does

not only meet the consumer demand for lean,

soft, little fat meat, with delicious taste and

Tel: 0912221821; E.mail: [email protected]

flavor, but also fail to compete with regional

markets and the world‟s ones.

As one of nine districts of Bac Giang, Viet

Yen district was interested in developing herd

of exotic sows on the farm, however, farmers

who switched from growing domestic pigs or

cross-bred pigs to high productivity pigs were

limited or lack of information such as feeding,

management, disease prevention etc... but the

most urgent issue that they confront with is

the weaning age of piglets in order to achieve

most economical efficiency.

Currently, farmers practice of weaning piglets

at between 21 and 25 days old. But this is for

the purpose of improving the productivity of

exotic sows, reducing feed cost for 1 kg of

weaned pigs, and to increase the number of

litters/sow/year, eliminating some diseases‟

transmission from sows to piglets, then the

decision of the appropriate time to wean the

piglets is a necessary task. Based on the

above facts we conducted the trial:

“Effect of weaning age on the growth

performance of piglets and the fertility of sows

in Viet Yen District, Bac Giang province.”

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 73: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75

70

MATERIALS AND METHODS

Materials

- Exotic swine of Landrace and Yorkshire

breeds (72 sows) through the third and fourth

litters.

- Piglets are Landrace, Yorkshire breeds from

birth to 60 days old.

Methods and Measurements

* Methods:

The experiment was assigned according to

group‟s comparison. The tests ensure the

principle of batches uniformity , feeding,

housing conditions ... CP's feed for mother

and baby pig in the weaning period was used.

Between two groups there are different lots of

weaning time just for piglets

Experimental group: weaning age was 18

days (experimental factor).

Control group: weaning age was 25 days (It is

currently a common practice at pig farms). In

this experiment, we took the current weaning

applied for reference in the ranches for more

than a week early weaning (18 days).

*Measurements:

- The growth, feed consumption of the

experimental piglets

- The rate of diseases infection

- The fertility of sows

Formula Unit Experimental group Control group

The numbers of piglet

litter monitored litter 36 (18 L, 18Y) 36 (18 L, 18Y)

Parent pigs n/a Landrace, Yrokshire

litter number litter 3rd

Sow„s Weight kg 200 - 210

Number of piglets head 377 371

Breeds n/a Landrace, Yorkshire

Male / female ratio M/F 175/202 178/193

Experimental factor wean at 18 days Wean at 25 days

Table 1. Accumulative growth of the experimental pigs (kg / pig)

Period Experimental group Control group

n (head) X ± m x CV (%) n (head) X ± m x

CV (%)

new born 377 1,62a ± 0,01 3,11 371 1,63

a ± 0,02 5,82

15 371 5,19a ± 0,05 5,96 366 5,15

a ± 0,06 7,62

30 362 8,57a ± 0,06 3,99 354 8,44

a ± 0,07 4,64

45 358 13,62a ± 0,05 2,27 349 13,29

b ± 0,06 2,81

60 355 21,19a ± 0,13 3,74 345 20,70

b ± 0,14 3,99

* Note: The different subdescription letters in the same row are significantly differed with (P <0,05).

Diagram 1. The cumulative growth of pigs over periods

0

5

10

15

20

25

30

ss 15 30 45 60 Days of age

Weight ( kg)

Thí

nghi?m Experimental Control

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 74: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75

71

RESEARCH RESULTS

Effect of early weaning on grow

performance

* Accumulative growth of experimental pigs:

Bodyweight of newborn piglets between the

two groups was similar at the start of

experiment (P> 0,05) and increased gradually

through the periods, exactly reflected the

normality of the cumulative growth of piglets.

During period from birth to 30 days old,

piglets grew in two equal groups, which were

1,62- 8,57 kg/ head and 1,63 - 8,44 kg/ head

respectively. So in this period, the early

weaning did not only reduce the capacity of

growing, but also promoted the growth of

piglets in the next stage.

Results obtained during the period from 30 -

45 days of age showed that growing pigs in

experimental group and the control group had

different bodyweight,:13,62 and 13,29 kg/

head, respectively (P<0,05). Thus, in this

period, pigs in experimental group

significantly grown faster than those in the

control group by 0,33 kg/ head. (Checking for

statistic is needed).

At 60 days of age, the average bodyweight of

pigs in experimental group was 21,19 kg/

head which was significantly (P<0,05) higher

than that of control group (20,70 kg). So in

experiment group, piglets were weaned early

would grow better than those in control

group. (As a result, piglets are weaned early

in experimental group ,so they can be fed

other feed.

* Absolute growth rate of experimental pigs:

During period from 31 - 45 days old, the

absolute growth of pigs increased rapidly, in

particular: the absolute growth of

experimental group and the control group was

336,30 grams/head/day and 323, 30

grams/head/day, respectively. the growth rate

during this period of the second group was

significant different.

During period from 46-60 days: in the two

experimental and control groups, piglets

recieved similar nurture and care conditions,

but growth rate of pigs in two groups was

significant different: 504,70 grams/head/day;

494,20 grams/head/day (P <0,05), respectively.

The result is illustrated in Figure 1.

Table 2. Absolute growth of experimental pigs (grams/head/day)

Period

Experimental group Control group

n (head) xmX

Cv

(%) n (head) xmX

Cv

(%)

New born - 15 377 237,90a ± 3,60

9,04 371 234,60

a ±

4,20

10,74

16 - 30 371 225,70a ±

2,90

7,80 366 219,30

a ±

2,90

7,93

31 - 45 362 336,30a ± 2,80

5,23 354 323,30

b ±

2,90

5,38

46 - 60 358 504,70a ±

7,50

8,92 349 494,20

b ±

8,20

9,92

Note: The different subdescription letters in the same row are significantly differed with (P <0,05)

200

250

300

350

400

450

500

550

600

650

Khèi l­îng (gam)

ss-15 16-30 31-45 46-60

Giai ®o¹n (ngày tuæi)

Thí nghiệm

Đối chứng

Figure 1. Absolute growth of experimental pigs

Weigth (gram)

Day of age

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 75: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75

72

* Relative growth rate of experimental pigs:

Relative growth rate is the percentage of body

weight or size of the measured dimensions

increased before and after survey. In Table 3

shows the relative growth rate of pigs was

decreased. Relative growth rate of two

experimental and control groups comply with

the normality of growth which is reduced by

an increase of age.

During period from birth - 15 days old,

relative growth rate of experimental group

was 104,67% while that of the control group

was 103,52%. During period from 16-30 days

old, as this experimental factor has begun to

be conducted on the two groups, the relative

growth rate of the experimental and control

groups was 49,28% and 48,53%, respectively.

During period of 31-60 days old piglets had

weaned and gradually adapted to new living

conditions. Relative growth rate of pigs in

two experimental and control groups is fairly

uniform, with no significant differences. The

result is shown in Figure 2.

Influence of weaning age to the possibility

of the incidence of diarrhea of

experimental piglets

* The incidence of diarrhea of experimental

pigs:

The Findings showed that during period from

birth to weaning, the prevalence of diarrhea in

both groups was very high: 5,57 - 7,55% (P>

0,05), respectively. After weaning, the experimental and control

groups showed that the incidence of diarrhea

decreased over the corresponding periods

was: 3,49 - 3,85% and 1,10 - 1,14% (P>

0,05), respectively. This finding suggests that,

in the later stages of weaning, the infection

rate for digestive pathogen of both groups

were reduced and there was no difference

found amoung the group, it might be due to

pigs had equiped with the developer digestive

system than they had before and this was

capable to prevent the invasion of digestive

pathogen better than in the previous period

and weaning early at 18 days of age of pigs

did not affect the prevalence of diarrhea.

* The incidence of coccidiosis of experimental

pigs:

Results in Table 5 shows that the incidence of

coccidiosis in experimental and control

groups occurred in several stages from birth

to weaning, the differences between the two

groups did not have statistical significance (P

> 0.05). This demonstrates that 18- day

weaning period did not affect the incidence of

coccidiosis in piglets compared to 25 day

weaned pigs.

Table 3. Relative growth of experimental pigs

Period Experimental group Control group

n (head) Rate (%) n (head) Rate (%)

new born - 15 377 104,67

371 103,52

16 - 30 371 49,28

366 48,53

31 - 45 362 45,51

354 44,64

46 - 60 358 43,45

349 43,57

20

40

60

80

100

120

140

ss-15 16-30 31-45 46-60

Giai ®o¹n (ngµy tuæi)

Tỷ lệ (%)

Thí nghiệm

Đối chứng

Figure 2. Relative growth rate of experimental pigs

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 76: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75

73

Table 4. The incidence of diarrhea of experimental pigs

Period

Experimental Group Comparative Group

Number of

monitered

pigs (head)

Number of

infected pigs

(head)

The incidence

(%)

Number of

monitered

pigs (head)

Number of

infected pigs

(head)

The incidence

(%)

new born-wean 377 21 5,57a

371 28 7,55a

Wean - 30 372 13 3,49a

364 14 3,85a

31 – 45 363 4 1,10a

352 4 1,14a

46 - 60 358 3 0,88a

349 3 0,86a

Note: The different subdescription letters in the same row are significantly differed with (P <0,05)

Table 5. The incidence of coccidiosis of experimental pigs

Period Experimental Group Comparative Group

Number of

monitored

pigs(head)

Number of

infected

pigs (head)

The

incidenc

e (%)

Number of

monitored

pigs(head)

Number of

infected

pigs (head)

The

incidence

(%)

new born-wean 377 131 34,75a

371 120 32,35a

Wean - 30 372 2 0,54a

364 1 0,27a

31 - 45 363 0 0,00 352 0 0,00

46 - 60 358 0 0,00 349 0 0,00

Note: The different subdescription letters in the same row are significantly differed with (P <0,05)

Through this results we could see that early

weaned pigs did not affect the incidence of

coccidiosis and diarrhea in pigs. However,

the period after weaning is the susceptible

stage which is very high, therefore, avoiding

stress is unnecessary at this point. (Vague:

needa be reviewed)

Affect of weaning age on sows’ fertility

The result of monitoring the fertility of the

sow of two experimental and control groups

showed that the number of newborns/ litter,

the number of alive newborns/litter and the

number of weaned pigs/ sows‟ litter in the

groups is similar,, which were 11,42 - 11,33

head/ litter; 10,45 - 10,44 head/ litter; 9,47 -

9,38 head/ litter (P > 0,05), respectively.

The weight loss of sows in both groups

showed significant differences, , from 10,17

to 11,80% (P<0,05), respectively. In

experimental group, the weight loss is lower

than that of the control group, it might due

to the nursing time is 7 days shorter,

therefore, early weaning had reduced the

weight loss of sows.

Re-estrus time of sows after weaning in

experimental groups was 5,11 days and 6,75

days in the control group (P <0,05). Thus

weaned pigs at 18 days had helped sows‟ re-

estrus sooner.

The above analysis shows that the indicators

on the fertility of the two groups do not differ

markedly. Proved early weaning period of

piglets does not reduce the reproductive

performance of sows, on the other hand it also

prevent the weight loss of sows, and sows

soon returned to estrus cycle after weaning.

Effect of early weaning age to feed

consumption / kg of 60-day-old pigs

FCR of 60-day-old piglets is an indicator of

economic and of an important technique. For

farmers, this indicator reflects the level of

care, level of feeding of gilts and pigs post

weaning to 60 days old, and it also reflects the

breeding effective (production efficiency?).

For sows, this indicator reflects her ability to

utilize feed for the metabolic process to

supply the needs for pregnancy and lactation.

Results of FCR at 60-day-old pigs in the next

litter is shown in Table 8.

Amount of feed for pigs up to 60 days of age

in experimental group was higher than that

for the control group, which were: 210,54 and

200,49 kg/ litter, respectively. The reason is

that in experimental group, with earlier

weaning practice, the piglets were accessed

to feed one week earlier than those in the

control group.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 77: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75

74

Table 6. Results of monitoring reproductive performance of exotic sows in the fourth litter

Targets unit

Experimental group Comparative group

n X ± m x Cv

(%) n X ± m x

Cv

(%)

Number of

newborn pigs/

litter

head 36 11,42a

± 0,21 10,95 36 11,33a

± 0,24 12,44

Number of alive

new born pigs/

litter

head 36 10,45a

± 0,08 4,83 36 10,44a

± 0,15 8,40

Rate of alive new

born pigs % 36 92,24

a ± 1,30 8,78 36 92,87

a ± 1,30 8,40

Weight of new

born pigs / litter kg 36 16,94

a ± 0,14 4,97 36 17,05

a ± 0,24 8,56

Weight of new

born pigs/head kg 36 1,62

a ± 0,01 3,89 36 1,63

a ± 0,01 3,30

Number of

weaners / litter head 36 9,47 ± 0,34 15,55 36 9,38 ± 0,27 14,00

Weight of weaners kg 36 53,81 ± 0,16 15,24 36 67,50 ± 1,98 15,20

Weight of weaners kg 36 5,72 ± 0,21 16,98 36 7,41 ± 0,12 10,97

Weight loss of

sow % 36 10,17

a ± 0,56 17,56 36 11,80

b ± 0,43 25,59

Re-estrus after

separated day 36 5,11

a ± 0,34 39,73 36 6,75

b ± 0,68 60,59

* Note: The different subdescription letters in the same row are significantly differed with (P <0,05)

7

8

9

10

11

12

13

Con

Sè con ss/æ Sè con ss cßn sống/æ Sè con cai s÷a/æ

Thí nghiệm

Đối chứng

Figure 3. Number of newborns/litter, the number of alive newborn pigs and number

of weaned pigs/litter of experimental sows in the next litter

Table 8. FCR of pigs till 60-day-of age

Categories

Experimental group Control group

n

(head)

Amount of

feed (kg)

n

(head)

Amount of feed

(kg)

Feed for sows

Feed for waiting for copulating sows 36 12,77 36 16,87

Feed for pregnant sows, period 1 36 153,00 36 153,00

Feed for pregnant sows, period 2 36 60,00 36 60,00

Feed for breeding child sows 36 80,00 36 115,00

Feed for 60 –day- old piglets / litter 36 210,54 36 200,49

Total feed for a sow and for piglets until 60 – day- of age 36 516,31 36 545,36

Total bodyweight of 60-day-old piglets/ litter 36 208,93 36 198,31

Total of feed / kg until 60 - day-old pigs 36 2,47 36 2,75

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 78: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75

75

FCR up to 60-day-old pigs in experimental

group was lower than that of the control

group, which were from 2,47 and 2,75

respectively, The difference of 0,28 in FCR

suggests that early weaning had reduced feed

consumption of 1 kg per pig up to 60 -day- old

piglets, this is a very important factor in pig

production to reduce production cost, to

improve economic efficiency in sows keeping.

CONCLUSION

Early weaning had a positive effect on piglets

performance during the stage of 45 and 60

days of age.

Early weaning did not affect the susceptibility

rate of some gastrointestinal diseases such as

diarrhea and coccidiosis.

Early weaning did not reduce the reproductive

performance of sows in the next litter.

Early weaning had stimulated the sow to re-

estrus sooner.

REFERENCES

[1]. Dang Vu Binh (1999), “Phân tích một số ảnh

hưởng tới các chỉ tiêu năng suất sinh sản trong

một lứa đẻ của lợn nái ngoại” Findings of

scientific research (1996-1998), Agricultural

Publishing House, p.: 5-8.

[2]. “Chăm sóc lợn con sơ sinh” Journal of

science and life, No. 48, 06.17.2005, p.10.

[3]. Phan Xuan Hao (2006), “Đánh giá khả năng

sản xuất của lợn ngoại đời bố mẹ và con lai nuôi

thịt” Report of writing in science and technology

in the level of ministry

[4]. Truong Lang (2004), Cai sữa sớm cho lợn con

Da Nang Publishing House.

[5]. Tran Quoc Vietnam, Ninh Thi Len, Pham Duy

Pham and collaborators (1997)

”Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nuôi

dưỡng và cai sữa lợn con giống ngoại ở 30 – 35

ngày tuổi”, Scientific results of breeding scientific

and technical studies (1996-1997). Agricultural

Publisher, p.: 12-20.

TÓM TẮT

ẢNH HƢỞNG CỦA THỜI GIAN CAI SỮA ĐẾN SINH TRƢỞNG CỦA LỢN CON

VÀ KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA LỢN NÁI TẠI VIỆT YÊN, BẮC GIANG

Trƣơng Hữu Dũng1, Nguyễn Thị Hạnh

2

1Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên

2Trường Cao đẳng Nông Lâm Bắc Giang

Kết quả nghiên cứu ảnh hƣởng của thời gian cai sữa đến sinh trƣởng của lợn con và năng suất sinh

sản của lợn mẹ giống Landrace, Yorkshire cho thấy:

Cai sữa ở 18 ngày tuổi, lợn con sinh trƣởng tốt hơn so với với cai sữa ở 25 ngày, cụ thể: Ở giai

đoạn 45 và 60 ngày tuổi, khối lƣợng lợn con cai sữa tƣơng ứng là 13,62; 21,19 kg/con - 13,29 và

20,70 kg/con với (P< 0,05). Đồng thời, cai sữa sớm cho lợn con không ảnh hƣởng đến tỷ lệ cảm

nhiễm một số bệnh đƣờng tiêu hóa nhƣ bệnh tiêu chảy và cầu trùng.

Cai sữa ở 18 ngày tuổi không làm giảm năng suất sinh sản của lợn mẹ ở lứa tiếp theo và giúp lợn

mẹ động dục trở lại sớm hơn, giảm tỷ lệ hao mòn và giảm tiêu tốn thức ăn/kg lợn con 60 ngày tuổi

so với cai sữa 25 ngày tuổi, tƣơng ứng là: 5,11 - 6,75 ngày (P< 0,05); 10,17 - 11,80%, (P< 0,05);

2,47 - 2,75kg thức ăn/kg tăng khối lƣợng.

Từ khóa: Cai sữa sớm; lợn nái sinh sản, FCR, Etc

Tel: 0912221821; E.mail: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 79: Tap 77 - So 1 nam 2011

Trƣơng Hữu Dũng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 69 - 75

76

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 80: Tap 77 - So 1 nam 2011

Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 77 - 82

77

THE DROUGHT TOLERANT CHARACTERISTICS OF SOME UPLAND LOCAL

MAIZE CULTIVARS (ZEA MAYS L.) IN THE NORTH OF VIET NAM

Chu Hoang Mau1*

, Nguyen Vu Thanh Thanh2, Pham Thi Thanh Nhan

1

1* Department of Genetics and Modern Biology, College of Education - TNU 2 Department of Genetics, College of Science - TNU

SUMMARY

Maize (Zea mays L.) is one of the widely grown grains in Viet Nam. The local upland maize

cultivars play an important role for the life of people living in mountainous regions in the North of

Viet Nam. The quality of seed and drought tolerance ability of local upland maize cultivars are

good. In this work, we have studied drought tolerance character and dehydrin gene of some local

upland maize cultivars. Among them these are six cultivars with high drought tolerance ability

(BK, HL, QH, YM, TL, and QU) and two maize cultivars BG and VN2 with low drought tolerance

ability. Dehydrin – LEA (lete embryogenesis abundant) – D11 is a plant protein family in a

number of higher plants, a species of protein produced by plants during drought or low

temperature stress. These are six dehydrin protein types of maize: dhn1, dhn2, dhn3, dhn4, dhn5,

and dhn6. DHNs are unified by the presence of one or more copies of a putative amphipathic α -

helix-forming domain (the K-segment), which is highly conserved in higher and lower plants and

has a 15 residue consensus sequence EKKGIMDKIKEKLPG. We had cloned dhn1 gene from

DNA of genome of local upland maize cultivars. The 0.6 kb of dhn1 gene was amplified by PCR

and carry out successfully with LeaZeM1 primers. Cloning of PCR products and DNA sequencing

is carrying out.

Keywords: Dehydrin, drought, upland local, maize,Dhn1, cloning, PCR

INTRODUCTION

Maize is widely cultivated throughout the

world. Maize (Zea mays L.) is also one of the

widely grown grains in Viet Nam. The local

upland maize cultivars play an important role

for the life of people living in mountainous

regions in the North of Viet Nam. The quality

of seeds, drought tolerance ability and

resistant ability for of local upland maize

cultivars are good. Therefore, the preservation

of the gene resource of the local upland maize

cultivars is now very necessary. To research

on drought tolerance ability of local upland

maize cultivars, we isolated dehydrin gene.

Dehydrin – LEA (late embryogenesis

abundant) – D11 and dehydrins are products

of multigene families in a number of higher

plants (Close, 1996) [2], a species of protein

produced by plants during drought or low

temperature stress. These are six dehydrin

protein types of maize: dhn1, dhn2, dhn3,

dhn4, dhn5, and dhn6. DHNs are unified by

Tel:0913 383 289; Email:[email protected]

the presence of one or more copies of a

putative amphipathic α -helix-forming

domain (the K-segment), which is highly

conserved in higher and lower plants and has

a 15 residue consensus sequence

EKKGIMDKIKEKLPG (Allagulova et

al.,2003 [1]; Hong-Bo et al., 2005 [6]; Yuxiu

et al. 2007 [15]). Dehydrins (DHNs; late

embryogenesis abundant D-11) are a family

of plant proteins induced in response to

abiotic stresses such as drought, low

temperature, and salinity or during the late

stages of embryogenesis (Close, 1989 [3];

Allagulova et al., 2003 [1], Roat, 2006 [14]).

In Viet Nam, quality of seeds, drought

tolerance ability and resistant ability for of

local upland maize cultivars in the North

have are good (Mau and Anh, 2005 [10];

Nhan et al., 2007 [13]), they are diversity of

phenotype and genotype (Mau and Anh.,

2006 [11]). The genetic diversity and

diversity of dehydrin gene of Viet Nam maize

cultivars has been researched (Lien et al.,

2005 [8]; Mau et al, 2007 [12]).

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 81: Tap 77 - So 1 nam 2011

Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 77 - 82

78

MATERIALS AND METHODS

Eight local maize cultivars (BK, HL, QH,

YM, TL, QU, BG and VN2) provided by the

mountainous region of North in Viet Nam

(Table 1).

One specific primer pair, including: LeaZeM1F 5' ATGGAGTACGGTCAGCAGGGGC 3‟

LeaZeM1R 5' TCAGTGCTGTCCGGGCAGC 3'

Cloning pTZ57R/T vectors. Both primers

and vector are supplied by Fermentas.

Definition of sugar content and α- amylase

activity value at the germinating stage by 5%

sorbitol treatment. Assessment of drought

tolerance ability of eight maize cultivars at

the plantlet stage by factitious drought

treatment. Definition of the dissimilar

coefficients of maize cultivars by the

NTSYSpc- 2.02i program.

Total DNA is separated from leaf of eight

maize cultivars following the method of

Gawel and Jarnet (Gawel et al., 1991) [4].

PCR is performed in a total volume of 50 μl.

PCR conditions are: an initial denaturation

step of 940C for 3 min, followed by 30 cycles

of 940C for 30 sec, 57

0C for 1 min and 72

0C

for 1 min. The final extension step is 720C for

10 min. The PCR products are checked by 1%

agarose gel electrophoresis.

PCR products are cloned into pTZ57R/T

(Glick et al., 1998) [5].

RESULTS AND DISCUSSIONS

The drought tolerance ability of some local

Vietnamese maize cultivars

* The analysis of biochemistry characters at

the germinating stage:

We researched on sugar content and α-

amylase activity in 8 maize cultivars at the

germinating stage by 5% sorbitol treatment.

The results have shown in table 2 and table 3.

When treating physiological drought by 5%

sorbitol treatment, sugar content and α-

amylase activity were also increased from 1

to 11 day germ maize, and decreased at 14

day germ maize, highest at 11 day germ

maize. HL cultivar had the highest sugar

content and α- amylase activity, VN2 cultivar

was lowest.

Table 1. Origin of eight maize cultivars in the North of Vietnam

Order Maize cultivars Wax/flint Origin

1 BG Wax Local Bacgiang cultivar

2 BK Wax Local Backan cultivar

3 HL Wax Local Halang-Cao Bang cultivar

4 QH Wax Local Quanghoa- Caobang cultivar

5 YM Wax Local Yenminh- Ha Giang cultivar

6 TL Wax Local Tralinh- Cao Bang cultivar

7 VN2 Wax Hybrids Vietnam cultivar

8 QU Flint Local Quanguyen- Cao Bang cultivar

Table 2. The variation of sugar content of 8 maize cultivars by 5% sorbitol treatment

Maize

Cultivars

The variation of sugar content at the germinating stage by 5% sorbitol treatment (%)

1 day

germ

maize

3 day

germ

maizet

5 day

germ

maizet

7 day

germ

maize

9 day

germ

maize

11 day

germ

maize

14 day

germ

maize

BG 0.53± 0.08 0.65± 0.02 0.67± 0.06 1.04± 0.01 1.05± 0.01 1.32± 0.05 0.58± 0.01

BK 0.34± 0.03 0.40 ±0.08 0.79±0.01 1.04± 0.02 1.05± 0.01 1.33± 0.03 0.60± 0.01

HL 0.23± 0.03 0.52± 0.10 0.79± 0.01 1.05± 0.01 1.06± 0.01 1.39± 0.02 0.64± 0.03

QH 0.30± 0.05 0.59± 0.06 0.82± 0.03 1.05± 0.01 1.06± 0.00 1.34± 0.06 045± 0.09

YM 0.29± 0.02 0.57± 0.02 0.85± 0.03 1.05± 0.01 1.07± 0.00 1.32± 0.04 0.55± 0.09

TL 0.33± 0.03 0.60± 0.10 0.84± 0.11 1.05± 0.02 1.06± 0.00 1.35± 0.04 0.47± 0.07

VN2 0.18± 0.04 0.50± 0.03 0.68± 0.05 1.02± 0.02 1.05± 0.01 1.30± 007 0.40± 0.09

QU 0.18± 0.07 0.65± 0.07 0.86± 0.05 1.03± 0.02 1.06± 0.00 1.38± 0.04 0.66± 0.01

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 82: Tap 77 - So 1 nam 2011

Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 77 - 82

79

Table 3. The variation of α- amylase activity of 8 maize cultivars by 5% sorbitol treatment

Maize

Cultivars

The variation of α- amylase activity at the germinating stage by 5% sorbitol treatment (activity unit/mg)

1 day germ

maize

3 day germ

maize

5 day germ

maize

7 day germ

maize

9 day germ

maize

11 day germ

maize

14 day germ

maize

BG 0.0003±0.00 0.0081±0.00 0.0120±0.00 0.0930±0.04 0.1462±0.00 0.1641±0.00 0.0071±0.00

BK 0.0004±0.00 0.0033±0.00 0.0124±0.00 0.0640±0.02 0.0733±0.00 0.2024±0.00 0.0043±0.00

HL 0.0004±0.00 0.0014±0.00 0.0131±0.00 0.2063±0.06 0.2240±0.00 0.2430±0.00 0.0162±0.00

QH 0.0004±0.00 0.0040±0.00 0.0054±0.00 0.0114±0.00 0.0281±0.00 0.2073±0.01 0.0291±0.00

YM 0.0002±0.00 0.0062±0.00 0.0081±0.00 0.0642±0.00 0.0674±0.00 0.1934±0.00 0.0442±0.00

TL 0.0003±0.00 0.0051±0.00 0.0070±0.00 0.0463±0.01 0.0703±0.00 0.1942±0.00 0.0394±0.00

VN2 0.0002±0.00 0.0003±0.00 0.0022±0.00 0.0411±0.01 0.0681±0.00 0.1340±0.00 0.0110±0.00

QU 0.0004±0.00 0.0022±0.00 0.0061±0.00 0.0542±0.01 0.0612±0.00 0.1474±0.01 0.0042±0.00

* Study on the drought tolerance ability of

maize cultivars:

We assessed the drought tolerance ability of

maize cultivars at the plantlet stage by

factitious drought treatment. The results

showed the difference of the drought

tolerance ability (table 4).

The dryness index in maize cultivars were

from 10715.40 to 33763.98 and was highest

drought tolerance ability in HL cultivar.

The dissimilar coefficients of response of 8

maize cultivars were determined by

NTSYSpc- 2.02i program. The dendrogram

was established for two groups: BG, VN2 in

one, and BK, HL, TL, QU, QH, YM in other.

The similar coefficients of maize cultivars

were from 0% to 30.43% (fig 1).

By physiological and factitious drought

treatment, we selected HL cultivar with the

highest drought tolerance ability, and VN2

cultivar with the lowest.

Amplification and cloning of dehydrin

genes

Dehydrins are a group of proteins that are

accumulated during environmental stress such

as drought and low temperature or during late

embryogenesis. However, DHNs contain at

least one copy of a consensus 15-amino acid

sequence, the "K segment," which resembles

a class A2 amphipathic alpha-helical, lipid-

binding domain found in other proteins such

as apolipoproteins and alpha-synuclein. The

presence of the K segment raises the question

of whether DHNs bind lipids, bilayers, or

phospholipid vesicles (Allagulova et al., 2003

[1]; Yuxiu et al., 2007 [15]).

With the analysis of dehydrin gene sequence in

a maize cultivar in NCBI which has code

X15290, we design specific primer pair to

amplify and see dehydrin genes in maize

cultivars

(http://www.ncbi.nlm.nih.gov/X15290) [7].

To isolate gene encoding dehydrin in genome

of maize cultivars, we segregated the DNA

total. The DNA concentration of 50 ng of all

sample was suitable to amplify the dehydrin

gene fragments. There are no visual

difference in the size of PCR products of all

DNA sources from eighth cultivars, the size

of the PCR product expected to be around 600

bp (Fig 2).

We selected HL and VN2 cultivar to clone.

The PCR products were inserted into the

cloning vector pTZ57R/T and transformed

into E.coli strain DH5α and selected by

blue/white technique. The results of gene

transfomation and selection shows in figure 3.

We choose white fungus colony grewn in LB

liqid medium containing 100 mg/l ampicillin

all night. PCR products of cloning are

checked by 1% agarose gel electrophoresis

(figure 3).

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 83: Tap 77 - So 1 nam 2011

Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 77 - 82

80

Table 4. The drought tolerance ability of maize cultivars at the plantlet stage

Maize cultivars BG BK HL QH YM TL VN2 QU

Dryness index 12799.96 22148.68 33763.98 18631.25 16727.51 25193.69 10715.40 17535.57

Figure 1. Phylogenetic tree of 8 maize cultivars

Figure 2. PCR products amplified using dehydrin genes specific primers and genomic DNA samples of

BK, HL, TL, QU, BG and VN2 maize cultivars; M: Marker 1kb

Figure 3. Result of PCR cloned products

M: Marker . 1. HL; 2.VN2

600bp→

M 1 2 3 4 5 6

M 1 2

800bp→

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 84: Tap 77 - So 1 nam 2011

Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 77 - 82

81

We can see the result of electrophoresis

shown in fig 3 that these PCR products which

are issued from white fungus colony are

positive. Most of the products are only one

band with right size. This improves that the

results of transfomation and cloning selection

are good and PCR is optimistic. We can

confirm that connecting PCR products with

clone vectors has good result. We choose

white fungus colony of researching samples

with these Plasmids were purified by

QIAprep Spin Miniprep Kit.

LEA is proteins group have playing

important on the water loss and the drought-

resistant ability of cell. When dehydration

occurs, messenger RNA appears in the seed

and is forming and increase of quantity,

including many different messenger RNA of

in the seeds and are decomposition all in the

process of germinating. The dehydrin (dhn)

are associated with phospholipid particles in

the final stages of embryo formation and

disappear very quickly start to germinate.

This capability of dhn enables prediction

about protection functions in the cell

membrane of phospholipid particles.

The level of transcription of LEA gene is

controlled by the absisis acid (ABA) and

dehydration and osmotic pressure of the cells.

A characteristics of the group of LEA proteins

include from 82 to 575 amino acids, rich in

hydrophobic amino acids (lysine, glycine),

does not contain cysteine and tryptophan, is

the α- helix and heat resistance (Close, 1996)

[2]. It replace the position of water in cells

and perform different functions such as ion

isolation and protection of proteins of

membrane, degrade denatured proteins and

adjust the osmotic pressure.

Introns exist in most of the genetic structure of

eukaryote cells and are noted research to find

out its function. In structure of intron is rich of

AT and have jump elements (transposone

element). The diversity in quantity and length of

introns can affect the function of gene

expression. Most of dehydrin genes have no

introns, but in some cases they also discovered

the small introns or SK2 Y2SK2 structured.

Dehydrin gene was isolated from genomic

DNA of maize Viet Nam in size is 0.65 kb and

have 121 bp of region introns, shorter than 16

bp of the Rab17 gene (Lien et al., 2007) [9].

The scientists found that some introns are in

positions of genes can promote of expression in

plants increases several times. Therefore

necessary to have further studies to elucidate the

role of introns in the structure of dehydrin gene.

Local glutinous maize cultivars in

mountainous northern of Vietnam have high

quality seeds and the drought-resistant ability,

in addition, local glutinous maize seeds are

resistant to termites. The problem is the

structure of dehydrin genes and other genes

isolated from the local glutinous maize related

to drought tolerance have what different with

the genes of other maize cultivars?

COCLUSIONS

By physiological and factitious drought

treatment, we selected HL cultivar with the

highest drought tolerance ability, and VN2

cultivar with the lowest. We have designed

one specific primer pair and isolated dehydrin

genes from two maize cultivars (Zea mays L.)

with PCR analysis. A 600 bp dehydrin gene

fragment from DNA genome of local maize

was successfully amplified. The PCR

products containing the dehydrin fragment

was cloned in pTZ57R/T vector and plasmids

were purified by QIAprep Spin Miniprep Kit

and sequenced. Should continue to clarify the

differences in genetic structure of local

mountain maize folds with other corn

varieties.

REFERENCES

[1]. Allagulova Ch. R., Gimalov F. R.,

Shakirova F. M., Vakhitov V. A. 2003. The

Plant Dehydrins: Structure and Putative

Functions, Biochemistry (Moscow), 68(9):

945-951.

[2]. Close T.J., 1996. Dehydrin: Emergence

biochemical role family plant dehydrin

proteins, Plant Physiol 97, 795-803.

[3]. Close T.J., 1989, Zea mays mRNA for

dehydrin (dhn1 gene), Plant Mol. Biol, 13 (1),

95- 108.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 85: Tap 77 - So 1 nam 2011

Chu Hoàng Mậu và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 77 - 82

82

[4]. Gawel N.J., Jarret R.L., 1991. Genomic DNA isolation. http://www.igd.cornell.edu/

[5]. Glick R.B., Pasternak J.J., 1998, Molecular Biotechnology, American Society Microbiology.

[6]. Hong-Bo S., Zong-Suo L., Ming-An S., 2005. LEA proteins in higher plants: Structure, function, gene expression and regulation, Colloids and surfaces B: Biointerfaces, 45 (3-4): 131-135.

[7]. Http://www.ncbi.nlm.nih.gov/X15290.

[8]. Lien TTP., Ton ND., Huong LTT., Cuong BM., Tinh NH., 2005, Isolation of dehydrin gene from Zea mays , Journal of Biotechnology, 3(3): 347- 352.

[9]. Lien TTP., Thu VH., Cuong BM., 2007. Polymorphism of dehydrin genes of several Vietnamese maize cultivars. Journal of Biotechnology 5(4): 485-491.

[10]. Mau CH., Anh NV, 2005. The assessment of the quality of seeds and the responsive ability to drought condition of some local maize cultivars in mountainous region. Science & Technology Journal of Agriculture & Rural develpment, 66: 20-22.

[11]. Mau CH., Anh NV., 2006, The genetic

diversity of some local stichky and white

maize cultuvars with different drought ability.

Journal of Science &Technology, Thai

Nguyen University, 2 (38): 77-84

[12]. Mau CH., Thanh NTT., Nhan NT.,

2007. Reseach on gene of drought tolerance

of some upland local maize cultivars (Zea

mays L.) in the North of Vietnam. Bio-Hanoi

2007 - International Conference, December

18-19, 2007 Hanoi, Vietnam.

[13]. Nhan PT., Mau CH., Tam NT., 2007.

The response of some upland local sticky

corn cultivars (Zea mays L.) in tissue and

young phase. Proceeding, the 2007th National

Conference on Life Science. Science and

Technics Publishing House Hanoi, 784-788.

[14]. Rorat T., 2006. Plant dehydrin –tissue

location structure and function. Cell Mol Biol

Lett 11: 536-556.

[15]. Yuxiu Z., Zi W., Jin X., 2007.

Molecular mechanism of dehydrin in

response to environmental stress in plant,

Progress in Natural Science, 17 (3): 237- 246.

TÓM TẮT

ĐẶC TÍNH CHỊU HẠN CỦA MỘT SỐ GIỐNG NGÔ ĐỊA PHƢƠNG

(ZEA MAYS L.) Ở MIỀN NÖI PHÍA BẮC VIỆT NAM

Chu Hoàng Mậu1

, Nguyễn Vũ Thanh Thanh2, Phạm Thị Thanh Nhàn

1

1*Bộ môn Di truyền và Sinh học hiện đại, Khoa Sinh-KTNN, Trường Đại học Sư phạm 2 Bộ môn Di truyền, Khoa Khoa học Sự sống, Trường Đại học Khoa học

Ngô (Zea mays L.) là một trong những loại ngũ cốc đƣợc trồng rộng rãi ở Việt Nam. Các giống

ngô địa phƣơng đóng vai trò quan trọng trong đời sống của ngƣời dân sống ở khu vực miền núi

phía Bắc Việt Nam. Các giống ngô địa phƣơng miền núi có chất lƣợng hạt cao và có khả năng chịu

hạn tốt. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày kết quả nghiên cứu khả năng chịu hạn và phân lập

gen dehydrin của một số giống ngô nếp địa phƣơng miền núi. Về khả năng chịu hạn, 6 giống ngô

có khả năng chịu hạn cao là: BK, HL, QH, YM, TL, và QU và hai giống ngô VN2 với BG có khả

năng chịu hạn thấp. Dehydrin - LEA (lete embryogenesis abundant) - D11 là loại protein trong họ

protein của thực vật bậc cao, một loại protein đƣợc tổng hợp khi gặp hạn hán hoặc stress nhiệt độ

thấp, chúng gồm có 6 loại protein dehydrin: dhn1, dhn2, dhn3, dhn4, dhn5, và dhn6. DHNs có

nhiều bản sao, nhƣng đều có một vùng bảo thủ giống nhau ở cả thực vật bậc cao và thực vật bậc

thấp gồm 15 acid amine: EKKGIMDKIKEKLPG (the K-segment). Chúng tôi đã nhân bản thành

công gen dhn1 từ ADN hệ gen của các giống ngô địa phƣơng miền núi với kích thƣớc là 0,6kb bởi

cặp mồi LeaZeM1. Sản phẩm PCR đã đƣợc tách dòng và giải trình tự.

Từ khóa: Dehydrin, hạn hán, miền núi, ngô, Dhnl, nhân bản, PCR

Tel:0913 383 289; Email:[email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 86: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 83 - 87

83

NGHIÊN CỨU QUAN HỆ DI TRUYỀN TÔM SÖ (PENEAUS MONODON)

BẰNG KỸ THUẬT RAPD

Nguyễn Thị Thu Phƣơng, Nguyễn Phú Hùng, Hoàng Thị Thu Yến

*

Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên

TÓM TẮT RAPD (Random Amplified Polymorphic - DNA) là một trong những kỹ thuật đƣợc sử dụng trong

phân tích đa dạng, bảo tồn và nhận dạng giống loài. Trong đề tài này chúng tôi sử dụng kỹ thuật

RAPD để xác định quan hệ di truyền của các mẫu tôm sú thu thập ở một số tỉnh: Nam Định,

Quảng Ninh, Hải phòng và Thanh Hóa. Mẫu tôm thu đƣợc bảo quản trong cồn 98 % và lƣu giữ ở

- 200C. Sử dụng kỹ thuật RAPD để phân tích quan hệ di truyền của tôm sú với 6 mồi ngẫu nhiên:

RA36, RA40, RA143, RA142, RA45, kết quả nhận đƣợc 45 phân đoạn đa hình trong 54 phân đoạn

ngẫu nhiên với kích thƣớc ƣớc tính từ 0.35 – 3.0kb. Kết quả xử lý bằng phần mềm NTSYS

version2.0, cho thấy 8 mẫu tôm đƣợc chia làm hai nhóm chính với hệ số sai khác là 0,17. Nhóm

chính còn lại bao gồm 7 mẫu tôm còn lại.

Từ khóa: Tôm sú (Penaeus monodon), đa hình, hệ số đồng dạng di truyền, RAPD

MỞ ĐẦU

Nghề nuôi tôm sú đã và đang phát triển rất

nhanh trên thế giới. Hiện tại, loài này đƣợc

nuôi ở hơn 22 quốc gia, tôm sú đóng vai trò

rất lớn trong việc cải thiện đời sống của các

cộng đồng dân cƣ ven biển và tạo nguồn thu

nhập ngoại tệ. Tại Việt Nam, nuôi trồng thuỷ

sản ngày càng khẳng định vị thế quan trọng

trong nền kinh tế quốc dân. Từ sự thuận lợi về

điều kiện tự nhiên, khí hậu nên các tỉnh ven

biển tiến hành nuôi trồng nhiều mặt hàng thuỷ

sản có giá trị kinh tế cao, trong đó nuôi tôm

sú đã trở thành ngành sản xuất hàng hoá có

hiệu quả ở các tỉnh ven biển nƣớc ta. Hiện

nay, Việt Nam đã trở thành một trong 5 quốc

gia xuất khẩu tôm lớn nhất thế giới [6]. Mặc

dù vậy, việc nuôi tôm sú đang bị hạn chế bởi

những khó khăn nhƣ: sự lan tràn các dịch

bệnh, chất lƣợng tôm giống sa sút, thiếu hụt

nguồn tôm sú bố mẹ... Tại Việt Nam, theo Bộ

Thuỷ sản nhu cầu giống tôm sú khoảng 30 tỉ

con, hiện tại các nhà cung cấp giống chỉ đáp

ứng một nửa nhu cầu. Để cân bằng nguồn

cung và cầu, các nhà nuôi trồng thuỷ sản nhất

thiết phải đảm bảo nguồn tôm giống bố mẹ có

chất lƣợng sản xuất. Yêu cầu sản xuất của

tôm sú Việt Nam đòi hỏi phải gấp rút giải

quyết tình trạng thiếu tôm sú bố mẹ và nâng

cao chất lƣợng tôm giống. Giống tôm phải

sạch bệnh và có chất lƣợng cao [3].

Tel:0912896298 ; Email: [email protected]

Để có đƣợc giống tôm khoẻ và sạch bệnh, các

nhà khoa học đã có nhiều nghiên cứu để chọn

tạo giống. Trong đó, nghiên cứu một số chỉ

thị phân tử là công cụ hỗ trợ chính xác trong

phân tích đa dạng, bảo tồn và nhận dạng

giống loài [5], [7]. Một số chỉ thị đang đƣợc

quan tâm nghiên cứu nhƣ RAPD (Random

Amplified Polymorphic DNA), AFLP

(Amplified Fragments Length Polymorphism.

Ở Việt Nam nhóm tác giả Quyền Đình Thi và

cộng sự (2003), Nguyễn Thị Thảo và cộng sự

(2004) đã sử dụng kỹ thuật RAPD, RFLP,

microsattlelite để đánh giá sự đa dạng di

truyền tôm sú nuôi ở Việt Nam [1], [2]. Do

đó, chúng tôi tiến hành sử dụng kỹ thuật

RAPD để góp phần đánh giá sự đa dạng di

truyền của tôm sú đƣợc nuôi tại một số tỉnh ở

miền Bắc nƣớc ta.

NGUYÊN LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP

Nguyên liệu

Mẫu nghiên cứu: Là những mẫu tôm sú thu

thập từ một số tỉnh khác nhau: Nam Định (1

mẫu - NĐ), Thanh Hoá (1 mẫu - SS), Hải

Phòng (3 mẫu – ĐS1, ĐS2, HA ), Quảng

Ninh (1 mẫu - QN). Mẫu sau khi thu thập

đƣợc bảo quản trong cồn, lƣu giữ ở - 200C.

Phƣơng pháp

* Phương pháp tách chiết DNA tổng số

Quy trình tách chiết DNA tổng số theo

phƣơng pháp của Ausubel và cộng sự (1993)

có cải tiến [4].

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 87: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 83 - 87

84

* Phương pháp phân tích quan hệ di

truyền các mẫu tôm sú

Phân tích quan hệ di truyền các mẫu tôm

sú thu thập từ các tỉnh khác nhau bằng

cách sử dụng 6 mồi ngẫu nhiên đƣợc trình

bày ở bảng sau.

Bảng 1. Trình tự các mồi ngẫu nhiên

Mồi Trình tự

RA36 5‟ GGGGGTCGTT 3‟

RA40 5‟GGCGGACTGT 3

RA45 5‟ TACCACCCCG 3

RA142 5‟CAATCGCCGT 3

RA143 5‟ TCGGCGATAG 3

RA159 5‟ GTTCACACGG 3

Phản ứng RAPD

Phản ứng RAPD đƣợc thực hiện bằng enzyme

Taq DNA polymerase (Fermentas) với chu

trình nhiệt nhƣ sau: 95oC -3 phút; (95

oC -30

giây; 36oC - 45 giây; 72

oC -1 phút) x 45 chu

kỳ; 72o, 10 phút; kết thúc và giữ ở 4

oC. Sản

phẩm đƣợc kiểm tra trên gel agarose 2%. Kết

quả đƣợc chụp bằng máy gel doc.

Phân tích số liệu

Dựa vào hình ảnh điện di sản phẩm RAPD, sự

xuất hiện các băng điện di đƣợc ƣớc lƣợng

kích thƣớc dựa vào marker chuẩn và thống kê

các băng điện di với từng mồi ở từng mẫu

nghiên cứu. Sự xuất hiện hay không xuất hiện

các băng điện di đƣợc tập hợp để phân tích số

liệu theo nguyên tắc: số 1- xuất hiện phân

đoạn DNA và số 0 – không xuất hiện phân

đoạn DNA. Các số liệu này đƣợc xử lý trên

máy tính theo chƣơng trình NTSYSpc version

pc 2.0 (Applied Biostatistics Inc., USA.,

1998) để xác định quan hệ di truyền của các

mẫu nghiên cứu.

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

Kết quả phân tích quan hệ di truyền bằng

phản ứng RAPD

DNA tổng số đƣợc tách chiết theo phƣơng

pháp của Ausubel và cộng sự (1993) có cải

tiến [4]. Sản phẩm DNA tổng số đƣợc kiểm

tra trên gel agarose 0,8% và xác định trên

máy quang phổ. DNA tổng số tách chiết đƣợc

có chất lƣợng tốt, và tạp chất không nhiều.

DNA tổng số thu đƣợc đảm bảo cho tiến hành

các thí nghiệm tiếp theo.

Từ 8 mẫu đã tách DNA tổng số, chúng tôi

tiến hành kỹ thuật RAPD với 6 mồi ngẫu

nhiên RA36, RA40, RA45, RA142, RA143,

RA159. Kết quả thu đƣợc 45 phân đoạn đa

hình trong số 54 phân đoạn ngẫu nhiên có

kích thƣớc ƣớc tính từ 0.35 – 3.0 kb. Trong

đó tất cả các phân đoạn thu đƣợc khi sử dụng

mồi RA45, RA143, RA142 đều là các phân

đoạn đa hình. Đặc biệt mồi RA36 có số phân

đoạn đa hình thấp nhất (chiếm 50%). Kết quả

phân tích RAPD đặc trƣng nhất đƣợc thể hiện

tại hình 1, 2 và 3.

Mồi RA45 Kb M 1 2 3 4 5 6 7 8

0,25

0,5

0,75

1,0

1,5

2,0

3,0

6,0

Kb M 1 2 3 4 5 6 7 8

0,25

0,5

0,75

1,0

1,5

2,0

3,0

6,0

Hình 1. Kết quả điện di đồ sản phẩm RAPD của 8

mẫu tôm sú với mồi RA45, M: Marker 1 kb, 1: HP1,

2: HA, 3: SS, 4: QN, 5: ĐS1, 6: NĐ, 7: ĐS2, 8: HP2

Qua kết quả điện di sản phẩm RAPD của

mồi RA45 ta thấy số phân đoạn DNA ngẫu

nhiên nhân bản đƣợc từ 2 – 10 phân đoạn.

Và có kích thƣớc đƣợc ƣớc tính từ 0.6 – 3

kb. Trong đó chỉ có mẫu HP1 là đƣợc nhân

bản ít nhất (2 phân đoạn) còn mẫu ĐS2 có

số phân đoạn DNA đƣợc nhân bản nhiều

nhất (10 phân đoạn).

Với mồi RA45 có tính đa hình cao với 8 mẫu

tôm. Trong đó, phân đoạn DNA đƣợc nhân

bản ở vị trí 2.8 kb chỉ xuất hiện với hai mẫu

ĐS2 và HP2 còn các mẫu khác thì không

xuất hiện. Và ở vị trí 2.5 kb phân đoạn DNA

chỉ xuất hiện với mẫu HP2 và tại 0.7 kb chỉ

xuất hiện với mẫu SS còn tất các mẫu khác

đều không xuất hiện băng.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 88: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 83 - 87

85

Mồi RA142 1 2 3 4 5 6 7 8 M Kb

0,25

0,5

0,75

1,0

1,5

2,0

3,0

6,0

1 2 3 4 5 6 7 8 M Kb

0,25

0,5

0,75

1,0

1,5

2,0

3,0

6,0

Hình 2. Kết quả điện di đồ sản phẩm RAPD của 8

mẫu tôm sú với mồi RA142, M: Marker 1 kb, 1: HP1,

2: HA, 3: SS, 4: QN, 5: ĐS1, 6: NĐ, 7: ĐS2, 8: HP2.

Từ kết quả điện di sản phẩm RAPD của 8

mẫu tôm với 6 mồi ngẫu nhiên, ta thấy số

phân đoạn DNA nhân bản đƣợc ở các mẫu

tôm của mồi RA142 dao động từ 1 – 4 phân

đoạn. Các phân đoạn có kích thƣớc ƣớc tính

từ 0.5 – 1.9 kb. Trong đó các mẫu NĐ, HP2

có số phân đoạn đƣợc nhân bản nhiều nhất là

4. Trong khi mẫu SS chỉ có 1 phân đoạn DNA

đƣợc nhân bản. Các phân đoạn DNA đƣợc

nhân bản đều có tính đa hình. Ta thấy tại vị trí

0.55kb đều xuất hiện phân đoạn DNA đƣợc

nhân bản ngẫu nhiên trừ mẫu SS, phân đoạn

1.8 kb chỉ có mẫu NĐ và 1.5 kb chỉ có HP2 là

xuất hiện băng còn mẫu khác không có băng

xuấthiện. Tại vị trí 0.6 kb các mẫu đều xuất

hiện băng trừ hai mẫu SS và NĐ.

Mồi RA143

0,25

0,5

0,75

1,0

1,5

2,0

3,0

6,0

Kb M 1 2 3 4 5 6 7 8

0,25

0,5

0,75

1,0

1,5

2,0

3,0

6,0

Kb M 1 2 3 4 5 6 7 8

Hình 3. Kết quả điện di sản phẩm RAPD của 8

mẫu tôm sú với mồi RA143

M: Marker 1kb, 1: HP1, 2: HA, 3: SS, 4: QN, 5:

ĐS1, 6: NĐ, 7: ĐS2, 8: HP2

Qua kết quả điện di sản phẩm RAPD cho thấy

số phân đoạn DNA ngẫu nhiên nhân bản đƣợc ở

8 mẫu tôm của mồi RA143 dao động từ 2 – 4

phân đoạn. Các phân đoạn có kích thƣớc giao

động từ 0.35 - 1.8 kb. Trong đó mẫu NĐ có số

phân đoạn DNA ngẫu nhiên đƣợc nhân bản

nhiều nhất (4 phân đoạn), còn mẫu HP1 có số

lƣợng phân đoạn DNA nhân bản ít nhất (2 phân

đoạn). Tại vị trí 0.6 kb chỉ có mẫu ĐS1 và tại

0.5 kb chỉ có mẫu NĐ có phân đoạn DNA đƣợc

nhân bản, các mẫu còn lại không xuất hiện.

Phân đoạn có kích thƣớc 1.0 kb và 0.35 kb xuất

hiện phân đoạn DNA ở tât cả các mẫu trừ mẫu

ĐS1, NĐ. Nhƣng tại vị trí 1.7 kb và 1.1kb thì

mẫu ĐS1, NĐ xuất hiện băng còn các mầu khác

thì không. Tổng hợp các băng đoạn xuất hiện

hay không xuất hiện trên điện di đồ sản phẩm

RAPD của 8 mẫu tôm với 6 mồi ngẫu nhiên ta

thu đƣợc số phân đoạn đa hình và không đa

hình đƣợc thống kê dƣới bảng 2.

Bảng 2. Số phân đoạn DNA xuất hiện và số

phân đoạn DNA đa hình

Mồi Phân

đoạn

DNA

nhân bản

Phân

đoạn

DNA

đa hình

Tỉ lệ

phần trăm

phân đoạn

đa hình

RA36 8 4 50

RA40 6 5 83.3

RA45 15 15 100

RA142 7 7 100

RA143 7 7 100

RA159 11 7 64

Tổng 54 45 83,3

Phân tích mối quan hệ di truyền giữa các

mẫu tôm dựa trên kết quả phân tích RAPD

Dựa trên sự xuất hiện hay không xuất hiện

các phân đoạn DNA của các mẫu khi phân

tích điện di sản phẩm RAPD, chúng tôi xác

định đƣợc hệ số đồng dạng di truyền của

các mẫu tôm ở cấp độ phân tử. Số liệu đƣợc

phân tích theo chƣơng trình NTSYSversion

2.0 (theo quy ƣớc 1= xuất hiện băng, 0=

không xuất hiện băng). Kết quả nhận đƣợc

hệ số tƣơng đồng giữa các mẫu tôm thể hiện

ở bảng 3.

Hệ số di truyền phản ánh quan hệ di truyền

giữa các cặp giống với nhau. Hai mẫu tôm

giống nhau về mặt di truyền thì hệ số tƣơng

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 89: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 83 - 87

86

đồng giữa chúng càng lớn và ngƣợc lại hai

giống có hệ số tƣơng đồng di truyền thấp thì

mối quan hệ di truyền giữa chúng là xa nhau.

Từ bảng trên ta thấy hệ số di truyền dao động

từ 0.537 – 0.833 tức là cấu trúc hệ gen giữa các

mẫu tôm giống khác nhau từ 0.167 – 0.463.

Trong đó hệ số đồng dạng lớn nhất (0.833) là

hai mẫu tôm ĐS1 và ĐS2. Điều này cho thấy

cấu trúc gen của hai mẫu này có sự sai khác rất

ít. Hệ số đồng dạng thấp nhất (0.537) đƣợc thể

hiện giữa mẫu HP1 với mẫu ĐS1,2 và mẫu QN

với NĐ. Chứng tỏ cấu trúc gen giữa các mẫu

tôm sai khác xa nhau. Kết quả này có ý nghĩa

trong di truyền chọn tạo giống. Từ kết quả

phân tích hệ số di truyền chúng tôi xác định

đƣợc quan hệ di truyền ở cấp độ phân tử, thể

hiện bằng phả hệ của 8 mẫu tôm trên hình 4.

Kết quả trên chỉ ra mức độ sai khác về mặt di

truyền giữa các mẫu tôm. Các mẫu tôm có hệ

số tƣơng đồng cao di truyền cao sẽ đƣơc sắp

xếp một nhóm, giữa các nhóm lại có mối liên

hệ với nhau. Từ sơ đồ hình cây trên ta thấy sự

sai khác về cấu trúc gen của các mẫu nghiên

cứu dao động từ 17% - 40%. Phân tích hình

cây cho thấy 8 mẫu tôm đƣợc chia thành 2

nhóm chính.

Nhóm chính I: chỉ có mẫu NĐ thu thập từ

nông trƣờng Dạng Đông – Nam Định . Mẫu

này có hệ số di truyền sai khác lớn nhất so với

nhóm khác là 0.4 (1-0.6).

Nhóm chính II: bao gồm các mẫu HP1, HA,

SS, QN, ĐS1, ĐS2 và HP2. Các mẫu này

đƣợc chia vào 2 nhóm phụ khác nhau:

+ Nhóm phụ 1: Bao gồm 3 mẫu HP1, SS và

QN. Hệ số sai khác giữa chúng với nhóm phụ

còn lại là 0.34.

+ Nhóm phụ 2: Bao gồm các mẫu HA, ĐS1,

ĐS2, HP2. Trong đó 2 mẫu ĐS1 và ĐS2 có

hệ số sai khác là 0.17. Đây là hai mẫu có hệ

số di truyền sai khác thấp nhất trong phả hệ.

Còn hai mẫu HA và HP2 có nguồn từ Hải

Phòng có hệ số di truyền sai khác là 0.2 đứng

gần nhau trên sơ đồ phả hệ.

Bảng 3. Hệ số tƣơng đồng giữa các mẫu tôm nghiên cứu

HP1 HA SS QN ĐS1 NĐ ĐS2 HP2

HP1 1.000

HA 0.685 1.000

SS 0.759 0.740 1.000

QN 0.741 0.722 0.796 1.000

ĐS1 0.537 0.704 0.556 0.648 1.000

NĐ 0.500 0.704 0.629 0.537 0.667 1.000

ĐS2 0.629 0.796 0.685 0.778 0.833 0.574 1.000

HP2 0.667 0.796 0.648 0.629 0.574 0.611 0.741 1.000

Nhánh chính II

Nhánh chính I

Nhánh chính II

Nhánh chính I

Hình 4. Sơ đồ quan hệ di truyền giữa các mẫu tôm

1: HP1, 2: HA, 3: SS, 4: QN, 5: ĐS1, 6: NĐ, 7: ĐS2, 8: HP2

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 90: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 83 - 87

87

KẾT LUẬN

Đã xác định đƣợc quan hệ di truyền của 8

mẫu tôm với 6 mồi ngẫu nhiên và đạt đƣợc

kết quả sau:

+ Đã nhân đƣợc tổng số phân đoạn DNA là

229 phân đoạn có kích thƣớc từ 0.35 – 3.0 kb.

+ Đã xác định đƣợc 6 mồi sử dụng đều có

tính đa hình. Tổng số phân đoạn DNA đa

hình thu đƣợc là 45 phân đoạn chiếm 83.3

%. Tỉ lệ các phân đoạn đa hình của các mồi

giao động từ 50 % – 100 %. Trong đó có

mồi RA142, RA45 và RA143 tỉ lệ các phân

đoạn đa hình đạt 100%

+ Hệ số di truyền sai khác giữa các mẫu tôm

HP1, HP2, SS, QN, HA, ĐS1, ĐS2, NĐ giao

động 0.17 – 0.4. Từ sự sai khác hệ số di

truyền giữa các mẫu tôm sú thấy rằng hai mẫu

tôm ĐS1, ĐS2 có quan hệ di truyền gần nhất

với hệ số sai khác 0,17. Còn các mẫu tôm NĐ

và QN, HP1 và ĐS1 có quan hệ di truyền xa

nhất với hệ số sai khác 0,4.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Nguyễn Thị Thảo, Quyền Đình Thi, Đào Thị

Tuyết, Lê Thị Thu Giang, Phạm Anh Tuấn (2004)

Đánh giá tính đa hình của 3 quần đoàn tôm sú

(Penaeus monodon) nuôi ở Việt Nam bằng phƣơng

pháp microsattlelite. Tạp chí Công nghệ Sinh học

2(3): 315-324

[2]. Quyền Đình Thi, Đào Thị Tuyết, Lê Thị Thu

Giang, Nguyễn Thị Thảo, Phạm Anh Tuấn (2003).

Sử dụng microsatterlite, mtRFLP và RAPD để

phân tích tính đa hình tôm sú. Tạp chí Công nghệ

Sinh học 1: 287-298

[3]. Nguyễn Xuân Thu (2005) Nghiên cứu Hải

Sâm kết hợp ao nuôi tôm sú nhằm cải thiện môi

trường, Nxb Nông nghiệp.

[4]. Ausubel F, Brebt R, Kingston R, Mocra D,

Seidman JG, Simth JA, Stiurl (1996) Short

protocol in molecular biology, The Journal of

Steroid Biochemistry and Molecular Biology

59(3-4), 356

[5]. Bazzicalupo M, Renato F. (1996) The Use of

RAPD for generating specific DNA probes for

microorganisms. In: Species Diagnostics

Protocols. Ed. Clapp, J.P. Humana Press Inc. New

Jersey, 155-175.

[6]. Tanticharoen M, Flegel TW, Meerod W,

Grudloyma U, Pisamai N (2008) Aquacultural

biotechnology in Thailand: the case of the shrimp

industry. Int. J. Biotechnology 10(6), 588-603.

[7]. Welsh J, McClelland M (1990) Fingerprinting

genomes using PCR with arbitrary primers. Nucl

Acids Res 18(24), 7213 – 7218.

SUMMARY

STUDY ON GENETIC DIVERSITY OF SHRIMP (PENAEUS MONODON)

BY RAPD TECHNIQUE

Nguyen Thi Thu Phuong, Nguyen Phu Hung, Hoang Thi Thu Yen

College of Sciences, Thai Nguyen University

RAPD (Random Amplified Polymorphic DNA) is one technique used in the analysis of diversity,

conservation and species identification. In this research, we use the RAPD technique to determine the genetic

relationship of the shrimp samples collected in some provinces: Nam Dinh, Quang Ninh, Hai Phong, Thanh

Hoa. Shrimp samples collected and preserved in 98% ethanol and stored at – 200C. Use of RAPD technique

to analysis of genetic relationships with 6 random primers: RA36, RA40, RA143, RA142, RA45. Results

obtained 45 polymorphic fragments in 54 random segments obtained size estimates from 0,35 - 3.0kb. The

result is processed by software NTSYS persion2.0. The results of analysis of genetic relationships of eight

shrimp sample was divided into two main groups. One major group consists of ND sample coefficient of

genetic differences with other groups is 0.17. Left main group consists of 7 samples of shrimp remaining.

Keywords: Penaeus monodon, polymorphism, genetic similarity coefficients, RAPD

Tel:0912896298 ; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 91: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Thị Thu Phƣơng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 83 - 87

88

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 92: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 89 - 96

89

ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ KIỂU THẢM THỰC VẬT PHỤC HỒI TỰ NHIÊN

Ở TỈNH BẮC GIANG

Nguyễn Văn Hoàn

1, Lê Ngọc Công

2, Bùi Thị Dậu

2,

Nguyễn Thị Thu Hà2, Đinh Thị Phƣợng

2

1Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang 2Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên

TÓM TẮT Số loài cây tái sinh tự nhiên trong các kiểu thảm thực vật ở Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử

(Bắc Giang) sau 6-10 năm tuổi có 262 loài, 189 chi và 87 họ, thuộc 3 ngành thực vật bậc cao có

mạch (Pteridophyta, Gymnospermae, Angiospermae). Có 16 họ giàu loài nhất (từ 5 loài trở lên) là

Lauraceae, Euphorbiaceae, Poaceae, Fagaceae, Rubiaceae, Melastomataceae, Fabaceae, Moraceae,

Vitaceae, Rutaceae, Caesalpiniaceae, Apocynaceae, Arecaceae, Theaceae, Myrtaceae và

Dipterocarpaceae, gồm 131 loài (chiếm 50% tổng số loài). Rừng có cấu trúc hai tầng đơn giản. Rừng

phục hồi sau khai thác có số loài biến động từ 125-142 loài, cây gỗ tái sinh biến động từ 62-74

loài, mật độ từ 10.596 – 15.947 cây/ha. Rừng phục hồi sau nƣơng rãy số loài biến động từ 119-127

loài, loài cây gỗ tái sinh từ 37 – 49 loài, mật độ từ 6960 – 9813 cây/ha. Các loài thân cỏ giảm từ 27

loài xuống còn 16 loài, các loài dây leo biến động từ 15 đến 22 loài.

Từ khoá: Thảm thực vật, tái sinh tự nhiên, sau nương rãy, sau khai thác, cấu trúc

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ở nƣớc ta, nhân dân các dân tộc ít ngƣời sống

ở vùng núi cao thƣờng có tập quán du canh, du

cƣ, đốt phá rừng làm nƣơng rãy. Tình trạng

này diễn ra trong một thời gian dài cùng với

việc khai thác rừng quá mức dẫn tới nguồn tài

nguyên cạn kiệt, độ che phủ của rừng bị giảm

sút nghiêm trọng. Từ năm 1992 trở lại đây,

Nhà nƣớc đã có những chính sách, chiến lƣợc

phát triển tài nguyên rừng, nhƣ chƣơng trình

327, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng....để tăng

diện tích và độ che phủ của rừng. Trong đó

khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh tự nhiên để phục

hồi rừng là biện pháp rất quan trọng.

Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử và vùng

phụ cận thuộc hai huyện Lục Nam và Sơn

Động (tỉnh Bắc Giang) có diện tích rừng sau

nƣơng rãy và sau khai thác khá lớn (6.716ha,

chiếm 30,5% diện tích tự nhiên của khu bảo

tồn)[5]. Từ khi đƣợc bảo vệ, khoanh nuôi, xúc

tiến tái sinh tự nhiên, rừng đang dần phục hồi

trở lại.

Trong bài báo này chúng tôi đƣa ra những dẫn

liệu cụ thể về thành phần loài, nhóm dạng

sống, cấu trúc của một số kiểu thảm thực vật

phục hồi sau khai thác và sau nƣơng rãy, góp

Tel: 0915462404; Email: [email protected]

phần làm cơ sở cho việc khoanh nuôi phục hồi

rừng có hiệu quả ở tỉnh Bắc Giang.

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng

Là thành phần loài, nhóm dạng sống, cấu trúc

của các trạng thái thảm thực vật phục hồi từ

6-10 năm trên đất sau nƣơng rẫy và sau khai

thác ở khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử và

vùng đệm thuộc tỉnh Bắc Giang.

Phƣơng pháp

Phƣơng pháp ô tiêu chuẩn (OTC): Tại mỗi

trạng thái thảm thực vật đặt 3 OTC, mỗi ô có

diện tích 400m2 (20m × 20m) để đo đếm các

cây gỗ có đƣờng kính từ 6cm trở lên (D1.3 ≥

6cm), các OTC đặt theo vị trí chân, sƣờn và

đỉnh đồi. Trong mỗi OTC lập 9 ô dạng bản,

mỗi ô có diện tích 16m2 (4m × 4m) để điều

tra cây tái sinh, cây bụi (có chiều cao Hvn ≥

20cm), dây leo và cây cỏ.

Phƣơng pháp tuyến điều tra (TĐT): Các TĐT

đƣợc lập rộng 2m đi qua các vùng đại diện

cho quần xã nghiên cứu. TĐT nhằm thu mẫu

kỹ hơn về thành phần loài thực vật.

Phƣơng pháp xác định tên loài thực vật: Sử

dụng các tài liệu của Nguyễn Tiến Bân 1997

[1], 2005[2]; Bộ NN&PTNT, 2000 [3]; Phạm

Hoàng Hộ, 1991-1993 [4].

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 93: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 89 - 96

90

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Thành phần loài

Trong các trạng thái thảm thực vật nghiên cứu, chúng tôi thống kê đƣợc 262 loài, 189 chi và 87 họ thuộc ba ngành thực vật bậc cao có mạch: Ngành Khuyết thực vật (Pteridophyta) có 9 loài (3,44% tổng số loài), 7 chi (3,7%), 7 họ (8,05%); Ngành Hạt trần (Gymnospermae) có 3 loài (1,15%), 2 chi (1,06%), 2 họ (2,3%), Ngành Hạt kín (Angiospermae) có 250 loài (95,42%), 180 chi (95,24%), 78 họ (89,65%). Số họ giàu loài (≥ 5 loài) có 16 họ (18,4%) là họ Lauraceae 17 loài, 2 họ Euphorbiaceae, Poaceae mỗi họ có 14 loài, họ Fagaceae 12 loài , họ Rubiaceae 10 loài, họ Melastomataceae 8 loài, 2 họ Fabaceae, Moraceae đều có 7 loài, họ Vitaceae và Rutaceae mỗi họ có 6 loài, các họ có 5 loài là Caesalpiniaceae, Apocynaceae, Arecaceae, Theaceae, Myrtaceae, Dipterocarpaceae, tổng số 131 loài (50% tổng số loài). Số liệu đƣợc ghi ở bảng 1.

Trong các trạng thái thảm thực vật các chỉ

tiêu về số họ, chi khá dao động (bảng 2), thảm

thực vật tái sinh trên 6 năm tuổi số loài, họ,

chi tăng dần, vì thời gian này các cá thể mới

liên tục đƣợc bổ sung thêm đồng thời lớp cây

tái sinh đã phát triển tốt, độ tàn che tƣơng đối

cao. Các cây tái sinh cùng loài có sự điều tiết

lẫn nhau và giữa các cá thể khác loài có sự

cạnh tranh nhau cùng với quá trình tự tỉa thƣa

để mở rộng không gian dinh dƣỡng, dẫn tới

lớp cây tái sinh giảm dần. Theo nhiều nhà

nghiên cứu ở trạng thái rừng có độ tuổi cao,

độ tàn che cao số lƣợng loài cây tái sinh

giảm dần. Đối với rừng non số lƣợng loài

tái sinh chuyển dần từ tăng sang giảm và

cuối cùng là ổn định.

Cấu trúc thảm thực vật phục hồi theo

thời gian

Theo thời gian phục hồi, thành phần loài và

cấu trúc các trạng thái thảm thực vật đƣợc

trình bày ở bảng 3 và bảng 4.

a. Thảm thực vật phục hồi 6 năm

* Sau nương rãy:

Rừng đang ở thời gian phục hồi mạnh có 119

loài, cấu trúc hai tầng, độ che phủ đạt 60%.

Tầng cây gỗ có 11 ± 1 loài, độ tàn che 25 -

30%. Trong mỗi OTC có diện tích 400m2, số

lƣợng cây gỗ có sự biến động không lớn. Ô

nhiều nhất có 26 cây, ô ít nhất có 19 cây.

Trung bình có 22 cây/OTC (tƣơng ứng với

mật độ 475 - 650 cây/ha). Mật độ trung bình

558 ± 92 cây/ha, chiều cao trung bình 7,4 m,

đƣờng kính 7,7 cm với trung bình tổng tiết

diện ngang 2,74 m2/ha. Chủ yếu là những loài

Bảng 1. Sự phân bố các họ, chi, loài

Ngành Họ Chi Loài

Số họ % Số chi % Số loài %

Pteridophyta 7 8,05 7 3,70 9 3,44

Gymnospermae 2 2,30 2 1,06 3 1,15

Angiospermae Dicotyledones 69 79,31 156 82,54 217 82,81

Monocotyledones 9 10,34 24 12,70 33 12,60

Tổng cộng 87 100 189 100 262 100

Bảng 2. Họ, chi, loài cây tái sinh trong các thảm thực vật

Thời gian (năm) Họ Chi loài

Số họ % Số chi % Số loài %

Sau nƣơng rãy

6 53 60,92 96 50,79 119 45,42

8 55 63,22 95 50,26 122 46,56

10 60 68,97 102 53,97 127 48,47

Sau khai thác

6 66 75,86 107 56,61 135 51,53

8 61 70,11 107 56,61 142 54,20

10 58 66,67 95 50,26 125 47,71

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 94: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 89 - 96

91

gỗ nhỏ và trung bình cùng tuổi, tiên phong ƣa

sáng tạm định cƣ, loài ƣu thế gồm Thầu tấu

(Aporosa dioica), Thành ngạnh (Cratoxylum

cochinchinense), Dền (Xylopia vielana),

Thừng mực (Wrightia tomentosa), Sau sau

(Liquidambar formosana), Bông bạc

(Vernonia arborea), Hu đay (Trema

orientalis), Chẹo (Engelhardtia

roxburghiana),... Số loài cây gỗ tái sinh có 37

loài (trong đó cây gỗ nhỏ và trung bình 26

loài, cây gỗ lớn là 11 loài). Các loài chủ yếu

là cây con và cây mạ với mật độ 6960 ± 1760

cây/ha. Các loài thuộc họ Cam (Rutaceae), họ

Vang (Caesalpiniaceae), họ Tô hạp

(Altingiaaceae), họ Xoài (Anacardiaceae), họ

Dẻ (Fagaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae),

họ Hồ đào (Juglandaceae), họ Long não

(Lauraceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Chè

(Theaceae), họ Du (Ulmaceae),...

Tầng cây bụi có 40 loài, gồm cây bụi và bụi

trƣờn có mật độ từ 5769 ± 2702 cây/ha, có

chiều cao trung bình từ 1,5 - 2,6 m, độ che

phủ 40%. Các loài thuộc các họ Thầu dầu

(Euphorbiaceae), họ Mua (Melastomataceae),

họ Bông (Malvaceae), họ Đơn nem

(Myrsinaceae), họ Dâu tằm (Moraceae) họ

Sim (Myrtaceae), họ Cam (Rutaceae),... có số

lƣợng cá thể lớn, gồm các loài nhƣ Đơn nem

(Maesa perlarius), Sim (Rhodomyrtus

tomentosa), Mua (Melastoma normale), Bồ

cu vẽ (Breynia fruticosa), Ngái (Ficus hirta

var, roxburghii), Bọ mẩy (Clerodendrum

cyrtophyllum, Clerodendrum fortunatum),...

Tầng thảm tƣơi có 42 loài, trong đó có 27 loài

gồm cỏ leo, cỏ đứng,... thuộc họ Thiên lý

(Asclepiadaceae), họ Dền (Amaranthaceae),

họ Hoà Thảo (Poaceae), họ Tổ điểu

(Aspleniaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ Chua

me đất (Oxalidaceae), họ Bòng bong

(Schizeaceae),... Các loài thƣờng gặp gồm có

Chè vè (Miscanthus floridulus), Cỏ chỉ

(Eriachne chinensis), Huỳnh thiêm

(Sigesbeckia orientalis), Cỏ chít

(Thysanolaena maxima), Cỏ ba cạnh

(Cyperus trialatus), Cỏ xƣớc (Achyranthes

aspera), Bòng bong (Lygodium flexuosum).

Dây leo có 15 loài thuộc họ Khoai lang

(Convolvulaceae), họ Sổ (Dilleniaceae), họ

Khúc khắc (Smilacaceae), họ Trƣờng điều

(Connaraceae)...

Bảng 3. Thành phần loài cây tái sinh theo nhóm dạng sống

Thời gian

(năm)

Số loài xuất hiện theo nhóm dạng sống

Cây gỗ Cây bụi Dây leo Cỏ Tổng

Số loài % Số loài % Số loài % Số loài % Số loài %

Sau nƣơng rãy 6 37 31,09 40 33,61 15 12,61 27 22,69 119 100

8 47 38,52 39 31,97 20 16,39 16 13,12 122 100

10 49 38,58 40 31,50 22 17,32 16 12,60 127 100

Sau khai thác

6 65 48,15 33 24,44 16 11,85 21 15,56 135 100

8 74 52,11 32 22,54 17 11,97 19 13,38 142 100

10 62 49,60 28 22,40 17 13,60 18 14,40 125 100

Bảng 4. Cấu trúc thảm thực vật phục hồi

Thời

gian

(năm)

Tầng cây gỗ Mật độ cây gỗ

tái sinh

(Cây/ha)

Tầng cây bụi

Số loài Mật độ

cây gỗ

(Cây/ha)

D 1,3 ≥

6(cm)

H vn

(m)

Mật độ

cây bụi

(Cây/ha)

Hbụi ≥

20cm

Sau nƣơng rãy

6 11 ± 1 558±92 7,7 7,4 6960±1760 5769±2702 1,5-2,6

8 13 ± 2 1150±100 8,4 8,9 9220±1540 5076±1191 1,9-2,7

10 15 ± 1 1292±417 9,9 9,1 9813±2587 3422±222 1,3-2,1

Sau khai thác

6 14 ± 1 1725±525 11,2 13,9 15947±1707 6040±2200 2,3-2,7

8 19 ± 4 2150±650 12,4 14,1 14800±1680 3920±1520 2,1-2,3

10 17 ± 3 2075±325 13,7 15,1 10596±1271 3107±1093 1,7-2,2

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 95: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 89 - 96

92

Những loài có số lƣợng cá thể lớn nhƣ Kim

cang (Smilax china, Smilax ferox), Bìm bìm

(Merremia bimbim), Bƣơm bƣớm (Mussaenda

cambodiana), Đùm đũm (Rubus alcaefolius),

Chặc chìu (Tetracera asiatica),... Độ nhiều

thảm tƣơi ở Cop3.

* Sau khai thác:

Thống kê đƣợc 135 loài, độ che phủ 75%, có

cấu trúc 2 tầng. Tầng cây gỗ có 14 ± 1 loài,

độ tàn che 50%. Trong mỗi OTC có diện tích

400 m2, số lƣợng cây gỗ biến động lớn từ 48 -

90 cây, trung bình có 69 cây/OTC (tƣơng ứng

với mật độ từ 1200 - 2250 cây/ha). Mật độ

trung bình 1725 ± 525 cây/ha, đƣờng kính là

11,2 cm, chiều cao 13,9 m đạt tổng tiết diện

ngang trung bình là 21,52m2/ha. Loài ƣu thế

gồm Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Trâm

tía (Syzygium cinereum), Dẻ đỏ (Lithocarpus

ducampii), Mán đỉa (Archidendron lucidum),

Côm trâu (Elaeocarpus floribundus), Trám

chim (Canarium tonkinense),... Cây gỗ tái

sinh có 65 loài, trong đó cây gỗ nhỏ và trung

bình có 44 loài, gỗ lớn có 21 loài, mật độ

15.947 ± 1707 cây/ha. Loài cây tái sinh chủ

yếu thuộc các họ Tô hạp (Altingiaaceae), họ

Xoài (Anacardiaceae), họ Vang

(Caesalpiniaceae), họ Thầu dầu

(Euphorbiaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Hồ

đào (Juglandaceae), họ Long não (Lauraceae),

họ Côm (Elaeocarpaceae), họ Trám

(Burseraceae), họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ

Dâu tằm (Moraceae),...

Tầng cây bụi có 33 loài, mật 6040 ± 2200

cây/ha, chiều cao từ 2,3 - 2,7 m, độ che phủ

30%, các loài có số lƣợng cá thể nhiều gồm

Trọng đũa (Ardisia lindleyana), Bền bệt

(Camellia sp.), Kháo bụi (Machilus

oreophila), Bồng bồng (Calotropis gigantea),

Sầm trắng (Memecylon edule), Sầm

(Memecylon scutellatum), Phèn đen

(Phyllanthus reticulatus), Béo đen

(Goniothalamus vietnamensis), Mua

(Melastoma normale), Cứt chuột (Brucea

mollis), Xuyên tiêu (Zanthoxylum nitidum),...

Các loài cây bụi ƣa ẩm thuộc họ Na

(Annonaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae),

họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Đơn nem

(Myrsinaceae), họ Thiên lý (Asclepiadaceae),

họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Cam (Rutaceae),

họ Dâu tằm (Moraceae),...

Thảm tƣơi gồm dây leo có 16 loài, các loài

thƣờng gặp chủ yếu thuộc họ Trúc đào

(Apocynaceae), họ Nho (Vitaceae), họ

Trƣờng điều (Connaraceae), họ Tiết dê

(Menispermaceae), họ Khoai lang

(Convolvulaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ

Mao lƣơng (Ranunculaceae),... Các loài phổ

biến nhƣ Mây rừng (Calamus rhabdocladus),

Kim cang (Smilax davidiana, Smilax china,

Smilax ferox), Dây gắm (Gnetum latifolium),

Chặc chìu (Tetracera asiatica), Kim ngân

(Lonicera dasystyla), Dây giun (Quisqualis

indica), Dây cóc (Derris elliptica), ... Cây

thân cỏ có 21 loài, các loài thƣờng gặp nhƣ Sa

nhân (Amomum xanthioides), Dƣơng xỉ

(Dryopteris sp.), Phong lan đất (Malaxis

ophrydis), Cỏ ba cạnh (Cyperus trialatus),

Rau dớn (Callipteris esculenta), Cỏ dùi trống

(Eriocaulon sexangulare), Cỏ gừng (Panicum

repens), Cỏ mật (Chloris barbata), Cỏ chít

(Thysanolaena maxima), Cỏ chỉ (Eriachne

chinensis), Cỏ đắng (Paspalum

longifolium),... thuộc các họ Rau dền

(Amaranthaceae), họ Hoà thảo (Poaceae), họ

Tổ điểu (Aspleniaceae), họ Khoai lang

(Convolvulaceae), họ Hoa tán (Apiaceae), họ

Dùi trống (Eriocaulaceae), họ Hành

(Liliaceae), họ Hồ tiêu (Piperaceae), họ Gừng

(Zingiberaceae)... với độ nhiều Cop2.

b. Thảm thực vật phục hồi 8 năm

* Sau nương rãy:

Rừng có cấu trúc hai tầng với độ che phủ 70%, chúng tôi thống kê đƣợc 122 loài. Số loài cây gỗ có 13 ± 2 loài, độ tàn che 50%. Trong mỗi ô đo đếm có diện tích 400m

2 số

cây và số loài cây gỗ biến động không lớn, số lƣợng cây gỗ từ 42 - 50 cây, trung bình có 46 cây/OTC (tƣơng ứng với mật độ từ 1050 - 1250 cây/ha). Mật độ trung bình 1150 ± 100 cây/ha, có chiều cao trung bình 8,9 m, đƣờng kính bình quân là 8,4 cm, với tổng tiết diện ngang trung bình là 5,04 m

2/ha. Chủ yếu vẫn

là những loài gỗ nhỏ và trung bình nhƣ ở thời gian phục hồi 6 năm. Ở các OTC xuất hiện những loài cây ƣa sáng định cƣ có đời sống dài tham gia vào tổ thành tầng cây gỗ nhƣ Lim vang (Peltophorum pterocarpum), Bông bạc (Vernonia arborea), Trám trắng (Canarium album), Bứa (Garcinia oblongifolia),.... Loài cây gỗ tái sinh có 47

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 96: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 89 - 96

93

loài, số loài cây gỗ nhỏ và trung bình là 32 loài, gỗ lớn là 15 loài, mật độ là 9220 ± 1540 cây/ha, chủ yếu là những loài cây có đời sống dài nhƣng lúc nhỏ cần che bóng, thuộc các họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Trám (Burseraceae), họ Hồ đào (Juglandaceae), họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Sổ (Dilleniaceae), họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Cam (Rutaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Du (Ulmaceae),....

Tầng cây bụi có 39 loài, mật độ trung bình

5076 ± 1191 cây/ha, chiều cao trung bình từ

1,9 - 2,7 m, độ che phủ 30%, Các loài cây bụi

ƣa ẩm thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ

Đơn nem (Myrsinaceae), họ Trúc đào

(Apocynaceae), họ Cam (Rutaceae), họ Nhót

(Elaeagnaceae), họ Cỏ roi ngựa

(Verbenaceae), họ Chè (Theaceae), họ Na

(Annonaceae),.... gồm các loài nhƣ Chè tƣớc

(Lindera tonkinensis), Phèn đen (Phyllanthus

reticulata), Nhót rừng (Elaeagnus bonii),

Sầm (Memecylon scutellatum), Găng (Randia

spinosa), Bọ mẩy (Clerodendrum

fortunatum), Thừng mực là nhỏ (Wrightia

laevis), Trọng đũa (Ardisia lindleyana),

Xuyên tiêu (Zanthoxylum nitidum), Bền bệt

(Camellia sp.) Móng rồng (Artabotrys

hexapetalus),...

Tầng thảm tƣơi có 16 loài thuộc họ Tổ điểu (Aspleniaceae), họ Rau dền (Amaranthaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ Cói (Cyperaceae), họ Củ nâu (Dioscoreaceae), họ Mã tiền (Loganiaceae), họ Hồ tiêu (Piperaceae), họ Hoà thảo (Poaceae), họ Cà phê (Rubiaceae)...Các loài thƣờng gặp là Cỏ ba cạnh (Cyperus trialatus), Chít (Thysanolaena maxima), Cỏ gừng (Panicum repens), Dƣơng xỉ (Dryopteris filix-mas), Củ nâu (Discorea cirrhosa), Huỳnh thiêm (Sigesbeckia orientalis), Hƣơng bài (Vetiveria zizanioides), Cỏ xƣớc (Achyranthes aspera), Lá ngón (Gelsemium elegans), Trầu rừng (Piper gymnostachyum), Cỏ lá tre (Centotheca latifolia), Ba kích (Morinda officinalis),... Dây leo có 20 loài, các loài thƣờng gặp nhƣ Kim cang (Smilax davidiana, Smilax china, Smilax ferox), Dây mây nƣớc (Calamus amarus), Dây gắm (Gnetum latifolium), Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria), Sâm lam (Millettia speciosa), Dây cóc (Derris

elliptica), Nắm cơm (Kadsura coccinea), Chặc chìu (Tetracera asiatica), Dây mấu (Bauhinia bracteata), Dây lang rừng (Merremia staphylina),...thuộc các họ Khúc khắc (Smilacaceae), họ Nho (Vitaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Sổ (Dilleniaceae), họ Khoai lang (Convolvulaceae), họ Trƣờng điều (Connaraceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Mao lƣơng (Ranunculaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Ngũ vị (Schisandraceae), họ Tiết dê (Menispermaceae), họ Cau (Arecacceae),... với độ nhiều Cop1.

* Sau khai thác:

Trạng thái này chúng tôi thống kê đƣợc 142 loài, độ che phủ là 80%, cấu trúc hai tầng, tầng cây gỗ gồm 19 ± 4 loài, độ tàn che 70%. Trong mỗi OTC có diện tích 400m

2, số lƣợng

cây gỗ biến động rất lớn từ 60 - 112 cây, trung bình có 86 cây/OTC (tƣơng ứng với mật độ từ 1500 - 2800 cây/ha). Mật độ 2150 ± 650 cây/ha, đƣờng kính là 12,4 cm, chiều cao là 14,1 m với tổng tiết diện ngang trung bình là 29,87 m

2/ha. Tổ thành tầng cây gỗ có các loài

nhƣ Kháo vàng (Machilus bonii), Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Dẻ sồi (Lithocarpus bacgiangensis), Cứt ngựa (Archidendron eberhardtii), Trâm tía (Syzygium cinereum), Dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), Côm trâu (Elaeocarpus floribundus),... Cây gỗ tái sinh có 74 loài, mật độ 14.800 ± 1680 cây/ha (gỗ nhỏ và trung bình 50 loài, gỗ lớn 24 loài). Thành phần loài cây tái sinh chủ yếu thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ Hồng xiêm (Sapotaceae), họ Bứa (Clusiaceaeceae), họ Trám (Burseraceae), họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Trinh nữ (Mimosaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Tô hạp (Altingiaaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Trôm (Sterculiaceae),...

Tầng cây bụi có 32 loài, mật độ 3920 ± 1520

cây/ha, chiều cao từ 2,1 - 2,3 m, độ che phủ

30%. Các loài có số lƣợng cá thể nhiều nhƣ

Bền bệt (Camellia sp.), Trọng đũa (Ardisia

lindleyana), Móng rồng (Artabotrys

hexapetalus), Phèn đen (Phyllanthus

reticulatus), Nhót rừng (Elaeagnus bonii),

Sầm (Memecylon scutellatum), Niệt gió

(Wikstroemia indica), Đơn nem (Maesa

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 97: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 89 - 96

94

perlarius), Sang (Zanthoxylum nitidum),...

Các loài cây bụi chủ yếu thuộc họ Thầu dầu

(Euphorbiaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae),

họ Trầm (Thymelaeaceae), họ Dâu tằm

(Moraceae), họ Nhót (Elaeagnaceae), họ

Cam (Rutaceae), họ Chè (Theaceae),... Dây

leo có 17 loài, các loài thƣờng gặp nhƣ Dây

đau lƣng (Tinospora sinensis), Kim cang

(Smilax davidiana, Smilax china, Smilax

ferox), Chặc chìu (Tetracera asiatica), Dây

cóc (Derris elliptica), Mây hèo (Calamus

pseudoscutellaris), Bánh nem (Bowringia

callicarpa), Dây mật (Derris elliptica), Sâm

lam (Millettia speciosa), Trầu rừng (Piper

sarmentosum), Chè dây (Ampelopsis

cantoniensis), Dây quạch (Bauhinia

khasiana),... Cỏ có 19 loài, các loài thƣờng

gặp nhƣ Cỏ ba cạnh (Cyperus trialatus),

Dƣơng xỉ (Dryopteris filix-mas), Phong lan

đất (Malaxis ophrydis), Chè vè (Miscanthus

floridulus), Sa nhân (Amomum xanthioides),

Cỏ mật (Chloris barbata), Cao cẳng lá mác

(Ophiopogon dracaenoides),...thuộc họ Rau

dền (Amaranthaceae), họ Hành (Liliaceae),

họ Gừng (Zingiberaceae), họ Tổ điểu

(Aspleniaceae), họ Cói (Cyperaceae)... với độ

nhiều cop1.

c. Thảm thực vật phục hồi 10 năm

* Sau nương rãy:

Rừng có cấu trúc hai tầng, độ che phủ đạt

90% với 127 loài thực vật. Tầng cây gỗ có 15

± 1 loài, độ tàn che 80%. Trong mỗi OTC số

lƣợng cây gỗ biến động lớn, ô nhiều nhất có

69 cây, ô ít nhất có 35 cây, trung bình trong 1

ô có 52 cây (tƣơng ứng với mật độ từ 875 -

1725 cây/ha). Mật độ trung bình là 1.292 ±

417 cây/ha, chiều cao trung bình 9,1 m,

đƣờng kính bình quân là 9,9 cm, đạt tổng tiết

diện ngang trung bình là 9,35 m2/ha. Tổ thành

loài chủ yếu gồm các loài nhƣ Bông bạc

(Vernonia arborea), Kháo vàng (Machilus

bonii), Lim vang (Peltophorum pterocarpum),

Dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), Bứa (Garcinia

oblongifolia), Chẹo (Engelhardtia

roxburghiana), Sơn ta (Toxicodendron

succedanea),...Cây gỗ tái sinh có 49 loài

(trong đó loài gỗ lớn có 19 loài, gỗ nhỏ và

trung bình là 30 loài), mật độ là 9813 ± 2587

cây/ha, thuộc các họ Long não (Lauraceae),

họ Bứa (Clusiaceae), họ Vang

(Caesalpiniaceae), họ Dâu tằm (Moraceae),

họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Hồng xiêm

(Sapotaceae), họ Xoài (Anacardiaceae), họ

Hồ đào (Juglandaceae), họ Trám

(Burseraceae), họ Dầu (Dipterocarpaceae), họ

Dẻ (Fagaceae), họ Trinh nữ (Mimosaceae), họ

Sim (Myrtaceae), họ Hoa hồng (Rosaceae),

họ Cam (Rutaceae),...

Tầng cây bụi có 40 loài với mật độ 3422 ±

222 cây/ha, chiều cao trung bình từ 1,3 - 2,1

m, độ che phủ 20%, chủ yếu là những loài cây

ƣa ẩm, chịu bóng thuộc họ Trúc đào

(Apocynaceae), họ Thầu dầu

(Euphorbiaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae),

họ Cam (Rutaceae), họ Chè (Theaceae),...

Các loài có số lƣợng cá thể nhiều nhƣ Phèn

đen (Phyllanthus reticulatus), Bền bệt

(Camellia sp.), Móng rồng (Artabotrys

hexapetalus), Găng (Randia spinosa), Béo

đen (Goniothalamus vietnamensis), Trọng

đũa (Ardisia lindleyana), Đơn đỏ (Excoecaria

cochinchinensis), Hoa dẻ (Desmos chinensis),

Sầm (Memecylon scutellatum), Thừng mực

trâu (Kibatalia laurifolia), Xuyên tiêu

(Zanthoxylum nitidum), Bùm bụp (Mallotus

barbatus), Nhót rừng (Elaeagnus bonii), Nho

đất (Vitis balansaeana), Cứt chuột (Brucea

mollis),...

Tầng thảm tƣơi có 16 loài, thuộc các họ nhƣ

Cúc (Asteraceae), họ Trúc đào

(Apocynaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Rau

dền (Amaranthaceae), họ Tổ điểu

(Aspleniaceae), họ Cói (Cyperaceae), họ Củ

nâu (Dioscoreaceae), họ Hành (Liliaceae), họ

Hoà thảo (Poaceae), họ Gai (Urticaceae), họ

Gừng (Zingiberaceae),... Các loài thƣờng gặp

là Cỏ ba cạnh (Cyperus trialatus), Sa nhân

(Amomum xanthioides), Cỏ lác (Cyperus

cephalotus), Cỏ lá tre (Centosteca latifolia),

Cỏ rác (Panicum sarmentosum), Củ nâu

(Dioscorea cirrhosa), Sa nhân (Amomum

xanthioides), Cỏ lông nƣơng (Polytrias

indica), Cỏ xƣớc (Achyranthes aspera), Cỏ

mần trầu (Eleusine indica), Cao cẳng

(Ophiopogon dracaenoides), Hƣơng bài

(Dianella ensifolia),... Dây leo có 22 loài, các

loài có số lƣợng cá thể nhiều nhƣ: Chặc chìu

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 98: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 89 - 96

95

(Tetracera asiatica), Kim cang (Smilax

davidiana, Smilax china, Smilax ferox), Sâm

nam (Millettia speciosa), Dây ông lão

(Clematis armandi), Ruột gà (Clematis

chinensis), Khế rừng (Rourea ssp.

Microphylla), Dây gắm (Gnetum latifolium),

Dây mấu (Bauhinia bracteata), Chè dây

(Ampelopsis cantoniensis), Dây máu

(Sargentodoxa cuneata), Khúc khắc

(Heterosmilax gaudichaudiana), Hoàng đằng

(Fibraurea tinctoria), Ngạnh khế (Cnestis

palala),... thuộc các họ nhƣ Trúc đào

(Apocynaceae), họ Vang (Caesalpiniaceae),

họ Sổ (Dilleniaceae), họ Nho (Vitaceae), họ

Khoai lang (Convolvulaceae), họ Trƣờng điều

(Connaraceae), họ Ngũ vị (Schisandraceae),

họ Cà phê (Rubiaceae), họ Đậu (Fabaceae),

họ Mao lƣơng (Ranunculaceae), họ Huyết

đằng (Sargentodoxaceae), họ Tiết dê

(Menispermaceae), họ Gắm (Gnetaceae), họ

Cau (Arecaceae), họ Khúc khắc

(Smilacaceae), họ Gai (Urticaceae),... với độ

nhiều mức Sp.

* Sau khai thác:

Trạng thái này có 125 loài, cấu trúc 2 tầng, độ

che phủ 95%. Tầng cây gỗ có 17 ± 3 loài, độ

tàn che 80%. Trong mỗi OTC số lƣợng cây

gỗ biến động từ 70 - 96 cây, trung bình trong

1 ô có 83 cây (tƣơng ứng với mật độ từ 1750

– 2400 cây/ha). Mật độ 2075 ± 325 cây/ha,

chiều cao trung bình 15,1 m, đƣờng kính 13,7

cm, đạt tổng tiết diện ngang là 38,10 m2/ha.

Chủ yếu là những loài có kích thƣớc lớn và

trung bình nhƣ Côm trâu (Elaeocarpus

floribundus), Cứt ngựa (Archidendron

chevalieri), Lim xanh (Erythrophleum fordii),

Dẻ sồi (Lithocarpus bacgiangensis), Vạng

trứng (Endospermum chinense), De vàng

(Lithocarpus tubulosus), Xoan đào (Prunus

arborea),...Cây gỗ tái sinh có 62 loài, mật độ

10596 ± 1271 cây/ha (gỗ lớn là 20 loài, gỗ nhỏ

và trung bình là 42 loài). Các loài thuộc họ

Vang (Caesalpiniaceae), họ Dẻ (Fagaceae),

họ Trám (Burseraceae), họ Dầu

(Dipterocarpaceae), họ Long não (Lauraceae),

họ Sim (Myrtaceae), họ Dâu tằm (Moraceae),

họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Trôm

(Sterculiaceae), họ Mộc lan

(Magnoliaceae),...

Tầng cây bụi có 28 loài, mật độ 3107 ± 1093

cây/ha, chiều cao từ 1,7- 2,2m, độ che phủ

10%, các loài thƣờng gặp nhƣ Trọng đũa

(Ardisia lindleyana), Xuyên tiêu

(Zanthoxylum nitidum), Kháo bụi (Machilus

oreophila), Hoa móng rồng (Artabotrys

hexapetalus), Béo trắng (Gomphandra

mollis), Bền bệt (Camellia sp), Chè tƣớc

(Lindera tonkinensis), Phèn đen (Phyllanthus

reticulatus), Niệt gió (Wikstroemia indica),

Bọ mẩy trắng (Clerodendrum cyrtophyllum),

Đơn nem (Maesa perlarius),... Dây leo có 17

loài, các loài thƣờng gặp nhƣ: Kim cang

(Smilax davidiana, Smilax china, Smilax

ferox), Mây hèo (Ampelopsis cantoniensis),

Hoàng đằng (Fibraurea tinctoria), Dây gắm

(Gnetum latifolium), Chè dây (Ampelopsis

cantoniensis), Chặc chìu (Tetracera asiatica),

Huyết đằng (Sargentodoxa cuneata)... Cỏ có

18 loài, các loài thƣờng gặp nhƣ: Rau rớn

(Callipteris esculenta), Phong lan đất

(Malaxis ophrydis), Lá ngón (Gelsemium

elegans), Cao cẳng (Ophiopogon latifolius),

Dƣơng xỉ (Dryopteris sp.), Sa nhân (Amomum

xanthioides),...Ngoài ra còn gặp các loài thuộc

họ Cúc (Asteraceae), họ Thiên lý

(Asclepiadaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ

Cói (Cyperaceae), họ Hoà thảo (Poaceae), họ

Gừng (Zingiberaceae),...với độ nhiều mức Sp.

KẾT LUẬN

Thảm thực vật phục hồi ở Khu bảo tồn thiên

nhiên Tây Yên Tử (Bắc Giang) khá đa dạng

về thành phần loài, thời gian phục hồi từ 6 –

10 năm có 262 loài, 189 chi của 87 họ, thuộc

3 ngành thực vật (Pteridophyta,

Gymnospermae, Angiospermae). Họ giàu loài

nhất (≥5 loài) có 16 họ gồm Lauraceae,

Euphorbiaceae, Poaceae, Fagaceae,

Rubiaceae, Melastomataceae, Fabaceae,

Moraceae, Vitaceae, Rutaceae,

Caesalpiniaceae, Apocynaceae, Arecaceae,

Theaceae, Myrtaceae, Dipterocarpaceae

(chiếm 18,4% tổng số họ) với 131 loài (chiếm

50% tổng số loài).

Cấu trúc thảm thực vật phục hồi đơn giản gồm hai tầng. Rừng phục hồi sau khai thác có số loài biến động từ 125-142 loài, cây gỗ tái sinh biến động từ 62-74 loài, mật độ từ 10.596 – 15.947 cây/ha. Tầng cây cao số loài

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 99: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Văn Hoàn và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 89 - 96

96

từ 14-19 loài, mật độ từ 1725 – 2075 cây/ha, độ tàn che từ 40 – 80%. Tầng cây bụi có từ 28 – 33 loài, mật độ từ 3107 – 6040 cây/ha, độ che phủ giảm từ 30% xuống 10%. Rừng phục hồi sau nƣơng rãy số loài biến động từ 119-127 loài, loài cây gỗ tái sinh từ 37 – 49 loài, mật độ từ 6960 – 9813 cây/ha. Tầng cây cao từ 11 – 15 loài, mật độ từ 558 – 1292 cây/ha, độ tàn che tăng dần từ 25 – 60%. Tầng cây bụi từ 39 – 40 loài, mật độ từ 3422 – 5769 cây/ha, độ che phủ giảm dần từ 40 xuống 20%. Các loài cỏ giảm dần khi rừng đƣợc phục hồi từ 27 loài xuống còn 16 loài, dây leo biến động trong khoảng từ 15 – 22 loài.

TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Tiến Bân (1997), Cẩm nang tra cứu

và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

[2]. Nguyễn Tiến Bân (2005), Danh lục các loài

thực vật Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Nông

nghiệp, Hà Nội.

[3]. Bộ NN & PTNT (2000), Tên cây rừng Việt

Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

[4]. Phạm Hoàng Hộ (1991-1993), Cây cỏ Việt

Nam, Nxb trẻ TP Hồ Chí Minh.

[5]. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2001), Dự

án xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử

tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2001-2010.

SUMMARY

CHARACTERISTICS OF SOME NATURAL FOREST REHABILITATION

IN BAC GIANG PROVINCE

Nguyen Van Hoan

1, Le Ngoc Cong

2*, Bui Thi Dau

2,

Nguyen Thi Thu Hà2, Dinh Thi Phuong

2

1Department of Agriculture and Rural Development Bac Giang Province 2College of Education, Thai Nguyen University

The species composition of the natural regenerative vegetation in Bac Giang province. Restored

forests after 6 – 10 years there are 262 species, belonging to 189 genus of 87 families. The most

species-rich families are Lauraceae, Euphorbiaceae, Poaceae, Fagaceae, Rubiaceae,

Melastomataceae, Fabaceae, Moraceae, Vitaceae, Rutaceae, Caesalpiniaceae, Apocynaceae,

Arecaceae, Theaceae, Myrtaceae, Dipterocarpaceae. These families occupying 50% total of

species in vegetation. The structure of the regenerative vegetation is quite simple, comprise two

layers. According to the regenerative time, the regenerative vegetation after clear cutting has the

number of species from 125 to 142 species. After-exploitation forest offers the number of

regenerative wood species from 62 to 74 species, the density of regenerative trees from 10596 to

15947 trees/ha. In wood tree layer, the species number from 14 to 19 species, the density of wood

trees from 1725-2075 trees/ha, vegetation cover increases from 40% - 80%. In shrub layer, the

species number from 28 - 33 species, the density from 3107 – 6040 trees/ha, Vegetation decreases

from 30% to 10%. Restored forest after shifting cultivation area the number of species from 119 to

127 species, species of regenerative wood species from 37 - 49 species, the density of wood trees

from 6960 – 9813 trees/ha. The layer of wood trees from 11 to 15 species, the density from 558 to

1292 trees/ ha, the cover of this layer increases from 25% - 60%. Shrub has the number of species

from 39 to 40 species, the density from 3422 – 5769 trees/ha, the cover reduces from 40% to 20%.

The density of regenerative trees from 5397 - 7031 trees/ha.

Key words: Flora, natural regenetion, after shifting cultivation, after extraction, structure

* Tel: 0915462404; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 100: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 97 - 102

97

FOREST LAND-USE CHANGE IN NGOC PHAI COMMUNE,

CHO DON DISTRICT, BAC KAN PROVINCE, VIETNAM (1990-2005)

Dam Viet Bac, Dam Xuan Van

*

College of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University

SUMMARY The study was conducted at the Ngoc Phai Commune, Cho Don District, Bac Kan Province,

Vietnam. The aimed to determine land-use changes (LUCs) for the last 15 years (1990-2005) of

Doi Moi (renovation) ra in the mountainous region of northern Vietnam. For spatial data, the

Geographic Information System (GIS) was applied as a tool for determining LUCs. Three land-use

maps (1990, 1998 and 2005) were overlaid and grouped into two intervals (1990-1998 and 1998-

2005). Several thematic maps were created such as slope, elevation, drainage and road maps.

Moreover, the study site was divided into 204-grid cells with 500 m x 500 m/cell or 25 ha/cell to

identify and quantity the area and location of the land-use changes associated with the grid cell

level. For the period 1990-1998, the total area of forest degradation was 109.31 ha. This occurred

at 15°-35° slope, 500-700 masl and at a distance of 500-1000m from location of LUCs to the main

road. Forest restoration for the same time period was 108.30 ha mainly at 15°-35° slope, 400-700

mal and at a distance of 100-250 m followed by 250-500 m and 500-750 m. For the period 1998-

2005, forest degradation had a total area of 625.47 ha mainly at 15°-35°slope, 400-600 masl and at

a distance of 250-500 m followed by 500-750 m and 750 – 1000 m. Forest restoration for the same

time period was 657.94 ha mainly at 15°-35° slope, 400-700 mal and at a distance of 250-500 m

followed by 500-750 m and 750-1000 m.

Keywords: Land use change, mountainous region, northern Vietnam

INTRODUCTION*

Three-quarters of Vietnam‟s total land area of

33.104 million hectares is occupied by hills

and mountains. The remaining one-third is

home to the national population which have

undergone rapid changes following socio-

economic developments. Forest and land, the

main sources of local production system, has

been impacted severely over the last decades.

Researches on land-use and land-use planning

have been carried out in Northern Vietnam

but have not fully looked into the driving

forces of land-use change as influenced by

renovation policies. For this reason, research

in this area was conducted. The study

attempted to review the biophysical and

socio-economic conditions, estimate land-use

change across three-time periods by using

Geographic Information System (GIS),

identify the driving forces of land-use change

both at the local and exogenous levels and

create GIS database. Results of the study

would contribute to policymakers in creating

* Tel: 0982166696; Email: [email protected]

guidelines relevant to forestry and rural

development sectors.

MATERIALS AND METHODS

GIS Processing for Analysis of Land-Use

Changes

For spatial data, existing digital GIS files of

land-use maps (1990, 1998, and 2005) from

SAM Project and Natural and Environmental

Office of Bac Kan province were used. This

was combined with ground verification

generated during the time of data gathering by

intersecting land-use themes 1990-1998, and

1998–2005. Aside from these,

topographical, drainage and slope maps

were interpreted in Philippines and

intersected with several thematic maps by

ArcGIS 9.0. Finally, grid cell level (25

ha/cell) for the study site was made.

For temporal data, all the attribute tables on

Arcview GIS 3.2a and AcrGIS 9.0 were

exported to dBase IV files of Excel program,

and then to SPSS 12.0 for statistical analysis

of output tables. Means, frequencies, ranges,

percentages land-use change matrices and

charts were used to compare the data of land-

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 101: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 97 – 102

98

use change areas of eight forest and land-use

types; (dense forest, open forest, shrubs,

upland crops, grasslands, mosaic and other

lands).

Descriptive statistics was used to analyze data

on biophysical and socio-economic conditions

of the study site. The results were presented

as percentages, averages or means, ranges and

graphs, where applicable.

RESULTS AND DISCUSSION

Determinants of Land-Use Changes

The change in land-use was determined by

overlaying land-use maps of 1990-1998, and

1998-2005. Overlaid maps was done in

ArcView GIS 3.2a and AcrGIS 9.0. The

results of overlaid maps are shown in Figure 1

and Figure 2.

Dynamics of Land-Use Changes

The land-use changes in Ngoc Phai for the

past eight-year period are shown in Table 1.

The data indicates that forestland and shrub

areas have small reduction in the area of

dense forest. It accounted for –191.02 ha or a

-14.58% drop while there was a steady rise

between 1990 and 1998, +395 ha or 73.84%.

In the open forest and shrublands, There was

a reduction of –87.18 ha or -7.52%. There

was a marked increase in the area of paddy

field with +40 ha or 29.95%. In upland crops,

a reduction was also observed, –139 ha or -

34.50%. A decline of –21 ha or -10.34% in

grasslands was also noted.

Between 1998-2005, a high rate of forest

disturbance occurred in the dense forest; the

forest decreased by –103.21 ha or -9.22%,

followed by shrubs with -110.91 ha or -

10.34%. The open forest declined by –2.51

ha or -0.27% and the mosaic lands by –3.32

ha or -0.29%. For the other kinds of land-

uses, sharp increases were observed. In the

upland crops, an increase of +110.88 ha or

41.78 and in paddy field with 62.76 ha or

+36.10%. Moreover, a rise of +29 ha or

+41.89% in other lands and +16.62 ha or

+9.22 % in the grasslands was also realized.

Overall, the rate of forest disturbance in the

period of 1990-1998 were as follows: dense

forest declined by -23.87 ha or -1.82%

annually and shrublands by –10.89 ha or -

0.94% annually. During 1998-2005 period,

forest degradation was down to –14.74 ha or

-1.32% annually in the dense forest, and -

15.84 ha or -1.47% annually in the

shrublands. However, there was an increase in

the open forest during first period of +9.23 ha

or +0.31% annually (Table 1).

Figure 1. Land-use change map, 1990-1998

Figure 2. Land-use change map, 1998-2005

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 102: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 97 - 102

99

Table 1. Land-use changes across three-time periods

TYPES OF LAND-USE 1990 1998 2005 CHANGE IN 1990-1998 CHANGE IN 1998-2005

(ha) (ha) (ha) (ha) % (ha) %

Dense Forest 1310.14 1119.12 1015.91 -191.02 -14.58 -103.21 -9.22

Open Forest 535.97 931.71 929.20 +395.74 +73.84 -2.51 -0.27

Shrubs 1159.52 1072.34 961.43 -87.18 -7.52 -110.91 -10.34

Paddy Field 133.8 173.87 236.63 +40.07 +29.95 +62.76 +36.10

Upland Crops 405.15 265.37 376.25 -139.78 -34.50 +110.88 +41.78

Grasslands 201.3 180.30 196.92 -21.00 -10.43 +16.62 +9.22

Mosaic 369.86 359.86 356.54 -10.00 -2.70 -3.32 -0.92

Other Lands 57.72 70.88 100.57 +13.16 +22.80 +29.69 +41.89

*Figures preceed with + sign indicates an increase; - sign indicates a decrease

Table 2. Transition matrix of land-use change for 1990 – 1998

1990

1998 1990

TOTAL Dense

Forest

Open

Forest Shrubs

Paddy

Field

Upland

Crops

Grass

Land Mosaic Other Land

Dense Forest 1110.83 199.31

1310.14

Open Forest 8.29 527.69 535.97

Shrubs

100.01 1059.51 1159.52

Paddy Field 133.80 133.80

Upland Crops 99.71 40.08 265.37 405.15

Grass Land 5.00 180.29 16.00 201.30

Mosaic 359.86 10.00 369.86

Other Lands 12.83 44.89 57.72

1998 TOTAL 1119.12 931.71 1072.34 173.87 265.37 180.29 359.86 70.89 4173.45

Change in (ha) -191.02 +395.74 -87.18 +40.08 -139.79 -21.00 -10.00 +13.17

Change in (%) -14.58 +73.84 -7.52 +29.95 -34.50 -10.43 -2.70 +22.82

Process of Land-Use Transitions

Period 1990-1998 (During Forest Land

Allocation Program). Table 2 shows the

transition matrix where 199.31 ha or 15.21%

of the total of dense forest are was converted

to open forest; a slight conversion in open

forest to dense forest (8.29 ha or 1.55%). For

shrubs, 100.01 ha were converted to open

forest and 1059.51 ha or 91.37% remained

unchanged.

The rate of land-use change between 1990-

1998 (Table 2) shows that there was no

conversion to paddy fields during 1990-1998.

Paddy field remained its original area of

133.80 ha. A total of 40.08 ha (3.83%) of

upland crops was converted to paddy field

and 99.71 ha (24.61%) to open forest. A small

area of grassland, 5.00 ha (2.48%) was

converted to open forest and 16.00 ha

(7.95%) to other lands.

Period 1998-2005 (After Forest Land

Allocation Program). The transition matrix

(Table 3) shows the land-use change over a

period of seven years. The dense forest area

was transformed into shrubs area by 290.25

ha or 25.94% of total dense forest land. Other

lands increased by 61.79 ha or 5.52 %,

grasslands by 16.68 ha or 1.49%, paddy

fields by 7.16 ha or 0.64% and mosaic lands

by 0.46 ha or 0.04%. The high rate of forest

disturbance was from conversion of 124.52 ha

open forest (13.36%) into shrubs, conversion

of 169.24 ha of open forest (18.16%) into

dense forest, 106.39 ha of open forest

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 103: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 97 – 102

100

(11.42%) into upland crops, 11.34 ha of open

forest (1.22%) into paddy fields. The other

converted areas of open forestland were less

than 1%.

There was a dramatic reduction shrublands.

Only 381.39 ha or 35.57% devoted to shrubs

remained its original area, with 415.86 or

38.37% of shrublands converted to open

forest land, with 156.84 ha or 14.63% of

shrublands converted to grasslands, 72.81 ha

or 6.78 % shrublands changed to dense forest

and 33.15 ha or 3.09% of shrublands diverted

to paddy fields. There were no change to both

the paddy field and upland crops. Paddy fields

remained at173.87 ha and upland crops

remained at 265.37 ha or 100% of their

original lands. Grasslands were reduced

drastically to 14.10 ha or 7.82%, with 130.87

ha or 72.58% of grasslands transformed into

shrublands, 20.80 ha of grasslands (11.54%)

changed to dense forest, 9.27 ha or 5.14% of

grasslands changed into other land-use

category, and 3.61 ha or 2.00% of grasslands

changed to upland crops (Table 3).

Table 3. Transition matrix of land-use change, 1998–2005

1998

2005

1998

TOTAL

Dense

Forest

Open

Forest Shrubs

Paddy

Field

Upland

Crops

Grass

Land Mosaic

Other

Land

Dense Forest 742.77 290.25 7.16 16.68 0.46 61.79 1119.12

Open Forest 169.24 513.34 124.52 11.34 106.39 4.30 2.56 0.02 931.71

Shrubs 72.81 415.86 381.39 33.15 0.68 156.84 10.91 0.69 1072.34

Paddy Field 173.87 173.87

Upland Crops 265.37 265.37

Grass Land 20.8 130.87 1.43 3.61 14.10 0.22 9.27 180.3

Mosaic 13.98 5.68 0.81 332.7 6.69 359.86

Other Lands 10.29 20.42 4.00 0.20 4.19 9.69 22.10 70.88

2005 TOTAL 1015.91 929.20 961.43 236.63 376.25 196.92 356.54 100.56 4173.45

Change in (ha) -103.21 -2.51 -110.91 +62.76 +110.88 16.62 -3.32 29.68

Change in (%) -9.22 -0.27 -10.34 +36.10 +41.78 9.22 -0.92 41.87

Net Changes Detected by Post-

Classification Method

Table 4. Land-use change by post-classification

method

NATURE

OF CHANGE

AREA CHANGE

IN 1990-1998

AREA CHANGE

IN 1998-2005

(ha) (ha)

Loss of forest 199.31 625.47

Gain of forest 108.30 657.94

Based on the post-classification method of

land-use change in two periods during and

after implementation of the land allocation

program, 12 important land- use changes

were found consistent in both sub-periods.

The results further showed that the forest

disturbance was 199.31 ha in the first period

and in the second period, 625.47 ha. Forest

increased 108.30 ha and 657.94 ha in the first

and second periods, respectively (Table 4).

The original area of the dense forest class and

the open forest class, 84.79% and 98.45% of

respectively did not change in the first period

(1990-1998). Likewise, in the second period

(1998-2005), 66.37% and 55.10% of the

dense forest and the open forest did not

change, respectively (Table 5).

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 104: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 97 - 102

101

Table 5. Land-use areas which did not change

LAND-USE TYPE

AREA IN 1990-

1998

PERCENT OF 1990

TOTAL

AREA IN 1998-

2005

PERCENT OF 1998

TOTAL

(ha) (%) (ha) (%)

Dense Forest 1110.83 84.79 742.77 66.37

Open Forest 527.69 98.45 513.34 55.10

Shrubs 1059.51 91.37 381.39 35.57

Paddy Field 133.80 100.00 173.87 100.00

Upland Crops 265.37 65.50 265.37 7.82

Grass Land 180.29 89.56 14.10 92.45

Mosaic 359.86 97.30 332.70 22.10

Other Lands 44.89 77.77 22.10 31.18

Total 3682.24 2445.64

CONCLUSIONS

During 1990-1998, the output result of GIS interpretation shows that: The total area of forest degradation was 199.31 ha (24.91 ha annually). In more specific terms, the following results were noted:

Forest degradation was 34.80% of total area at the slope range 15

0-25

0 and 37.10% at the

slope range 250-35

0; 31.70% of total area of

forest degradation took place at 500-600 masl and 28.30% at 600-700 masl; 20.40% of total area of forest degradation occurred at the distance range 500-750m and 11.20% at 750-1000 m distance.

The total area of forest restoration was 108.30 ha (13.54 ha annually). Of which, In terms of forest restoration coverage, 43.50% occurred at the slope range 15

0-25

0 and 35.60% at the

slope range 250-35

0;

34.10% of forest restoration happened occurred at the elevation range 400m-500m and 33.00 % at the 500m-600m; and 24.90% of forest restoration occurred at 250-500 m distance, 20.00% at the distance of 100-250 m and 18.00% 500-750 m from the location of land-use change to the main road.

During 1998-2005, the total area of forest degradation was 625.47 ha (89.35 ha annually). Of which, The total area with forest degradation, 37.10% was observed to occur at the slope range 15

0-25

0 and 34.40%

at 250-350 slope; 31.70% of the forest

degradation area happened at 500-600 masl elevation, 29.50% at 400-500 masl; and 19.10% of the area of forest loss was at the distance of 250-500m and 500-750m, and 9.60% at 1250-1500 m distance);

The total area of forest restoration was 657.94

ha (93.99 ha annually). Of which, 37.90% of

the total forest restoration area took place

mainly at the slope range 150-25

0 and 37.50%

at the slope range 150-25

0; 27.30% at the

elevation 500-600 masl, 24.00% at 600-700

masl and 23.50% at 400-500 masl; and

15.90% of total area of forest restoration was

at the distance of 250-500 m to the main road;

13.60% at the distance of 500-750 m and

13.00% at the 750-1000 m.

REFERENCES

[1.] HUNG, P. T. 2000. Monitoring land use

changes with the help of landsat-tm image and

geomatic technologies. The case of Loc Chau

Commune, Bao Loc District, Lam Dong Province,

High Land of Vietnam. International Rice

Research Institute, Los Banos, Laguna,

Philippines. November 2-3, 2000.

[2.] MALYVANH, M. and C. FELDKÖTTER.

2000. Application of remote sensing and GIS for

forest cover monitoring in Lao PDR.

http://www.mekonginfo.org.

[3.] WU, Q. H.Q. LI, R. S. WAN, J.

PAULUSSEN, Y. HE, M. WANG, B. H. WANG

and Z. WANG. 2006. Monitoring and predicting

land use change in Beijing using remote sensing

and GIS. Landscape and Urban Planning 78

(2006) 322–333.

[4.] XIE, Y. and J. FELLOWS. 1996. GIS

application in natural reserve management. Page

259-265. In: PETER, WANG J. and Y. XIE.

Conserving China‟s Biodiversity (II).

Environmental Science Press. Beijing.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 105: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 97 – 102

102

TÓM TẮT

BIẾN ĐỘNG SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP TẠI XÃ NGỌC PHÁI,

HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN, VIỆT NAM (1990-2005)

Đàm Việt Bắc, Đàm Xuân Vận*

Trường Đại học Nông lâm – ĐH Thái Nguyên

Nghiên cứu đƣợc tiến hành tại xã Ngọc Phái, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam.

Mục tiêu của nghiên cứu là xác định sự thay đổi sử dụng đất trong 15 năm qua (1990-2005) của

thời kỳ Đổi mới ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Đối với dữ liệu không gian, việc ứng

dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) nhƣ một công cụ để xác định sự biến động sử dụng đất. Ba

bản đồ sử dụng đất (1990, 1998 và 2005) đã đƣợc chồng ghép và chia thành hai giai đoạn (1990-

1998 và 1998-2005). Một số bản đồ chuyên đề đƣợc tạo ra nhƣ bản đồ độ dốc, chế độ nƣớc, độ cao

và bản đồ giao thông. Hơn nữa, các điểm nghiên cứu đƣợc chia thành các lƣới gồm 204 ô với kích

thƣớc 500 mx 500 m/ ô hoặc 25 ha/ ô để xác định số lƣợng và những khu vực, vị trí của sự thay

đổi sử dụng đất gắn liền với mức độ ô lƣới. Đối với giai đoạn 1990-1998, tổng diện tích rừng bị

suy thoái rừng là 109,31 ha. Điều này xảy ra ở độ dốc 15 ° -35°, độ cao 500-700 và ở khoảng cách

500-1000m từ vị trí của loại đất thay đổi đến đƣờng chính. Việc phục hồi rừng trong khoảng thời

gian này đã đƣợc 108,30 ha chủ yếu ở độ dốc 15 ° -35°, độ cao 400-700 và ở khoảng cách 100-

250 m, sau đó là 250-500 m và 500-750 m so với đƣờng chính. Đối với thời kỳ 1998-2005, tổng

diện tích rừng suy thoái là 625,47 ha, chủ yếu ở độ dốc 15 ° -35°, độ cao 400-600 và ở khoảng

cách 250-500 m , sau đó là 500-750 m và 750-1000 m so với đƣờng chính. Phục hồi rừng trong

khoảng thời gian này đã đƣợc 657,94 ha chủ yếu ở độ dốc 15 ° -35 °, độ cao 400-700 và ở khoảng

cách 250-500 m, sau đó là 500-750 m và 750-1000 m so với đƣờng chính.

Từ khóa: Biến động sử dụng đất, khu vực miền núi, miền Bắc Việt Nam

* Tel: 0982166696; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 106: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đỗ Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 103 - 106

103

FARMING SYSTEMS OF THE POOR IN MOUNTAINOUS AREAS

OF QUANG NAM PROVINCE AND POSSIBLE SOLUTIONS

Do Thi Ngoc Oanh

*

College of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University

SUMMARY The poor in mountainous areas of Quang Nam province give priority to food security in farming.

Main food crops on upland were rice, cassava and banana; on lowland were rice and cassava; in

home garden was jackfruit; in forest were acacia and cinnamon. Strategies to ensure food security

and sustainable income for the poor are improve upland agriculture production by crop

diversification, “short-time crops support long- time plants”, sustainable intensifications of local

varieties and breeds, and enforce local people integrated in chain values of banana, cassava and

mungbean. Suggestion models for upland are intercrop local rice with mungbean and local

cinnamon; intercrop cassava with acacia; for lowland are intensive cassava, intensive banana and

hybrid breed maize; for home garden are improve chicken and pig production.

Key words: Poor, upland farming, food security, upland rice,Quang Nam

INTRODUCTION*

Quảng Nam province is located in a central

costal part of Vietnam (latitude and longitude

are 16050N and 107

012E respectively). The

province covers an area of 1.040.878 ha of

which mountainous area occupies 81%

(845.763 ha). Population in the mountainous

areas was 410.000 people of which about ¼

was ethnic minorities including Cơ tu, Ca

Doong; Bhnoong, Xơ đăng, Cor, Mơ Noong,

Ve and Tà Riềng. To find out possible

farming solutions for the poor in mountainous

areas of the province this study was

conducted in May 2010. PRA technique was

used and studying sites were Tra Tap and Tra

Don Communes in Nam Tra My district; Tra

Tan and Tra Cot communes in Bac Tra My

district.

GENERAL BACKGROUND OF NAM TRA

MY AND BAC TRA MY DISTRICTS

Nam Tra My and Bac Tra My are considered

as mountainous districts with a high

proportion of the poor. By the end of 2009,

Nam Trà My had 60% of poor household

(3.316/5.462 households), 62% of the poor

people (15.141/24.274 people); Bac Trà My

had 76% of poor household (3.011/3.913

households), or 62% of the poor people

* Tel: 0168.670.2448;Email: [email protected]

(14.603/18.945 people) (DRAD, 2010). The

urgent needs of the poor were food and cash

for daily expensive.

Crop production was the major farming

activity and the main mean of generate income

in the mountainous areas. Some local people

participated in value chains of local products.

Dominant crops were rice, cassava and banana;

dominant forest plants were acacia and

cinnamon, dominant animals were pig, cattle

and chicken. Cash crops were banana and

cassava. Acacia was also a cash plant in areas

which was easy to assess main roads. Most of

the agricultural land was on upland. For

example, in Trà Tập commune in a total of 136

ha land for seed crops there was 71% of upland

rice and only 26% was paddy rice (People

committee of Tra Tap, 2010). The main

characteristics of farming were priority given

to rice production, extensive and low diversity

farming. Comment farming techniques were

no or low level of fertilizer application even on

paddy rice; self produce seeds and no means of

soil and water conservation on upland.

Agricultural development strategies for the

mountainous area were promoted forestry,

cattle, pig, poultry and medicinal herbs.

Suggested species were forestry plants,

cinnamon, pepper, pineapple and fruit, cassava

(DARD, 2007).

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 107: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đỗ Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 103 – 106

104

The most difficulties in farming were soil

degradation lead to a reduction of crop yields;

A long travel distance from villages resulting

in a high labor cost per harvest unit; Extreme

weather such as cold (December to February),

drought, stone rain (5-6) storm (July and

Augurs) and flood (September and October)

resulting in unattainable crop yields.

FAMING SYSTEMS

Upland rice based systems

Land use strategy depends on soil fertility,

soil moisture content, and accessibility.

Priorities (fertile soil and labor) were

dedicated for rice. Cassava was the second

important crop as it was used in a shortage of

rice and for animal feed. Banana was planted

as a cash crop. Other food crops including

various bean and maize with a small

proportion were planted mostly for house

consumption. Three comment types of crop

rotation were found on upland as follows:

Rice (1 year) – fallow (2-5 years) – rice (1

year) – cinnamon. The fallow period will be

shorten if a plot was near village (about 1 km).

Rice (1 year) – banana (2 years) - fallow 3

years – rice if soil moisture content was high.

Rice (1 year) – cassava – acacia if road

assess was possible.

Monoculture of rice was dominant with two

types of rice. Early harvest rice was from

April or May to September or October. Late

harvest rice was from June to October or

December. These two types of rice produced

a similar yield which was 1-2 ton/ha. These

were practiced to avoid total failure in case of

a bad weather. Local varieties were seeded

with a very high density (50 kg/ha; 10

seeds/hole). Hand weeding was carried out 1-

2 times per season and there was no

application of fertilizer. Intercrop rice with

mungbean or vegetable was found with a

small proportion as follows:

Mungbean (from March or April and to

May or June) – rice (from May to October

or December) if it was a fertile soil. About

10% of households practiced this system.

Vegetable (from February to April) – rice

(from May to October or December) if soil

moisture content was high.

Traditionally, to save labor a mixed seeds of

rice and mungbean was seeded in March, at a

harvest of mung bean in May rice started

heading. A new technique of intercrop rice -

mung bean was introduced by DARD but was

not widely practiced. Mungbean was seeded

in March with a density of 2 seeds/hole. Rice

was seeded at a time of weeding for

mungbean in May.

Mungbean was a traditional crop; its

advantages were it allows quick harvest (in 2

months), easy transport and harvest at time of

food shortage. At present a value of 1 kg

mungbean (10000-12000 đ/kg) equivalent to

two or three kg of upland rice. Disadvantages

of this crop were labor intensive for

harvesting at seeding time of upland rice.

Cassava season was from May to December

and that of maize was from March to July.

Local variety of maize was prefer instead of

hybrid variety, however, there were a few

interviewers mentioned about maize. Banana

was a relatively important cash crop as it

provided monthly income from 20.000 to

40.000 VND/each harvest. There was a

consume channel of banana to Tam Ky and to

Da Nang cites.

Acacia plantations were found where road

access to local markets was possible whereas

patchy cinnamon was found anywhere. Two

cinnamon varieties (local and Thanh Hoa

varieties) were planted. Of these two

varieties, the local cinnamon grown slower

and take longer time to be harvested but had a

better quality. Market of these products was

problems. In Nam Tra My many interviewers

said “do not know whom to sale acacia to”

and price of cinnamon bark was too cheap to

compare with its cost. According to the

interviewers, price of cinnamon was about

10.000 to 15.000 VND/kg whereas to have

benefit it must be 70.000 to 80.000 VND/kg.

Lowland rice-based system

Average holding of paddy field was 600

m2/household. There were two rice crops per

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 108: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đỗ Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 103 - 106

105

year: Winter-Spring rice was from January to

May and Summer-Autumn rice was from

June to October. Some households applied

chemical fertilizer but there was no

application of animal manure. Rice yield

which was 3-3.5 ton/ha (DARD, 2009) was

low in comparison with that of provincial

average. Constraints to rice production were

unstable water supply, cold winter when

heading and flooding at the harvest. To cope

with unstable water supply, in the Tra Mai

commune some farmers turned rice plots into

banana plots.

Annual crop based systems along river banks

The most dominant crop was cassava which

was planted from January to August. Cultivar

KM 94 was planted at a high density of 0.6 x

0.6 m. Some households applied chemical

fertilizer. Cassava yielded at 10-12 ton/ha

(lower than its potential which was 20-30

ton/ha). Price of fresh cassava was 5000 to

6000 VND/kg. In many cases cassava dealers

offered rice in advance then farmers paid at

the harvest of cassava. The poor appreciated

this offer. There was a cassava starch factory

in Quang Nam where it was delivered to.

Other crops included maize (January to

April and May to August); peanut (January

to April and April to August); various bean

(January to June); and vegetables (May to

June and October to December) were found

along river banks.

Homegarden

Management of home garden was very poor

with the most common crop was jackfruit.

There was a channel of jackfruit consumption to

Tam Ky and Da Nang cities. Unstable and low

production of livestock was comment to most of

interviewers. Pig, cow, chicken and goat were

suffered from poor nutrition feed and

management. For example, a piglet of 10 kg

reached a weight of 40 kg after 6 month rising.

POSSIBLE SOLUTIONS

Land use strategies

As it has been considered that “ensuring food

security is one of the most important

necessary conditions for an upland

agricultural intervention” (Sciortino et. al.,

2008) so the first strategy improve upland

agricultural production for food security and

to generate surplus of cash crops for domestic

and nearby regional markets. The second

strategy is crop diversification to reduce

household vulnerability and depending on

upland rice. The third strategy is graduate

replace crop plants by forestry plants.

Selection criteria of upland crops which

suggested by Sciortino et. al. (2008) can be

applied. They are market demand exists;

suitable for sloped lands; integrates into agro-

foretry systems; potential for community

based value added processing; potential for

private sector participation; potential for

contract farming; potential as natural/organic

product and potential suitable as a biofuel.

Other criteria must be taken into account are

low input and generate all year cash flow.

Technical aspects

Plant species for the upland are mungbean,

banana, cassava local cinnamon and acacia.

Applied techniques are: Sustainable

intensification of crop and animal production

by use of improved local varieties and breeds

because they are well-adapted and allowed a

stable low yield and appropriate management

(nutrition management, density and

protection); Appropriate proportion of hybrid

varieties; Intercrop annual crops with

perennial plants (rice, mung bean with

cinnamon; cassava with acacia); improve

animal health care and feeding.

Marketing aspect

Enable the local people to bargain with

traders to improve the sale price of their

products and promote their role in chain

values of these products.

Suggested models

1. Sustainable intensification of upland rice

by intercrop rice with mungbean and local

cinnamon.

2. Improved bananas plantation by planting

and protection techniques to improve

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 109: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đỗ Thị Ngọc Oanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 103 – 106

106

quality, various planting time to have

various maturity time.

3. Intercrop cassava with acacia where road

assess is possible.

4. Improve local chicken and pig production

to improve value of cassava and maize.

5. Forming farmer group to market

mungbean, banana and cassava.

An example of diversify income

Hồ Thị Hiếu, in the Second village, Trà Mai

commune took advantage of living near Nam

Trà My town to generate a cash flow from

upland as follows:

Weekly income was 50.000

VND/week/harvest from summer vegetable

(rau ngot).

Monthly income was 200.000 – 300.000

VND/month/2-3 harvests from banana (50%

sale to collector, 50% sale at local market);

Seasonally income was 200.000-300.000

VND/season from fresh sticky local maize.

Yearly were 200.000 VND/ year/about

1000 m2 from jackfruit and 1.5 – 3 million

VND/year from leaves for Tet cake cover.

REFERENCES

[1]. Quang Nam Department of Rural and

Agricultural. 2010. Report on implementing

integrated funding in 135 areas.

[2]. Tra Tap People Committee. 2010. Report on

agricultural production of Tra Tap commune.

[3]. Sciortino R.; Forester. A. F.; Sudsawasd S.

and Aungsumalin S. 2008. Study on enhancing

upland food secretary and crossboder agricultural

production supply chain in the GMS. MIDAS

Agronomics Company Limited. Thailand.

TÓM TẮT

HỆ THỐNG TRANG TRẠI CỦA NGƢỜI NGHÈO TẠI KHU VỰC MIỀN NÖI

TỈNH QUẢNG NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP

Đỗ Thị Ngọc Oanh*

Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên

Vấn đền an ninh lƣơng thực đƣợc ƣu tiên hàng đầu đối với ngƣời nghèo ở khu vực miền núi thuộc

tỉnh Quảng Nam. Cây lƣơng thực chủ yếu ở vùng cao là lúa, sắn và chuối; ở khu vực vùng thấp là

lúa và sắn; trong vƣờn nhà là mít; trong rừng là cây keo và quế. Các giải pháp để đảm bảo an ninh

lƣơng thực và thu nhập ổn định cho ngƣời nghèo là cải tạo nông nghiệp vùng núi thông qua đa

dạng hóa cây trồng, “cây ngắn ngày giúp nuôi cây dài ngày”, vấn đề thâm canh bền vững các

giống cây, con bản địa và việc bắt buộc ngƣời dân địa phƣơng tham gia vào chuỗi giá trị hàng hóa

của chuối, sắn và đậu xanh. Các mô hình khuyến cáo đối với khu vực miền núi là gối vụ lúa với

đậu xanh và quế; gối vụ sắn với keo; đối với vùng thấp là thâm canh sắn, thâm canh chuối và ngô

lai; đối với vƣờn nhà cải tạo sản xuất chăn nuôi gà và lợn.

Từ khóa: Người nghèo, nông nghiệp vùng cao, an ninh lương thực, Gạo ngược,Quảng Nam

* Tel: 0168.670.2448;Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 110: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 - 122

107

DRIVING FORCES OF LAND-USE CHANGE IN NGOC PHAI COMMUNE,

CHO DON DISTRICT, BAC KAN PROVINCE, VIETNAM (1990-2005)

Dam Viet Bac, Dam Xuan Van

*

Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry

SUMMARY The study was conducted at the Ngoc Phai Commune, Cho Don District, Bac Kan Province,

Vietnam. The aimed to determine land-use changes (LUCs) and their driving forces for the last 15

years (1990-2005) of Doi Moi (renovation) ra in the mountainous region of northern Vietnam. The

proximate (direct) driving forces of land-use change include wood extraction and slash-and-burn,

shift in agricultural expansion, cattle ranching, demographic factors, biological factors (soil

degradation) and physical factors (slope, elevation and distance from location of LUCs to the main

road). In contrast, the underlying (indirect) driving forces of LUCs were Land Allocation Program

1992-1997, Five Million-Hectare Forest Restoration Program 1998-2010, Land Law 1993,

Market-driven and Financial Aids in Forest Development. During the first period (1990-1998), the

implementation of the forest allocation program became in allocated forest areas. Unfortunately,

high rate of forest disturbance happened in the unallocated areas. During second period (1998-

2005), after implementation of the land allocation program, market-driven and technological

change created different effects on both gain of forest area and loss of forest areas. This period

marked a strong economic transformation on agricultural production activities (shift in agricultural

sector) and supports from government‟s program. However, the forest protection and management

seemed to be less effective compared to the first period, during land allocation implementation.

Keywords: Driving forces, land use change, mountainous region, northern Vietnam

INTRODUCTION*

According to estimates by the United Nations

Development Program (UNDP), forest area

declined from 43% of total land area in 1943

to 23% in 1995. However, forestland

coverage recovered to 32.3% in 2000 and

36.7% in 2004, due to active afforestation and

reforestation efforts, especially in the

northeast and northwest regions of the

country (MARD, 2006). Almost five million

hectares of forest were lost in Vietnam from

1943 to 1997. Population increased from 27

to 79 million between 1945 and 2001. At

present, about three quarters of the population

are engaged in agricultural production,

thereby generating a massive demand for

land. This demand will continue to rise as

population is projected to increase to 123

million in 2030. The fast growing rural

population, among the highest in South-East

Asia, puts high pressure on land-use

stemming from a need to expand and

* Tel: 0982166696; Email: [email protected]

intensify agricultural production. At the same

time, the Vietnamese government is

attempting to restore forest cover to the level

of 1943 with huge reforestation programs and

changing tenure regimes like the allocation of

forest land to individuals, groups and

communities.

This study aimed to understand the proximate

and underlying causes of land-use changes in

the rural areas of Northern Vietnam uplands

during the past two decades. The result from

this study could be useful in the development

of effective strategies for land-use planning,

land allocation and implementation of

various rural development and resource

management policies.

MATERIALS AND METHODS

Driving forces of land-use change analysis:

The study largely relied on the use of semi-

structured questionnaire and key informants

at village and household levels. GIS analysis

was employed in determining the driving

forces of land-use/land cover change, whether

direct or indirect (Figure 1.)

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 111: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 – 122

108

RESULTS AND DISCUSSION

The following discussion shows the

proximate (internal factors) driving forces in

the dynamics of land-use change.

Proximate or (Direct) Driving Forces

The context of land-use-change in Ngoc Phai

commune was greatly affected by the national

renovation policies. Change in national

political economy impacts indirectly the

commune through time, which is closely

linked to evolution of forest and land-use

concerns.

Wood extraction and slash-and-burn.

Results of the survey show that at the beginning of forest land allocation program implementation (1992-1997) in the study site, there are still 60 cases of illegal logging which is equivalent to 360 m

3. This explains

that at the beginning of implementation period of the program, the effect is not always feasible. After the implementation of the land allocation program, illegal logging was still practiced. This could be attributed to weak management of forestry guards, forestry managers, and perceptions of local farmers.

According to Sikor (2001), the period since the implementation of forestland allocation program showed a slight increase in overall forest cover. However, the superficial successes of the land policy hide the deeply destabilizing effect it had on shifting cultivators. Findings of the research show that after the land allocation program and forest protection contract have been implemented in the study site. The commune has marked achievements and gained a lot of success in forest management and protection. Result also shows that the number of illegal logging cases was reduced sharply during this time (from 60

cases during 1990-1998 to 28 cases) and slash-and-burn cases were reduced from 20 cases to only 9 cases during 1998-2005 (Table 1).

Findings of the study are in agreement with

that of Castella et al. (2006). He found that

majority of villages (70%) occupied by Tay

people with abundant paddy fields were able

to secure individual ownership, sloping land

and intensified paddy production. However,

the Dao group, who were deprived of paddy

fields because of Tay people who claimed

these areas as ancestral lands. Hence, the Dao

ethnic group has limited paddy land and has

no choice but to engage in shifting

cultivation.

Cattle ranching. Livestock husbandry has

been increasing in Vietnam in recent years. In

the period 1995-1999, the number of cattle

has increased from 3.6 to 4.0 million while

the buffalo population remained steady at 2.9

million. Among the factors propelling this

expansion in Cho Don district, Bac Kan

province are the growing population and

growing demand for beef in urban areas as

well as an increase in the use of cattle as a

form of capital because of increasing land

scarcity (SAM Program, 2003). The northern

mountains offer good conditions for livestock

production and this was why in 1994 more

than half the buffalo population was located

there. Livestock are almost an ideal cash crop

for the uplands because they fill an empty

niche in swidden systems; livestock fodder is

available in fallow plots and secondary

forests. Some upland regions have a

reputation for high value cattle products.

Table 1. Wood extraction and slash-and-burn cultivation as driving forces of land-use change

CAUSES 1991-1997 1997-2005

1. Illegal logging

+ Case 60 28

+ Forest products damaged (m3) 180 100

2. Slash and burn cultivation

+ Case 20 9

+ Damage forest area (ha) 60 20

* Source: Bac Kan Forest Governance Department and Field Survey

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 112: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 - 122

109

Figure 1. Framework for driving forces of forest land-use change analysis

The forest provides a large source of income

for Hmong farmers. Bac Kan province offers a

good source of fodder and space for raising

buffalo, which are traded not only throughout

the delta regions but also to Laos and Thailand.

The Mountain Rural Development Program

suggested that there is a need to reserve some

open areas for production of fodder for cattle

production, especially in more remote areas

where animal production is a major income

generating activity (MARD, 2001).

There is some evidence linking the growth of the livestock sector to the elimination of

forest cover in the northern uplands. Researchers in the SAM Program (2003), on the basis of a case study in Cho Don district, Bac Kan province in northern Vietnam, explained that the rapid growth in the herd of large ruminants (cattle and buffalo) has put

unsustainable pressure on forest cover. The steep increase in the number of larger ruminants (buffalo and cattle) has created a threat to sloping land and forests.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 113: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 – 122

110

The transition from collective herd

management to management by individual

households has led to free-grazing practices

on both the lowland and hillsides, resulting in

an increased number of disputes between

farmers. Livestock owners returned to this

traditional practice because individual

households did not have enough labor force to

tend a few head of livestock all year round.

Based on interviews with the farmer-

respondents, this is mostly due to the need to

mobilize cash to purchase rice and fill in the

food gap caused by reduced upland rice

production. Buffalo populations have

increased in recent years with 457 herds of

buffalo in 1990, 690 herds in 2000 and 1, 133

herds in 2005. Herds of cow increased by

132 herds in 1990, 140 herd in 2000 and 272

in 2005 (Ngoc Phai People‟s Committee

|Report, 1990; 2000; and 2005). In other parts

of upland Bac Kan, livestock production is

currently increasing, which may be explained

by the growing demand from the lowland

market, driven by the extremely rapid

development of the Vietnamese economy.

Shift in agricultural expansion. Forestry

land allocation and protection contracts have

much effect on village land and tree tenure.

The question is what if no forest land

allocation policies, and then what factors

caused the increase in forest cover during

1998-2005 in the research site? The answer

was laid in the broader dynamics of land-use

and the ways in which changing market and

technological opportunities affected

agricultural production and expansion.

Market expansion and newly available

technologies motivated the people in the

village to have two options of shifting: a shift

in rice production from swidden to wet-rice

fields and a change in cash cropping from

cassava to corn.

After 1998, swidden area dropped sharply due

to the effective implementation of the land

allocation policy. A rough estimate of labor

productivity of swidden and wet-rice

production indicate that this increase was not

likely due to farmers‟ spontaneous switch

from swidden to wet-rice production. The

“Cropping System” component of SAM

Project designed innovative cropping systems

adapted to these local conditions. A large

range of low-input alternatives to slash-and-

burn practices was tested in farming

conditions. The advantages and constraints of

these technical innovations were documented

and made available to users through different

methods such as demonstration plots, decision

support systems, and participatory

simulations. An action-research framework

aims at facilitating a large diffusion of the

proposed innovations.

Shift in rice cultivation area. During 1998 to

2005, expansion of irrigation systems and use

of high yielding wet-rice varieties played an

important role in changing rice production in

the research site. Change in macro-policies

(e.g., rural road development, subsidized of

seeds and micro-credit), enabled upland

farmers to have access to high yielding wet-

rice cultivars, which were only available in

the lowlands. The average productivity of

paddy increased from 2.5-3 tons/ha in 1990 to

5–6 tons/ha in 1993 and 7-8 tons in 2000. In

addition, de-collectivization, the privatization

of land-use rights and market liberalization,

provided incentives for farmers to invest in

the expansion of wet-rice by building more

terraced fields and constructing small

irrigation systems with earth canals and

bamboo water pipelines. The Government

also financed new irrigation dams and

consolidated old ones. However, physical and

financial constraints of many farmers caused

low adoption rates of improved wet rice. In

1995, new wet rice varieties were only

planted in the communes located near along

the main roads of commune with elevation

range from 300 to 600 masl.

Shift from cassava to hybrid corn. Changing

markets and technologies also motivated a

shift in cash cropping from cassava to corn.

Markets for agricultural output rapidly

expanded in the late 1990s. Traders began to

arrive in larger numbers in search of

agricultural crops to satisfy the demand for

animal feed in the lowlands. Prices offered

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 114: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 - 122

111

became increasingly favorable to corn. Corn

prices rose against cassava with the

availability of new corn varieties. They

allowed corn yields to triple within a few

years, without the use of fertilizer and

pesticides. By 1993, the returns for corn

cropping exceeded those of cassava

cultivation: 1 labor day produced an

average return of VND 20000 in corn

production, compared to VND 15000 in

cassava. In addition, corn output was more

secure since the cropping period for corn

was much shorter.

Overall, changes in markets and available

technologies changed the relative costs and

benefits of agricultural crops. In response,

rice production shifted from swiddens to wet-

rice. Corn replaced cassava as the major cash

crop. The shift in land-use reduced the

demand for land, as wet-rice and corn

production took place on permanent fields.

They required smaller area of land for

cultivation, as villagers had previously rotated

swidden rice and cassava fields and reduce of

pressure on land. As a consequencet, forests

quickly regenerated in Ngoc Phai, as in the

whole of Bac Kan, given the favorable natural

growth conditions. The expansion was due to

an increase in open-canopy forest. Closed-

canopy forest remained unchanged. Forests

grew back and the actual area under

cultivation expanded.

Shift in sustainable agro-forestry models in

upland area. In the study site, An Thi Huong

(2002) assessed the economic value of

different agroforestry models in Ngoc Phai

commune and found that from 20 surveyed

households, there were 41 typical

agroforestry models with a total of 18.61 ha.

Of which, the model of cinnamon combined

with upland rice accounted for 3.10 ha

(16.67%), followed by cinnamon combined

cassava 1.92 ha (10.32%) and smallest area

models was Manglietia combined cassava,

accounted for 0.90 ha 4.84% .

Similarly, results show that the comparison of

economic value among of agroforestry

models affected the implementation of

forestland allocation and market during

renovation era in the study site shifted and

expanded., applied technologies like (SALT)

for economic purposes and reduce poverty.

This is one of the positive factors, which

contribute in reducing pressure on forest

resource.

Demographic Factors

Population dynamics and density. In the

uplands of Northern Vietnam, increasing

population pressure combined with

privatization of the economy, land

redistribution and political reforms were the

main driving forces behind the rapid and

profound land-use changes which occurred

during the past decades. Lowland areas are

now saturated while the development of non-

sustainable agricultural practices on the

hillsides endanger the fragile upland

ecosystems. These recent trends in land-use

changes demand for new production

technologies that would spare the natural

resource base while meeting the increase in

food needs (SAM, 1998). According to the

Asian Development Bank the main causes of

deforestation in Vietnam have been

population-driven, demand for forest products

and agricultural land and logging of large

tracts of forest by State Forestry Enterprises

(ADB 2000).

Since 1993, the implementation of Resolution

No. 04-NQ/HNTW(Population and Family

Planning) dated 14/01/1993 of Vietnamese

Communist Party played an important role in

the socioeconomic development of

individuals, households and the entire society.

Ngoc Phai commune marked a great

achievement in population control. The total

population in 1990 was 312 households (1858

people), 377 households (1991 people) in

1995, 421 households (2095 people) in 1998,

443 households (2117 people) in 2000, and

497 households (2227 people) in 2005. The

rate of population growth increased by 7.15%

between 1990 and 1995, increased by 6.32%

between 1995 and 2000, and increased 5.19%

between 2000 and 2005. In 15 years,

population growth in study site increased by

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 115: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 – 122

112

19.86%. This clearly shows that an increase

population means an increase for food

demand, hence, population control should be

encouraged and lessen its impact to land-use

change.

Results show that the population density varied in each of village (Table 2). Despite the remarkable achievement in population control in the study site, there are still more than 30% of households living below the poverty line in 2005.

With the current situation on population density and population growth rate in the commune, it could not be considered as the main cause of decline in forest area. Differences between ethnic groups particularly Tay versus Dao ethnic groups, brought about land-use change. The Tay ethnic group claimed that Dao‟s paddy fields were their ancestral lands. This is in agreement with the findings of Castella et al.

(2002) on the declining role of ethnicity in farm households differentiation in Ngoc Phai.

Other Factors

Biological Factors

Soil degradation. Results of this study show

that changes in soil fertility over time may

have affected a farmer‟s land-use decision to

incorporate erosion control measures into an

existing system or to adopt a new land-use

system in the area. Possible causes of change

in soil fertility included the application of

fertilizers, insecticides and herbicides, erosion

and climatic changes, and slash-and-burn

cultivation. In the sloping upland areas,

erosion is considered one of the main causes

of soil fertility reduction. Farmer-respondents

reported their perception about the changes in

the soil fertility of their parcels. Interview

results are presented in Table 3.

Table 2. Population dynamics and its density in Ngoc Phai commune, 2005

VILLAGE AREA

(HA)

AREA

(KM2)

POPUALTION DENSITY

(PERSONS/KM2)

HOUSEHOLD NUMBER

(PERSONS)

Ban Cuon 1 378.527 3.785 104 83

Na Tum 389.632 3.896 83 71

Phieng Lieng 1 368.141 3.681 55 47

Ban Cuon 2 613.225 6.132 49 62

Ban Om 566.682 5.667 45 63

Ban Dieu 741.593 7.416 47 80

Phieng Lieng 2 416.764 4.168 44 41

Coc Thu 699.014 6.990 31 53

Source: Field survey, 2006

Table 3. Farmers‟ perceptions on change in soil fertility

FREQUENCY

ALL CASE UPLAND RICE CASSAVA AGROFORESTRY MAIZE

No. of respondents 83 28 20 10 25

% (100.00) (100.00) (100.00) (100.00) (100.00)

Changes in soil fertility

No change 17 3 6 3 5

% (20.48) (10.71) (30.00) (30.00) (20.00)

Decreased 55 22 17 1 15

% (66.26) (78.57) (70.00) (10.00) (60.00)

Increased 15 1 3 6 5

% (18.07) (3.57) (15.00) (60.00) (20.00)

Source: Field survey, 2006

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 116: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 - 122

113

Physical Factors

Arcording to Dam Viet Bac‟s master thesis

(2007), the land use change of Ngoc Phai

commune from 1990 – 2005 indicated as

following:

Period 1990-1998. The total area of forest

degradation was 199.31 ha. Of which, the

highest percentage of forest degradation

happened at slope 250-35

0, accounted for

37.10% (74.02/199.31 ha) of total areas of

forest loss, followed by 34.80%

(69.36/199.31 ha) at slope 150-25

0, 15.50%

(30.93/199.31ha) at slope 350 and above.

During this period, forest degradation

happened mainly at elevation range 400-800

masl with following proportions: 19.00%

(37.89/199.31ha) of total area of forest

degradation at elevation 400-500 masl,

31.70% (63.14/199.31ha) at elevation 500-

600 masl, 28.30% (56.37/199.31 ha) at

elevation 600-700 masl, and 15.20%

(30.31/199.31ha) at elevation 700-800 masl

In terms of distance, the highest percentage

of forest degradation during this period, was

20.40% (40.57/199.31ha) at the distance 500-

750m to the main road, followed by 11.20%

(22.39/199.31ha) at the distance 750-1000m,

10.30% (20.58/199.31ha). A 9.00% to

9.80% of total areas of forest degradation

occurred at the distance 250-500m, 1500-

1750m, 1750-2000m, and 2250-2500 m.

Over a period of eight years, results reveal

that the total area of forest restoration was

108.30 ha. Of which, 43.50 % (47.11/108.30

ha) at slope 150-25

0, 35.60% (38.57/108.30

ha) at slope 250-35

0, 12.50% (13.58/108.30

ha) at slope 00-15

0, and only 8.30%

(9.04/108.30 ha) at slope 350 and above.

In addition, forest restoration occurred mainly

at elevation 400-700 masl with a ratio:

34.10% or (36.94/108.30 ha) of total area of

forest increase at elevation 400-500 masl,

33.00% (35.714/108.30 ha) at elevation 500-

600 masl and 19.50% (21.17/108.30 ha) at

elevation 600-700 masl.

In terms of distance, forest restoration areas

increased remarkably with 24.90%

(26.96/108.30 ha) at distance 250-500m,

followed by 20.00% (21.64/108.30 ha) at

100-250 m distance and 18.3%

(19.84/108.30ha) at 500-750m distance.

Period 1998-2005. The total area of forest

degradation was 625.47 ha and occurred

mainly at slope 150-25

0 and 25

0-35

0. There

was 36.40% (227.83/625.47 ha) of the total

area of forest degradation at slope 150-25

0 and

37.10 % (232.06/625.47 ha) at slope 250-35

0 .

Considering elevation, forest degradation, the

highest percentage of forest degradation was

31.70% (198.30/625.47 ha) at elevation 500-

600 masl, followed by 29.50%

(184.37/265.47 ha) at 400-500 masl, 16.20%

(101.52/265.47 ha) at elevation 600-700 masl,

and 9.40% (58.81/265.47 ha) 700-800 masl

elevation.

It is interesting to note that forest degradation

happened on the same percentage of forest

loss area at the distance 250-500m and 500-

750m with 19.10% (119.582/265.47 ha). At a

distance of distance 1250-1500m, 9.60%

(60.25/625.47 ha) and 8.80% at distance

1500-1750m, and 8.90% of the total area of

loss was at 100-250m distance.

Over a period of seven years, the total forest

restoration area was 657.94 ha. Of these,

37.90% (249.40/657.94 ha) at slope 150-25

0,

37.50% (246.64/657.94 ha) at slope 250-35

0,

14.70% (96.43/657.94 ha) at slope 00-15

0, and

10.00% (65.47/657.94 ha) at slope 350 and

above.

Forest restoration happened mainly at

elevation 400-800 masl, with the following

ratios: 27.30% (179.00/657.94 ha) at 500-

600 masl, followed by 24.00%

(158.05/657.94 ha) at 600-700 masl, 23.50%

(154.41/657.94 ha) at 400-500 masl and

11.40% (74.93/657.94 ha) at an elevation of

700-800 masl.

Distance-wise, high forest restoration

occurred at 250-1250 followed by 5.90%

(104.33/657.94 ha) at distance 250-500m,

13.60% (89.80/657.94 ha) at 500-750 m,

13.00% (85.60/657.94 ha) at 750-1000 m,

and 10.5% (69.29/657.94 ha) at 1000-1250 m

distances.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 117: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 – 122

114

Underlying or (Indirect) Driving Forces

Conceptual approaches for analyzing land-use

change and identifying driving forces were to

emphasize on national forest and land law,

land tenure policies during the past 2 decades

as external factors to dynamic of land-use

change to local context.

Institutions and Related Policies to Forest

Restoration

At the Sixth National Congress in December

1986, the Vietnamese Communist Party

announced the adoption of movements

towards a market-oriented economy, which is

called Doi Moi (renovation). Vietnam‟s

economic transition was a relatively smooth

period of structural adjustment and

stabilization. Forest policies, other relevant

policies, legislation agencies and policy

enforcement bodies are major factors that

influenced forest restoration in Vietnam and

play an important role in the positive land-use

change. These are the underlying driving

forces of land-use change in mountainous

regions of Northern Vietnam in general, and

Ngoc Phai, the study site, in particular.

Institutional framework. The organizational

structure of Vietnam‟s forest sector has four

administrative levels: the central (national),

provincial, district and commune levels. At

present, Vietnam has 64 provinces and cities,

about 600 districts and 10,000 communes. All

administrative levels are under the control of

the State.

At the central level: The Ministry of

Agricultural and Rural Development

(MARD) is responsible for forest sector

administration, including special-use and

protection forest management. The Forestry

Department and Forest Protection Department

are MARD‟s agencies tasked with forest

administration. MARD reflected at province

level through a Department of Agriculture

and Rural Development. Additional public

service agencies involved in the forest sector

are the Forest Inventory and Planning

Institute (FIPI) and the Forest Science

Institute of Vietnam (FSIV). The National

Forestry University and the Forestry

Extension Division are attached to the

Agriculture Extension Department.

At the provincial level: The People‟s

Committee is responsible for contracting

households to manage forestland. There are

two-forest administration agencies under the

control of the Provincial People‟s Committee

(PPC). The first of these is the Department of

Agriculture and Rural Development (DARD),

in which the Forestry Sub-Department

operates as a specialized agency to assist the

Director of DARD in forestry activities. At

present, Vietnam has 34 Forestry Sub-

Departments with a total 530 employees. The

second is the Forest Protection Sub-

Department (FPsD), which serves to advise

the province about forest protection. It can

also enforce the Forest Protection and

Development Law. Presently, there are 59

FPsD with a total of 1,300 employees.

At the district level: The corresponding

“divisions” are often combined with other

technical units, the Economics Division on

Agriculture and Rural Development is under

the control of the District People‟s Committee

(DPC) and employs one or two forestry staff

responsible for monitoring forestry activities.

A Forest Protection Unit (attached to FPsD)

operates in a certain districts. Vietnam

presently has 424 Forest Protection Units with

a total of 3,500 employees.

At the commune level: There is a Forestry

Board under People‟s Committee and

regulated by the Forest Protection and

Development Law. However, because of

budget constraints, most communes have so

far failed to employ any commune forest

staff. Where they operate, Forest Protection

Units assign one forest ranger to work in one

commune/commune group.

At the hamlet‟s level: This is under the

jurisdiction of communes, but they are not a

state administrative level. They function,

however, as autonomous organizations,

combining several communities in a single

hamlet. Heads of hamlets are selected by the

local people and are recognized by commune

authorities. Hamlet heads act as people‟s

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 118: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 - 122

115

representatives and contact persons for the

commune authorities to communicate with

local people. In some remote and isolated

areas with ethnic minorities, heads of hamlets

function together with village patriarchs who

act as customary leaders.

Extension services are part of the provincial

and district agriculture extension agency.

Since 1993, a network for extension service in

agriculture and forestry has been established

under the Provincial Department of

Agriculture and Rural Development (an

Extension Center) and the corresponding

district units (an Extension Station). The basic

administration structure is now in place at

provincial and district levels, although at

commune, village and hamlet levels, the

system varies greatly in size and quality and

structures are often typically composed of

only five staff.

Forest and other relevant policies (land

reform after renovation policies 1986). The

national context of change in Ngoc Phai

commune has evolved greatly since 1986,

Vietnam has transformed from subsidized

mechanism to market driven or Doi Moi

(renovation era). Changes in the national

political economy impact local community in

the study area through time and motivate a

diversity of responses.

After the first five years (1986-1990) of

implementation of the Doi Moi (renovation)

era, a series of policies and laws in the

agricultural sector, especially concerning

land-use, were issued. The most important

policies were the Land Law (1993) and its

revised versions (1998, 2001), the new Land

Law (2003) and Ordinances 64/CP (1993) and

02/CP (1994) of the government dealing with

the regulation of agricultural and forestry land

allocation. There were also other policies that

were directly related to land issues as well as

supportive policies indirectly related to land

issues.

Forestland allocation. Decree No.

02/CP/ 01/1994 provided for the allocation of

forestland to individuals and households. The

main objectives of allocating forest land to

individuals and households are to involve

individuals and households in the protection

of the forest from fire, theft and

environmental degradation and to promote the

utilization of forest land and the greening of

bare lands with trees by encouraging

individuals and households to participate in

afforestation for economic gains.

A unique characteristic of the Vietnamese

land tenure reform is the allocation of

forestland to individual farmers. Forest lands

and formerly forested areas was allocated to

volunteer farm households on the basis of a

50 years lease under the condition that the

beneficiaries engage in reforestation by

means of tree planting and regeneration

measures. However, the main recipients of

forest allocation processes were still state

organizations.

The major part of individual households,

which benefited from forest allocation,

however, did not receive full management

rights. Under current regulations, forestland

was allocated in two different ways: (1)

allocation of a land-use certificate (LUC)

based on a management agreement (khe uoc)

and (2) assignment of forestland based on a

protection contract (hop dong). The latter

does not allow extraction of firewood or

wood for construction without applying to the

„forest owner‟ represented by the state

organization. Moreover, recipients of a

protection contract are not allowed to

construct a house on the contracted land,

which restricts their customary use rights

considerably. The „beneficiary‟ of a

protection contract receives an annual

protection fee of 50,000 VND per hectare

(around 3 US$), which does not provide a

strong incentive to take measures of

regeneration. Thus, recipients are more likely

to act as forest guardians.

Result of allocation of forest causing

positive forest expansion. In 1994, Decree

No. 64 for agricultural land allocation and in

1994 Decree No. 02 for forestland allocation:

The study site is one of 22 communes of Cho

Don district, over a period of (1992-1997)

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 119: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 – 122

116

where the total area allocated to the

commune was 1,581.54 ha. Of which, 663.28

ha were natural forest and 917.55 ha of non-

forested status areas. Thus, survey result

shows that land allocation program started in

1993 and ended in 1997. Most allocated land

area was monitored and reallocated to local

people due to lack of accuracy and weakness

in allocation land at the beginning stage of the

program. However, forestry on allocated land

is not always a feasible entry point to support

households in developing their farms and

household economy.

Apart from aspects like the access to a market

for forest products, there are also other factors

influencing the attractiveness of forestry. Soil

fertility, size of the land as well as the overall

configuration of forest land and allocated

individual land influence the degree of

difficulties in managing the forestland.

Moreover, poor farmers are usually

disadvantaged in the land allocation process

itself. The argument being that these

households had not enough resources (labour

and capital) to develop allocated forestland.

Besides, there were some areas in the

commune where cutting down of trees by

illegal loggers especially on unallocated area

and some allocated plots far from their

houses.

Findings show that land and forest allocation

to farmers is one of the decisive factors for

the development of household economy in

order to reduce pressure to forest resources.

Until 1996 less than 30% of forestland had

been allocated in Ngoc Phai communes, and

average forest allocated areas in the Cho Don

district was 30%. After 1996, allocation

number of households receiving forestland

significantly increased. Many households

received forestland two to three km away

from their houses. Thus, they had to build a

farmhouse in the forest in order to develop

and protect their farms. In general, forest area

allocated to farmers have been under good

protection and management, and agricultural

and forestry activities have been carried out

on forestland. Especially, with the operation

of extension service and credit scheme agro-

forestry farm based economy has been

adopted among local farmers. For this reason,

pressures on forest resources after land

allocation program implementation in study

area were greatly reduced.

In sum, perception of local people shows that

after receiving allocated land, 95% local

people became enthusiastic about re-zoning

the land in order to better exploit barren hill

lands and establish forest tree plantations. In

this case, forestland allocation not only

inspired people to improve their household

income, but also to overcome landlessness

and poverty. After receiving land, residents

had greater sense of ownership and

channeled their resources into renovating

production methods, seeking and investing in

new technologies and more appropriate forest

tree species, and enhancing productivity and

quality of agroforestry products.

Table 4. Allocated forest area in the villages of Ngoc Phai commune, 1992–1997

VILLAGES TOTAL AREA

(HA)

ALLOCATED FOREST AREA (HA)

NATURAL FOREST NON-FOROSTED

AREA

Phieng Lieng 1 and 2 82.95 17.53 64.71

Ban Cuon 1 246.89 172.09 74.80

Ban Cuon 2 89.05 34.92 54.13

Coc Thu 46.50 27.57 18.93

Na Tum 242.24 110.47 131.77

Ban Om 308.93 174.90 134.03

Ban Dieu 564.98 125.80 439.18

Total 1581.54 663.28 917.55

Source: Forest Governance & Protection Department of Bac Kan Province

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 120: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 - 122

117

Impacts on slash-and-burn practice and

non-optimal exploitation of forest products.

Majority (95%) of the households covered by

the interviews said that deforestation, slash-

and-burn cultivation no longer exists on the

allocated forest land because most of the

forest land has been already managed. In

1996, forest land allocation, forest law

dissemination, sloping agricultural land

technology (SALT) training, afforestation,

fruit tree planting have been supported. Illegal

logging and collection of fuel wood have

reduced considerably, but the problem still

exists in some other unallocated forestlands.

The local people notice that the forest cover

area has increased rapidly.

Impacts on forest plantation and

enrichment, and forest protection. The land

allocation activities have an impact on the

afforestation with high value tree species such

as cinnamon, chukrasia, manglietia. These

tree species grow rapidly and can adapt to

climate and land conditions. Of the total

households applying for loans, 48% used

loans for planting forest and fruit trees. It is

noted from the interviews that 50% of the

households invested in planting forest and

fruit trees and establishing farms. The farmers

have utilized 50-60% of loans to nursery

establishment and purchase of seedlings, 30-

40% to livestock to 10% to other activities.

Findings of this study in agreement with

study of program impact assessment by Dang

Kim Vui and Le Tien Phong (1998).

The survey showed that 263 households used

loans for forest establishment, representing

70% of the total loan takers, 62% invested in

forest enrichment, making up 16.5% of the

overall loan-taking households, while the 179

households took credit to plant fruit trees. The

farmers foresee that afforestation, and forest

enrichment will intensify in the coming years,

for many households are now preparing

seedlings, and digging ditches.

Impacts on the management and protection

of unallocated forests and forestland.

Majority (90%) of interviewed households

said that collecting firewood, logging, and

uncontrolled grazing are common activities in

unallocated forests. It is said that there is

increasing pressure on unallocated forests as

well as on the protection and management of

allocated forests due to the provision of

credit, which makes it possible for some

farmers to buy more cows and buffaloes.

Unallocated forests and forestland are

normally those located on Limestone

Mountains with very steep slope and far from

residential areas. So far no management

solution has been found for these forests and

forestland.

Impacts on household’s income. The

interviews indicated that 28% of loan-taking

households have obtained incomes principally

from raising pork, breeding pig, fish, and egg-

oriented chicken. The income from these

activities averages 24% of one household‟s

total annual income. Ngoc Phai commune‟s

households saw a slight increase in income

from taking loans, used mainly for animal

raising. In communes, the households could

foresee a vigorous increase in future income,

mainly from fruit tree, special tree, and forest

tree planting. The income from such other

activities as the processing of agriculture and

forest products was said to be also going up

but at slower speed.

The farmers showed great confidence in

household economy development through

development of farm-level development of

high economic tree species. Some 67% of

interview respondents said their major

incomes came from fruit, and forest trees.

This is an evidence showed that the land

allocation, though operating for a short time

1992-1997, contributed to households‟

improved incomes.

Five million hectares reforestation program

(5MHRP) 1998-2010. Decision No. 661/QD-

TT dated 29 July 1998, the Tenth National

Assembly of Vietnam approved a new

National Forestry Program, which seeks to

reforest and rehabilitate five million hectares

of forest land. The 5MHRP was carried out

from 1998-2005 (first phase) and 2005-2010

for (second phase), such that by 2010 the total

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 121: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 – 122

118

forest area of the country will reach 14.3

million hectares (equivalent to 43 percent

forest cover). The five million ha is derived

from the calculation that this would restore

forest cover to its 1943 level. In line with this

ambitious target, the GOV and donors agreed

to develop a partnership to support the Five

Million-hectare Reforestation Program

(5MHFP). The 5MHRP showed the

Government‟s Commitment and priority

given to forestry sector and responds to the

Rio Declaration and Agenda 21 that emerged

from the 1992 United Conference on

Environment and Development.

The 5MHRP is designed to achieve the

objectives, set by the Resolution 08 and the

Decision 661, which are very broad and have

extensive cross-sectoral implications. The

5MHRP can be regarded as the latest in a

series of government efforts to promote

reforestation.

Forest land contracts and plantation. As

stated in Decision No. 187, State Forest

Enterprises (SFEs) are required to allocate

and contract forestland under their control to

third parties for long-term use or protection,

in accordance with Decree No.01 CP. In

return, these third parties are entitled to

specify benefits from the main forest

products. With Decree No.200 (2004), it was

decided that forestry companies could select

the most efficient forest and forestland

contracts in accordance with the existing

regulations. In practice, forestland allocated

under long-term contracts accounts for only

31.2% of the land under control of the SFEs,

while 53.69% has already been given out

under annual contracts. The remaining area

has been contracted out on periodical and

work volume bases. In the case of protection

forest, priority is given to contracting

households; especially those that are part of

a resettlement group, poor, or live adjacent

to forests. When accepting a forest

protection contract, households sign annual

contracts with their respective District

Forest Protection Unit, a Program 661

Management Board or an SFE. Payment is

per ha of land under contract.

Regulations set the payment amount for the

protection of one ha of contracted forest at

50,000 VND/year in 2005 (about USD 3), an

amount widely considered to be too low. Per

ha payments made under plantation contracts,

however, are much higher. Sikor and Truong

(2001) recorded such payments during the

second half of the 1990s at 1.7 million VND

but contracted households spent about VND

700,000 to buy seedlings. Final payment

depends on the number of surviving trees

after one year.

During the initial years, people can plant

alternative crops together with the tree

seedlings. Nguyen (2001) estimated that the

VND 1.7 million payments only accounted

for 60% of the total expenses of about USD

300/ha. Reports suggested that tree plantation

contracts are gaining popularity across

country.

Survey result shows that a total of forest

plantation areas of commune were 70.22 ha in

1990, 120.07 ha in 1995, 142.89 ha in 1998

and 192.79 ha in 2005. 11.8 ha forests were

planted for pulp materials, accounted for

2,950 trees with 68 participated households.

And continue to investigate forests under

project 661 having 682 ha and 119

participated households for manage and

protection of forest through forest contacts.

Enriched forest with 46.23 ha, protected

582.312 ha, harvested 250 tons of toothpick

materials and other wood 150 m3.

Land Law of 1993. A new Land Law was

enacted in July 1993, which became effective

October 14, 1993. The new law provides for

the allocation of land to organizations,

individuals and households for long-term and

stable use. The period of land allocation is 20

years for annual crops and 50 years for other

perennial crops and forestry. The tenure can

be renewed on expiry, if the land-users need

to do so and if they have used the land

properly according to law. All land-users will

be given land-use right certificates (LURCs).

In addition, Decree No. 64, which the

Communist Party (CP) issued in September

1993, and Decree No. 02 (issued on 15

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 122: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 - 122

119

January 1994) have provided measures for

regulating the allocation of agricultural land

and forestland respectively.

The government passed an ordinance on 15

March 1994 for the regulation of land-use

above specified ceilings. All these measures

are intended to create a land tenure system

that will be conducive for sustainable

agricultural and rural development.

The Land Law of 1993, a comprehensive land

administration law, states that land belongs to

the people, with the State as its sole

administrator, reserving the right to allocate

land and determine its usage. Every commune

is required to keep up to 5 percent of its

agricultural land for welfare or public benefit.

The State maintains the land-use

classification system, which determines land-

use, which helps to preserve scarce

agricultural land. The State also determines

the value of land for purposes of taxes and

compensation. The Land Law clarifies the

rights of people to use and transfer real

property and assets, based on certificates

issued by local government. Families and

individuals who have been allocated land

have the right to exchange their land, transfer

the use rights to others, rent the land for a

period of three years, bequeath it or use it as

collateral. Use rights are generally renewed

after 20 or 50-year periods.

These provisions effectively required the state

administration to allocate all land to specific

owners and, with the granting of the land-use

certificate (LUC), to transfer responsibility

for land management to individual

households, groups, organisations and

institutions. This policy thus implied a

substantial disengagement of the State from

the task of managing the country‟s land and

forest resources. At the same time, the State is

assuming the responsibility to carry out the

required land administration procedures and

to provide assistance to the land-users with

regard to proper land management and

protection.

Land policies that distribute land to

individuals and assign LUR (i.e., some degree

of private property rights) allow the

development of land markets that can bring

about an efficient allocation of resources,

given certain conditions. Because well-

defined and enforceable private property

rights are one of these necessary conditions,

efficient allocation of resources depends on

the nature of prevailing property rights

(Perman et al 1999).

In 1998, the government announced

amendments to the Land Law, which divided

land into six categories: forest land,

agricultural land, rural residential land, urban

land, special land and unused land. Forestland

was divided into forested land and non-

forested land planned for reforestation. The

1998 Land Law makes a distinction between

"plantation forest" and "natural forest"

(MARD, 2001). The 1998 Land Law

amendment allows organizations, but not

individuals, to use the value of timber

growing on allocated forest land for

mortgages. Organizations can also use the

land as capital contribution for forestry joint

venture projects.

The land tenure right. The Land Law in 1993 confirmed the 1991 Law on the Protection and Development of Forests on the transfer of responsibilities for land from the State and collective organizations to non-state/collective entities. The State retained regulatory and monitoring functions. As part of its revised land-used policies, the GOV has adopted a system of land-use planning and land-use certificates for both agricultural and forest land. Individuals, cooperatives, state-owned enterprises (SOEs) including state forest enterprises (SFEs) and other entities can obtain either provisional or permanent land-use certificates, respectively called “green books” and “red books”. Some land that was previously managed by cooperatives and SOEs is being reallocated to individual households. Land-use certificates can be issued for 20 years for annual crops (agricultural land) and 50 years for perennial crops (forest land). As of 1999, land-use rights had been allocated for almost 86 percent of agricultural land but relatively little forestland (9.8 percent) (MARD, 2001).

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 123: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 – 122

120

In the study site, land-use certificates were

granted to households with a total of 31.66 ha

and 440.00 land-use certificates (LUC). (Table

5). On this LUC showed that state allocated

rights of land-use to households with

permanent use on residential and garden land.

Financial aids in forestry development.

Since Vietnam has implemented to transform

from a subsidized central mechanism to a

market economy, there were a lot of financial

aids from donors in order to shift in forest and

agricultural development.

Under resettlement program 1990-1996.

Ngoc Phai commune was granted

448,270,000VND. Of which, the grant money

was 408,570,000VND and 39,700,000VND

granted without interest fee, with supporting

purposes of producing activity

195,170,000VND, 210,820,000VND for

infrastructure construction, 42,000,000VND

for local people support and 0,28 million

VND for administration fees. (Report of

General Project of Resettlement and New

Economics Zone Development, 1998-2010,

Cho Don, 1998).

Under the Vietnam-Finland forestry sector

cooperation program, 1997. There were

243/376 households received 417,547,500

VND credit (average 1,718,320 million VND

per household) in order carry out planned

activities in allocated forestland. Most

farmers have been able to pay the interests

without major problem, and some farmers

have already started to pay back the loan,

even before the maturity. The farmers have

utilized 50-60% of loans to nursery

establishment and purchase of seedlings, 30-

40% to livestock to 10% to other activities

(Technical Report No. 15, Department of

Agriculture and Rural Development of Bac

Kan Province).

Vietnam Bank for the Poor (VBP). The

volume of the Vietnam Bank for Poor (VBP)

loans on 31 December 1996 was 395 million

VND, of which loans for the poor was 195

million VND. Number of borrowers was 197.

The outstanding loan for the poor was 29.5

million VND in Na Tum village and 6.5

million VND in Coc Thu village.

Program VIE-508 of CIDSE. In Ngoc Phai

commune, Na Tum village, the outstanding

loan in 1996 was 3.5 million VND for 13

households of the total number of 56

households in the village.

The Vietnam - France program. The

outstanding loan of Ngoc Phai commune was

VND 18 million in 1996. The credit scheme

of the Program aimed at making the farmers

to see investments in the forest area as a

profitable alternative for upland forest

harvesting or conversion of forestland to

agricultural land. The possible investment

included various production alternatives: from

more or less traditional timber growing to

agro-forestry (silvo-pastoral and apicultural

activities and production of non-wood forest

products (NWFP) as well as integration of

fruit and spice producing tree. The right to

use forestland has been recently given to

households.

Table 5. Number of land-use certificates (red book) and its distribution in Ngoc Phai villages, 2001-2004

VILLAGES ALLOCATED AREA

(HA)

NUMBER OF LAND-USE

CERTIFICATE (SHEET)

Phieng Lieng 1 3.27 36

Phieng Lieng 2 2.13 43

Ban Cuon 1 5.29 68

Ban Cuon 2 4.08 55

Coc Thu 3.71 43

Na Tum 5.75 72

Ban Om 2.84 51

Ban Dieu 4.58 72

Total 31.66 440

Source: People’s committee of Ngoc Phai Commune

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 124: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 - 122

121

The households perceived the need to afforest, conserve and enrich the given forest land, in order to earn income from it. As a result, the demand for forestry financing is increasing.

In summary, the supply of financing for forest sector development has not met the demand. The support from the government budget is mainly aimed at improving the dilapidated infrastructure. Subsidized credit from the VBP has been provided mainly for solving poverty problems. Self-accumulated capital is limited in the district. There are only few households who have invested in the use of forestlands, mainly by planting fruit trees (orange, mandarin, apricot), pineapple or special trees (cinnamon, anise).

CONCLUSIONS

This study sought to determine the Driving Forces of Forest Land-Use Change during Doi Moi (renovation) era in Ngoc Phai commune, Cho Don District, Bac Kan Province, Vietnam (1990-2005).

Macrodrivers or (proximate causes). These include the wood extraction and slash-and-burn practices, cattle ranching, and shift in agricultural expansion.

Microdrivers or the (underlying causes). These consist of the indirect factors that affect forestland-use change such as Land Allocation Program 1992-1997, Five Million Hectare Forest Restoration 1998-2010, Land Law 1993, Financial Aids in Forest Development, and Market conditions, bio-physical, demography.

Overall, the study found the following:

- Change in policies and market conditions are the major factors that could explain the rapid changes in forest land-use in Ngoc Phai.

- The institutional and market driving forces have not only led to rapid deforestation (forest conversion) due to the expansion of agricultural but have affected the commune‟s cropping pattern.

- National policies are active promoters of forest land allocation to individuals, households, communes and other economic organizations. These affect the improvement forest and land management, give local people a better land-use right and ensure protection of forest resources.

- The most positive environmental impact is the reduction of the slash-and- burn activities. Forest plantations and sustainable agro-forestry systems with high productivity and soil conservation ability have been established in exchange.

- The areas covered by new plantation have increased as a result of forest enrichment and restoration activities.

- Land-use certificates were granted to most of individuals and households who qualified with the necessary conditions for granting land-use right.

- Grazing posed a big problem to the production activities in the local area. Farmers released buffaloes and cows and completely destroyed their farms.

- Timber cutting in unallocated areas remained and farmers refused to receive remote forest areas. Slash-and-burn practices still continue in some places which in the long run, degrade the forests.

REFERENCES

[1.] CASTELLA, J. C. and D.Q. DANG (2002)

Doi Moi in the mountains. Land use changes and

farmers’ livelihood strategies in Bac Kan

Province, Vietnam, The Agricultural Publishing

House, Vietnam. 47–71.

[2.] CASTELLA, J. C, P. H. MANH, S. P. KAM,

L.VILLANO, and N. R. TRONCHEA (2005)

Analysis of village accessibility and its impact on

land use dynamics in a mountainous province of

Northern Vietnam. Applied Geography 25 (2005)

308–326.

[3.] Dam Viet Bac (2007). Forest land-use change

in Ngoc Phai commune, Cho Don district, Bac

Kan province, Vietnam (1990-2005), Msc. thesis,

UPLP Phillipine.

[4.] SIKOR, T. (2001) The allocation of forestry

land in Vietnam: did it cause the expansion of

forests in the Northwest. Journal of Forest Policy

and Economics 2 (2001) 1-11.

[5.] SIKOR, T. and D. M. TRUONG (2002)

Agricultural policy and land use changes in Black

Thai villages of Northern Vietnam, 1952-1997, in:

Mountain Research and Development, 22 (2002)

248-255.

[6.] DANG, K. VUI and L. T. PHONG. 1998.

Programme's impact assessment. Technical

Report No. 15.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 125: Tap 77 - So 1 nam 2011

Đàm Việt Bắc và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 107 – 122

122

TÓM TẮT

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN BIẾN ĐỘNG SỬ DỤNG ĐẤT

TẠI XÃ NGỌC PHÁI, HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN,

VIỆT NAM (1990-2005) Đàm Việt Bắc, Đàm Xuân Vận

*

Trường Đại học Nông Lâm - Thái Nguyên

Nghiên cứu đƣợc tiến hành tại xã Ngọc Phái, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam.

Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các nhân tố ảnh hƣởng chính đến sự biến động sử dụng đất

trong 15 năm qua (1990-2005) của thời kỳ Đổi mới ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Các

nhân tố ảnh hƣởng trực tiếp đến sự thay đổi sử dụng đất bao gồm khai thác gỗ và phát rẫy làm

nƣơng, du canh, chăn thả gia súc, các yếu tố nhân khẩu học, các yếu tố sinh học (đất thoái hóa) và

các yếu tố vật lý (độ dốc, độ cao và khoảng cách từ vị trí của các loại đất thay đổi đến đƣờng chính).

Ngƣợc lại, nhân tố gián tiếp của sự biến động sử dụng đất bao gồm chƣơng trình giao đất 1992-

1997, chƣơng trình năm triệu ha phục hồi rừng 1998-2010, Luật Đất đai năm 1993, tín dụng và tài

trợ trong phát triển lâm nghiệp. Trong giai đoạn đầu (1990-1998), việc thực hiện các chƣơng trình

giao đất rừng đã phát triển trong khu vực nghiên cứu. Tuy nhiên, tỷ lệ phá rừng cao đã xảy ra tại

các khu vực chƣa giao đất rừng. Trong giai đoạn thứ hai (1998-2005), sau khi thực hiện chƣơng

trình giao đất, định hƣớng thị trƣờng và thay đổi công nghệ đã tạo ra hiệu ứng khác nhau trên cả hai

là có đƣợc sự phục hồi diện tích rừng và mất đi của các khu vực rừng. Thời kỳ này đánh dấu một sự

chuyển biến mạnh kinh tế về hoạt động sản xuất nông nghiệp và hỗ trợ từ chƣơng trình của chính

phủ. Tuy nhiên, bảo vệ và quản lý rừng dƣờng nhƣ ít hiệu quả hơn so với thời kỳ đầu tiên, trong

quá trình thực hiện giao đất.

Từ khoá: Các nhân tố, biến động sử dụng đất, khu vực miền núi, miền Bắc Việt Nam

* Tel: 0982166696; Email: [email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 126: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 - 130

123

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA SIMVASTATIN Ở BỆNH NHÂN

ĐÁI THÁO ĐƢỜNG TYP2 CÓ KHÁNG INSULIN

Nguyễn Kim Lƣơng

*

Bệnh viện Đa khoa TƯ Thái Nguyên

TÓM TẮT Mục đích nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trị của simvastatin ở bệnh nhân đái tháo đƣờng

typ2 có kháng insulin.

Đối tƣợng và phƣơng pháp: 185 đối tƣợng nghiên cứu gồm: Nhóm đái tháo đƣờng gồm 145 bệnh

nhân, nhóm chứng gồm 40 ngƣời không đái tháo đƣờng. Đánh giá tình trạng kháng insulin bằng

chỉ số HOMA-IR (HOMA-IR=I0(µu/ml)x G0(mmol/l)/22,5) Sau khi xác định đƣợc 107 ngƣời đái

tháo đƣờng có kháng insulin, đƣa ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm đƣợc dùng Sulfonylurea đơn

thuần và nhóm dùng sulfonylurea kết hợp với simvastatin. Đánh giá hiệu quả của simvastatin

thông qua các chỉ số gluccose, HbA1c, lipid trƣớc và sau 2 tháng điều trị.

Kết quả: Nhóm dùng simvastatin có các thành phần lipid máu trung bình và tỷ lệ trong giới hạn

bệnh lý của các chỉ số: cholesterol, triglyceride, LDL-C thấp hơn, HDL-C cao hơn, hiệu quả của

kiểm soát glucose máu mức độ tốt hơn nhóm không dùng simvastatin: glucose, HbA1c, insulin,

chỉ số kháng insulin giảm, tăng tỷ lệ kiểm soát glucose máu tốt và giảm tỷ lệ kiểm soát glucose

máu kém, với p < 0,05.

Kết luận: điều trị kết hợp simvastatin cho bệnh nhân đái tháo đƣờng typ2 có kháng insulin sẽ làm tăng

hiệu quả kiểm soát lipid và glucose máu.

Từ khoá: Đái tháo đường typ2, kháng insulin, chỉ số HOMA – IR, simvastatin

ĐẶT VẤN ĐỀ*

Đái tháo đƣờng typ 2 có quá trình diễn biến phức tạp sự thiếu hụt insulin và đề kháng insulin đã gây ra nhiều khó khăn cho việc theo dõi, điều trị. Kháng insulin có mối liên quan với những yếu tố nguy cơ nhƣ: béo phì, rối loạn lipid máu tăng huyết áp đã tạo ra một vòng xoắn bệnh lý làm cho sự tiến triển của bệnh đái tháo đƣờng typ 2 ngày càng phức tạp. Điều trị đái tháo đƣờng typ 2, ngoài việc điều trị thuốc giảm đƣờng máu cần phải điều trị phối hợp các yếu tố nguy cơ đi kèm trong đó đặc biệt là giảm triglycerid, giảm LDL –C, tăng HDL –C thì mới mang lại hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho ngƣời bệnh.

Simvastatin là một thuốc điều trị rối loạn lipid máu, thuốc đƣợc chỉ định để làm giảm tổng hợp LDL, giảm cholesterol, giảm triglycerid từ đó giảm nguy cơ biến chứng bệnh tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đƣờng typ 2.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Đánh giá hiệu quả điều trị rối loạn chuyển

hoá lipid bằng simvastatin ở bệnh nhân đái

tháo đƣờng typ2 có kháng insulin.

* Tel: 0982852165; Email:[email protected]

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng nghiên cứu

* Nhóm bệnh: bệnh nhân đái tháo đƣờng typ

2 lần đầu hoặc đang đƣợc theo dõi định kỳ

điều trị bằng thuốc uống hạ đƣờng máu, theo

tiêu chuẩn chẩn đoán và phân typ ĐTĐ của

ADA (American Diabetes Association) năm

1997 và đƣợc WHO công nhận năm 1998.

* Nhóm chứng

Gồm 40 ngƣời khoẻ mạnh không bị mắc bệnh

ĐTĐ, tuổi > 40 tình nguyện tham gia nghiên

cứu để đánh giá tình trạng kháng Insulin ở

nhóm nghiên cứu.

Đánh giá tình trạng kháng insulin bằng chỉ số

HOMA-IR = I0 (µu/ml)x G0(mmol/l)/22,5.

Theo khuyến cáo của tổ chức Thế Giới kháng

insulin đƣợc xác định khi chỉ số HOMA-IR

lớn hơn tứ phân vị cao nhất trong nhóm chứng.

* Chọn bệnh nhân ĐTĐ typ 2 có kháng

insulin ngẫu nhiên vào 2 nhóm:

Nhóm 1: Điều trị Sulfonylurea (nhóm không

simvastatin).

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 127: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 – 130

124

Nhóm 2: Điều trị Sulfonylurea kết hợp

Simvastatin (nhóm simvastatin).

Tất cả bệnh nhân này không dùng thuốc điều

trị giảm lipid máu trƣớc đó một tháng.

Thời gian và địa điểm nghiên cứu

- Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ 3/2010

đến 10/2010.

- Địa điểm: Khoa khám bệnh bệnh viện Đa khoa

Trung ƣơng Thái Nguyên.

Xử lý theo phƣơng pháp thông số y sinh học

bằng phần mềm SPSS 13.0

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Qua nghiên cứu 185 đối tƣợng: Nhóm đái

tháo đƣờng gồm 145 bệnh nhân, nhóm chứng

gồm 40 ngƣời, chúng tôi thu đƣợc kết quả

đƣợc thể hiện trên bảng 1.

Tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân đái tháo đƣờng týp 2.

Chỉ số HOMA-IR đƣợc tính theo công thức của Matthews năm 1985. Theo WHO gọi là có kháng insulin nếu chỉ số HOMA-IR lớn hơn tứ phân vị cao nhất của nhóm chứng (HOMA-IR nhóm chứng đƣợc sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tƣơng ứng với giá trị thứ (0,75×n+1). Theo kết quả nghiên cứu của

chúng tôi tứ phân vị cao nhất của nhóm chứng là 1,48. Nhƣ vậy chúng tôi lấy chỉ số HOMA-IR từ mức ≥1,48 đƣợc gọi là có kháng insulin kết quả thể hiện trên bảng 2 và bảng 3.

Một số thay đổi ở bệnh nhân ĐTĐ typ2 có kháng insulin sau điều trị bằng simvastatin

107 bệnh nhân ĐTĐ typ2 có kháng insulin chúng tôi chọn ngẫu nhiên vào 2 nhóm điều trị, một nhóm dùng simvastatin 54 ngƣời, một nhóm không dùng simvastatin 53 ngƣời kết quả thu đƣợc thể hiện trên bảng 4, 5, 6, 7, 8, 9.

Bảng 1. Đặc điểm tuổi, giới, chiều cao, cân nặng giữa hai nhóm

Đặc điểm Nhóm chứng Nhóm Bệnh p

Tuổi 58,8±8,1 59,2±6,4 > 0,05

Chiều cao 1,66±0,06 1,65±0,05 > 0,05

Cân nặng 62,5±5,3 61,8±6,5 > 0,05

Giới

Nam 17 (42,5,0%) 62 (41,7%)

> 0,05 Nữ 23 (57,5%) 83 (57,3%)

Tổng 40 (100) 145 (100)

* Nhận xét: Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm về tuổi, chiều cao, cân nặng và giới tính

Bảng 2. Tỷ lệ kháng insulin, chỉ HOMA-IR trung bình ở hai nhóm

Nhóm

Chỉ số

Nhóm chứng (n=40) Nhóm bệnh (n=145)

P

n % n %

HOMA-IR ≥ 1,48 10 25 107 73,8

< 0,05 HOMA-IR ≤ 1,48 30 75 38 26,2

HOMA-IR ( SDX ) 1,32±1,60 2,72±1,71 < 0,05

* Nhận xét: có 73,8% bệnh nhân ĐTĐ trong nhóm nghiên cứu có tình trạng kháng insulin.

Bảng 3. Nồng độ glucose, insulin ở nhóm ĐTĐ có kháng insulin và ĐTĐ không kháng insulin

Thông số ĐTĐ không kháng insulin

(n=38)

ĐTĐ có kháng insulin

(n=107) P

Glucose (mmol/l)

SDX 5,07±1,47 6,45±1,69 < 0,05

Insulin (µU/ml)

SDX 5,38±1,57 12,67±2,95 < 0,05

* Nhận xét: Nồng độ glucose, insulin máu ở nhóm ĐTĐ có kháng insulin cao hơn hẳn so với nhóm ĐTĐ

không kháng insulin. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 128: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 - 130

125

Bảng 4. So sánh tuổi đời, thời gian phát hiện bệnh(TGPHB),

chỉ số BMI, vòng bụng/ vòng mông, HA, glucose máu, HbA1c giữa hai nhóm

Chỉ số nghiên cứu Simvastatin

(n=54)

Không simvastatin

(n=53) P

Tuổi (năm) 59,4±0,9 58,1±1,0 > 0,05

BMI (kg/m2) 24,3±1,4 23,9±1,4 > 0,05

VB/VM 0,89±0,1 0,88±0,1 > 0,05

HATT (mmHg) 139,44±10,80 138,49±9,14 > 0,05

HATTr (mmHg) 88,37±1,52 89,45±1,54 > 0,05

Glucose (mmol) 6,57±2,07 6,43±1,17 > 0,05

HbA1c 7,23±1,12 7,15±1,12 > 0,05

<1năm

TGPHB 1-5 năm

>5năm

2 (3,7%)

47 (87%)

4 (7,4%)

1 (1,8%)

48 (90,5%)

5 (9,4%)

> 0,05

* Nhận xét: Không có sự khác biệt về tuổi đời, thời gian phát hiện bệnh, chỉ số BMI, VB/VM, HA trung

bình, glucose, insulin máu giữa hai nhóm.

Bảng 5. Nồng độ glucose, tỷ lệ HbA1c trung bình trƣớc và sau điều trị

Chỉ số Simvastatin (n = 54) Không simvastatin (n = 53)

P(a,b) Trƣớc ĐT Sau ĐT(a) P Trƣớc ĐT Sau ĐT(b) P

Glucose

(mmol/L) 6,57±2,07 5,85±1,15 < 0,05 6,43±1,17 6,07±1,28 > 0,05 < 0,05

HbA1C (%) 7,23±1,12 6,70±0,13 < 0,05 7,15±1,12 7,02±0,95 > 0,05 < 0,05

* Nhận xét: Nhóm dùng simvastatincó nồng độ glucose máu, HbA1c sau điều trị giảm có ý nghĩa thống kê

so với trước điều trị. Nồng độ glucose máu, HbA1c sau điều trị ở nhóm dùng simvastatin thấp hơn so với

nhóm không dùng simvastatin, với p< 0,05.

Bảng 6. Chỉ số lipid máu trung bình trƣớc và sau điều trị

Chỉ số

Simvastatin

(n=54)

Không Simvastatin

(n=53) P(ab)

TrƣớcĐT SauĐT(a) P TrƣớcĐT SauĐT(b) P

Triglycerid 3,50±0,26 2,20±0,17 < 0,05 2,65±0,20 2,82±0,27 > 0,05 < 0,05

Cholesterol 5,02±0,15 4,52±0,16 < 0,05 4,81±0,14 5,07±0,13 > 0,05 < 0,05

HDL-C 1,22±0,12 1,29±0,05 < 0,05 1,09±0,03 1,13±0,03 > 0,05 < 0,05

LDL-C 3,13±0,01 2,46±0,10 < 0,05 2,99±0,12 3,02±0,12 > 0,05 < 0,05

* Nhận xét: Nhóm dùng simvastatin: chỉ số lipid máu trung bình (triglycrid, cholesterol, LDL-C) sau điều

trị giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị. Nhóm dùng simvastatin nồng độ lipid máu giảm so với

nhóm không dùng simvastatin, với p < 0,05.

Bảng 7. Tỷ lệ rối loạn lipid máu trƣớc và sau điều trị

Chỉ số

Lipid bệnh lý

(mmol/l)

Simvastatin(n=54) Không Simvastatin (n=53) P(ab)

Trƣớc ĐT Sau ĐT (a) P Trƣớc ĐT Sau ĐT (b) P

Triglycerid (≥

2,3)

n 30 13 <0,05

28 25 >0,05 <0,05

% 55,5 24,0 52,8 47,1

Cholesterol (≥

5,2 )

n 28 11 <0,05

17 19 >0,05 <0,05

% 51,8 20,3 32,0 35,8

HDL-C

(≤ 0,9)

n 15 11 >0,05

14 11 >0,05 >0,05

% 27,7 20,3 26,4 20,7

LDL-C

(≥ 3,1 )

n 22 7 <0,05

16 15 >0,05 <0,05

% 40,7 12,9 30,1 28,3

* Nhận xét: Tỷ lệ rối loạn các thành phần lipid máu (triglyceride, cholesterol, LDL-C) ở nhóm có dùng

simvastatin giảm rõ rệt so với nhóm không dùng simvastatin. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 129: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 – 130

126

Bảng 8. Nồng độ insulin máu, chỉ số kháng insulin trƣớc và sau điều trị

Chỉ số

Simvastatin (n=54) Không Simvastatin (n=53)

P(a,b) Trƣớc ĐT SauĐT(a) P Trƣớc ĐT Sau ĐT(b) P

Insulin 12,48±6,77 5,22±3,82 <0,05 12,83±4,90 11,36±7,88 >0,05 <0,05

HOMA-IR 3,58±1,36 1,45±1,25 <0,05 3,26±1,52 3,07±1,99 >0,05 <0,05

HOMA

-IR

(≥1,48)

n 54 36

<0,05

53 42

<0,05 <0,05 % 100 66,6 100 79,2

* Nhận xét: Nhóm dùng simvastatin: insulin và chỉ số kháng insulin theo HOMA-IR sau điều trị giảm so

với trước điều trị với p< 0,05. Số người kháng insulin sau điều trị là 36 người (66,6%) so với trước điều trị

54 người(100%), với p<0,05.

Bảng 9. Nồng độ glucose máu, tỷ lệ HbA1c trƣớc và sau điều trị

Chỉ số Simvastatin (n = 54) Không simvastatin (n = 53)

P(a,b) Trƣớc ĐT Sau ĐT(a) p Trƣớc ĐT Sau ĐT(b) p

Glucose

Tốt 25(46,3) 36(66,6) <0,05 26(49,0) 30(56,6) >0,05 <0,05

Trung bình 11(29,4) 10(18,6) >0,05 11(20,7) 11(20,7) >0,05 >0,05

kém 18(33,3) 8(14,8) <0,05 16(30,1) 14(22,6) >0,05 <0,05

HbA1c

Tốt 12(22,2) 25(46,3) <0,05 22(41,5) 16(30,1) >0,05 <0,05

Trung bình 18(33,4) 15(27,8) >0,05 11(20,7) 24(45,2) <0,05 <0,05

kém 24(44,4) 14(25,9) <0,05 20(37,7) 13(24,5) <0,05 >0,05

* Nhận xét:

- Nhóm được điều trị kết hợp simvastatin có tỷ lệ kiểm soát tốt sau điều trị cao hơn cao hơn so với trước

điều trị cả về glucose và HbA1c và tỷ lệ glucose và HbA1c mức độ kiểm soát kém sau điều trị nhỏ hơn so

với trước điều trị, với p< 0,05.

- Nhóm không dùng simvastatin: không thấy sự khác biệt về tỷ lệ kiểm soát tốt và kém trước và sau điều trị,

với p> 0,05.

Bảng 10. Nồng độ creatinin, SGOT, SGPT, tiểu cầu trung bình trƣớc và sau điều trị

Chỉ số Simvastatin (n=54) Không Simvastatin (n=53)

Trƣớc ĐT Sau ĐT P Trƣớc ĐT Sau ĐT P

Creatinin 75,59±10,56 72,84±16,69 >0,05 75,59±10,44 72,84±12,26 >0,05

SGOT 27,75±8,12 27,44±8,04 >0,05 27,46±7,04 28,62±10,15 >0,05

SGOP 30,87±11,63 30,31±11,54 >0,05 32,29±11,90 33,95±12,60 >0,05

Tiểu cầu 325,30±29,08 321,43`±30,19 >0,05 317,36±24,85 316,07±23,75 >0,05

* Nhận xét: Không có sự khác biệt về nồng độ trung bình creatinin, SGOT, SGPT, tiểu cầu trước và sau

điều trị giữa hai nhóm, với p>0,05.

BÀN LUẬN

Tình trạng kháng insulin ở bệnh nhân đái

tháo đƣờng.

Kháng insulin hiện nay đƣợc coi là một cơ

chế bệnh sinh quan trọng của tình trạng rối

loạn dung nạp glucose và đái tháo đƣờng,

kháng insulin cũng liên quan chặt chẽ với các

yếu tố nguy cơ khác nhƣ béo phì, tăng HA,

ĐTĐ. Nhiều công trình nghiên cứu đều cho

rằng kháng insulin là yếu tố nguy cơ của bệnh

ĐTĐ và kháng insulin thƣờng có trƣớc ĐTĐ

5- 10 năm. Phát hiện sớm tình trạng kháng

insulin và cải thiện độ nhạy của insulin có thể

làm chậm cũng nhƣ làm giảm nguy cơ ĐTĐ

typ 2 và các biến chứng.

Để đánh giá kháng insulin có rất nhiều phƣơng pháp và chỉ số đánh giá kháng insulin. Phƣơng pháp đƣợc coi là chính xác nhất hay “tiêu chuẩn vàng ”đó là phƣơng pháp “kẹp” glucose. Nhƣng phƣơng pháp này rất phức tạp phải lấy máu nhiều lần (30lần/3giờ). Rất khó thực hiện nên ít đƣợc áp dụng trong nghiên cứu thực hành lâm sàng.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 130: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 - 130

127

Hiện nay phƣơng pháp đánh giá nội sinh (HOMA- Homeostasis Model Assessment) là phƣơng pháp đƣợc phổ biến rộng rãi nhất đƣợc Matthews đề xuất năm 1985 và WHO đã công nhận năm 1995. Đây là phƣơng pháp đơn giản, dễ thực hiện và khá chính xác khi so sánh với phƣơng pháp “kẹp”glucose. Nhiều công trình nghiên cứu cho rằng: tăng nồng độ insulin lúc đói, tăng chỉ số HOMA-IR đồng thời giảm pha tiết sớm của insulin là yếu tố dự báo cho sự phát triển của bệnh nhân ĐTĐ. Nghiên cứu của Heinz Drexel cho thấy chỉ số HOMA-IR tăng cao rõ rệt ở nhóm bệnh ĐTĐ typ 2 là 5,62±3,79 và cao hơn nhiều so nhóm chứng 1,74±1,12.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôỉ ở nhóm

chứng là những ngƣời khoẻ mạnh không mắc

bệnh ĐTĐ, chúng tôi xác định giá trị cắt của

HOMA-IR (tứ phân vị nhóm chứng) là 1,48.

Chỉ số kháng insulin HOMA-IR nhóm bệnh

2,72±1,17, cao hơn nhóm chứng 1,32±1,60 sự

khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Tỷ

lệ kháng insulin theo chỉ số HOMA-IR ở

nhóm bệnh ĐTĐ là 107 ngƣời chiếm 73,8%.

Tỷ lệ kháng insulin trong nhóm nghiên cứu

của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của

Nguyễn Đức Hoan, tỷ lệ kháng insulin theo

HOMA-IR là 46,8%. Sự khác biệt này do đối

tƣợng nghiên cứu của chúng tôi là bệnh nhân

ĐTĐ còn đối tƣợng nghiên cứu của Nguyễn

Đức Hoan là những bệnh nhân có rối loạn

dung nạp glucose.

Một số thay đổi sau điều trị bằng

Simvastatin ở bệnh nhân đái tháo đƣờng

typ2 có kháng insulin.

ĐTĐ typ 2 gây nhiều tác hại trực tiếp đến sức

khoẻ, tính mạng ngƣời bệnh. Nguyên nhân

dẫn đến sự nguy hại này không chỉ là do tăng

mức glucose máu mà còn do phức hợp các rối

loạn chuyển hoá khác tham gia vào quá trình

tiến triển của bệnh, đặc biệt là rối loạn chuyển

hoá lipid.

Simvastatin là một thuốc giảm lipid máu

thuốc có tác dụng hoạt hoá men HGM – CoA

– reductase làm giảm tổng hợp choleseterol

trong tế bào gan và tăng hoạt hoá thụ thể LDL

do đó làm giảm LDL – C tới 60% và giảm

Triglycerid tới 37%. Simvastatin có tác dụng

tăng thu nhận LDL làm giảm LDL huyết

tƣơng và giảm cholesterol. Đã có nhiều công

trình nghiên cứu chứng minh đƣợc các

simvastatin có thể làm giảm tỷ lệ tử vong ở

bệnh nhân bị bệnh mạch vành có tăng lipid

máu, giảm tỷ lệ phải can thiệp ở bệnh nhân

sau can thiệp động mạch vành hoặc mổ cầu

nối chủ vành.

Nghiên cứu của chúng tôi gồm107 bệnh ĐTĐ

typ2 có kháng insulin đƣợc chia ngẫu nhiên

thành 2 nhóm: nhóm dùng simvastatin 54

bệnh nhân, nhóm không dùng simvastatin 53

bệnh nhân. Trƣớc điều trị giữa hai nhóm

không có sự khác biệt về các chỉ số nghiên

cứu: tuổi đời, thời gian phát hiện bệnh, chỉ số

BMI, VB/VM, HA, glucose, HbA1c, tỷ lệ rối

loạn lipid chung tƣơng đối cao chiếm

(79,3%). Kết quả điều trị ở nhóm dùng

simvastatin cho thấy: Cholesterol tăng trƣớc

điều trị 51,8% bệnh nhân, sau điều trị còn

20,3% bệnh nhân. Triglycerid tăng trƣớc điều

trị 55,5%, sau điều trị còn 24,0%. LDL-C

tăng trƣớc điều trị 40,7%, sau điều trị còn

12,9%. HDL-C giảm trƣớc điều trị 27,7%, sau

điều trị còn 12,7% sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê với p< 0,05. Tỷ lệ các thành phần

lipid trung bình so sánh trƣớc và sau điều trị ở

nhóm dùng simvastatin cũng đƣợc cải thiện rõ

rệt. Ở nhóm không dùng simvastatin không có

sự thay đổi về tỷ lệ rối loạn lipid máu trƣớc

và sau điều trị với p> 0,05. Kết quả nghiên

cứu của chúng tôi cũng tƣơng tự nhƣ một số

nghiên cứu khác nhƣ: Nghiên cứu của 4S

(Scandinavian Simvastatin survival study)

trên 4444 bệnh nhân dùng simvastatin so với

placebo theo dõi 5,4 năm thấy thuốc làm giảm

triglycerid 25%, LDL-C 39%, cholesterol

10%, tăng HDL-C 8%. Nghiên cứu Mass

(Mullicenter Anti- Atheroma Study) điều trị

simvastatin 10mg/ngày làm giảm triglycerid

23%. LDL-C 31%, tăng HDL-C 9%.

Lợi ích điều trị rối loạn lipid máu của

simvastatin: giảm số lƣợng phân tử LDL-C

oxy hoá, giảm lipid trong mảng vữa xơ, giảm

khả năng nứt loét mảng vữa xơ, hạn chế sự

tăng và làm thoái triển mảng vữa xơ, phục hồi

chức năng nội bào, ức chế kết tập tiểu cầu,

giảm nguy cơ đông máu. Nghiên cứu bảo vệ

tim HPS (Heart Protection Study) trên 20.000

bệnh nhân cho thấy: simvastatin 40mg làm

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 131: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 – 130

128

giảm nguy cơ bệnh tim mạch trên 1/3 bệnh

nhân ĐTĐ có bệnh tim mạch, làm giảm nguy

cỏ cả nhồi máu cơ tim và đột quỵ trên bệnh

nhân ĐTĐ. Simvastatin kiểm soát cải thiện

mức nguy cơ chung 21% trên bệnh nhân ĐTĐ

độc lập với kiểm soát glucose máu.

Simvastatin làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch

có hay không có tăng cholesterol. Vì vậy bên

cạnh việc kiểm soát tốt glucose máu ở bệnh

nhân ĐTĐ typ 2 điều trị rối loạn lipid máu,

giảm kháng insulin là một mục tiêu quan

trọng nhằm khống chế, ngăn ngừa biến chứng

của bệnh này.

Sau 2 tháng điều trị chúng tôi nhận thấy:

nhóm không dùng simvastatin nồng độ

glucose máu, HbA1c không thay đổi so trƣớc

điều trị. Nhóm dùng simvastatin glucose máu

là 5,85±1,15 giảm hơn so trƣớc điều trị là

6,57±2,07, HbA1c là 6,70±0,13 giảm rõ rệt so

với trƣớc điều trị là 7,23±1,12 với p< 0,05. So

sánh hai nhóm sau điều trị chúng tôi nhận

thấy nồng độ glucose máu, HbA1c ở nhóm có

dùng simvastatin giảm hơn so với nhóm

không dùng simvastatin. Sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê với p<0,05. Nhóm dùng

simvastatin có sự khác biệt rõ rệt trƣớc và sau

điều trị về nồng độ insulin máu trƣớc điều trị

là 12,48±6,77 sau điều trị còn 5,22±3,82 và

chỉ số kháng insulin (HOMA-IR) trƣớc điều

trị là 3,58±1,36 sau điều trị còn 1,45±1,25,

với p< 0,05. Nhóm không dùng simvastatin,

không thấy sự khác biệt về nồng độ insulin và

chỉ số kháng insulin trƣớc và sau điều trị.

Nhƣ vậy việc phối hợp simvastatin trong điều

trị ĐTĐ typ 2 có thể làm giảm nồng độ

glucose máu, HbA1c tốt hơn so với nhóm

không dùng simvastatin. Một điều đáng lƣu ý

là tỷ lệ HbA1c đƣợc coi là có liên quan tới

nồng độ glucose máu từ thời điểm 3 tháng

trƣớc đó. Do điều kiện nghiên cứu chúng tôi

chỉ theo dõi có hai tháng và điều bất ngờ

HbA1c trong nghiên cứu của chúng tôi giảm

rõ rệt sau hai tháng điều trị. Nhiều nghiên cứu

đã cho thấy HbA1c là chỉ số đánh giá nồng độ

glucose máu trƣớc đó ba tháng. Tuy nhiên

theo Rohlfiny Curt L và cộng sự, mối quan hệ

giữa nồng độ glucose máu và tỷ lệ HbA1c rất

phức tạp. Nồng độ glucose máu ở thời điểm 2

tháng trƣớc thời điểm xác định HbA1c đóng

góp chủ yếu vào mức HbA1c hơn hẳn so với

glucose máu ở thời điểm xa hơn ba tháng

trƣớc đó. Điều đó giải thích tại sao tỷ lệ

HbA1c có thể tăng, giảm nhanh phù hợp với

mức thay đổi glucose máu. Nhƣ vậy sự thay

đổi HbA1c ở nhóm dùng simvastatin trong

nghiên cứu của chúng tôi có thể là do nồng độ

glucose máu giảm mạnh trong hai tháng điều

trị. Việc giảm tỷ lệ HbA1c rất có ý nghĩa lâm

sàng. Phân tích dịch tễ học của nghiên cứu

UKPDS cho thấy giảm HbA1c 1% kèm theo

giảm nguy cơ hàng loạt các biến chứng ĐTĐ

bao gồm tử vong liên quan đến ĐTĐ (21%),

nhồi máu cơ tim (14%), bệnh vi mạch (37%),

bệnh mạch máu ngoại biên (43%). Sự kết

hợp giữa HbA1c và nguy cơ các biến

chứng là liên tục. Do đó mỗi khi giảm 1%

HbA1c hy vọng có thể cải thiện đƣợc các

kết quả lâm sàng.

Kháng insulin là sự bất thƣờng chuyển hoá có

tính chất quyết định ở bệnh nhân ĐTĐ typ2

và đƣợc xem nhƣ giai đoạn sớm trong quá

trình tiến triển của bệnh, giai đoạn này thƣờng

kết hợp với nhiều rối loạn khác nhƣ tăng

insulin máu, tăng glucose máu, rối loạn lipid

máu, tăng HA, tăng vũa xơ động mạch, làm

tăng nguy cơ bệnh lý tim mạch. Sự bài tiết

insulin phụ thuộc nồng độ glucose máu, sự

tạo thành các dạng oxy hoạt động và rối loạn

chuyển hoá lipid có mối liên quan hết sức

chặt chẽ với nhau, các con đƣờng chuyển hoá

đƣợc hoạt hoá trong quá trình bài tiết insulin

có sự kích thích của glucose (tăng đƣờng

phân, tăng tỷ số ATP/ADP, tăng nồng độ

ca++

nội bào). Sự tăng acid béo tự do dẫn đến

tăng triglyceride gây rối loạn chức năng và

chết tế bào beta chết theo chƣơng trình. Rất

nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm

cũng nhƣ trên lâm sàng của các tác giả nƣớc

ngoài trong thời gian gần đây đã cho thấy tác

dụng rất rõ ràng của rối loạn chuyển hoá lipid

lên sự kháng insulin và bảo tồn chức năng của

tế bào beta. Nhƣ vậy việc điều trị simvastatin

trong nghiên cứu của chúng tôi có tác dụng

làm giảm rối loạn chuyển hoá lipid trong đó

đặc biệt là giảm LDL-C, giảm TG giảm tình

trạng stress oxy hoá cải thiện độ nhạy của

insulin làm giảm mức insulin giảm đề kháng

insulin, từ đó làm tăng mức độ kiểm soát

glucose máu.

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 132: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 - 130

129

KẾT LUẬN

Qua điều trị 107 bệnh nhân ĐTĐ typ 2 có

kháng insulin chia ra hai nhóm: một nhóm

dùng sulfonylurea đơn thuần, một nhóm

dùng sulfonylurea phối hợp simvastatin. Sau

2 tháng theo dõi, chúng tôi nhận thấy một số

hiệu quả:

- Nhóm dùng simvastatin có các thành phần

lipid máu trung bình và tỷ lệ trong giới hạn

bệnh lý của các chỉ số: cholesterol,

triglyceride, LDL-C thấp hơn, HDL-C cao

hơn so với nhóm không dùng simvastatin,

với p< 0,05.

- Nhóm dùng simvastatin hiệu quả của kiểm

soát glucose máu mức độ tốt hơn nhóm

không dùng simvastatin: glucose, HbA1c,

insulin, chỉ số kháng insulin giảm. Mức độ

kiểm soát glucose máu tốt từ 46,3 lên 66,6%,

HbA1c mức độ tốt từ 22,2% lên 46,3%. Cải

thiện rõ rệt glucose máu ở mức độ kém từ

33,3 xuống còn 14,8%. HbA1c mức độ kém

từ 44,4 xuống còn 25,9%, với p< 0,05.

- Simvastatin dùng ở liều nhỏ (10mg/ ngày)

độ an toàn cao: không có sự thay đổi về nồng

độ trung bình creatinin, SGOT, SGPT, tiểu

cầu trƣớc và sau điều trị, không có bệnh nhân

nào phải dừng thuốc trong quá trình điều trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Thái Hồng Quang (2001), Đái tháo đường,

Nhà xuất bản y học, Tr.120 – 180, Tr.21-24;

Tr.75-86.

[2]. Đỗ Trung Quân (2007), Đái Tháo Đường và

điều trị, Nhà xuất bản Y học Hà Nội, tr.12.

[3]. Nguyễn Hải Thuỷ (2006), “ Đặc điểm kháng

insulin trong bệnh đái tháo đƣờng”, Y học thực

hành, (610), tr.17-27.

[4]. Hội tim mạch y học Việt Nam, Khuyến cáo về

các bệnh lý tim mạch và chuyển hóa giai đoạn

2006-2010 (2006), Khuyến cáo về chẩn đoán và

điều trị rối loạn Lipid máu, Nhà xuất bản Y học

Thành phố Hồ Chí Minh, Tr.3565

[5]. Halaine E, Resnick, Kristina, Jones (2003),

“Insulin Resistance, the metabolic Syndrome, and

risk of incident cardiovascular disease in

nondiabetic American Indians”, Diabetes

care,(26), pp. 861-867.

[6]. Juan F. Ascano, Rosavio I. lorente (2005),

“Diagnosing insulin resistance by simple

quantitative methods in subjects With normal

glucose metabolism”, Diabetes care, (26),pp.

3320-3325.

[7]. Matthew D.R, Hosker J.P, Rudenski A.S,

Naylor B.A (1985) "Homeostasis model

assessment: insulin resistance and beta-cell

funtion from fasting plasma glucose and insulin

concentrations in man", Diabetologia, (28),

pp.412-419

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Page 133: Tap 77 - So 1 nam 2011

Nguyễn Kim Lƣơng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 123 – 130

130

ABSTRACT

EVALUATION OF THE EFFECTIVENESS OF TREATMENT IN

PATIENTS SIMVASTATIN TYP2 DIABETES INSULIN RESISTANCE

Nguyen Kim Luong*

Central Hospital, Thai Nguyen

Objective: To evaluate the efficacy of the complex therapy by sulfonylurea and simvastatin in

typ2 diabetic patients with insulin resistance (IR).

Patients and methods: 185 subjects, including: 145 typ2 diabetic patient in disease group and 40

healthy person in control group. Assessment the IR situation by HOMA-IR index (HOMA-IR =

I0(µu)x G0(mmol/l)/22,5). There were 107 diabetic patients having IR state. They were taken

randomized into 2 groups: one group have been treated by sulfonylurea alon (non simvastatin

group), other group have been complex treated by sulfonylurea and simvastatin (simvastatin

group). assessing the effectiveness of treating after 2 months though parameters: glucose, HbA1c,

cholesterol, triglycerid, HDL-C, LDL-C.

Results: Simvastatin group have levels of cholesterol, triglycerid, LDL-C lower and level of HDL-

C higher than non simvastatin group. The glucose control better in simvastatin group: glucose,

HbA1c, insulin, IR index more decrease than non simvastatin group. Increasing percentage of

good control of glucose and redue the rate of poor control in simvastatin group.

Conclusion: The combination of treating sulfonylurea and simvastatin will increase the effective

control of lipid and glucose in typ2 diabetic patients with having IR state.

Keywords: Typ2 diabetes, insulin resistance, HOMA-IR index, simvastatin

* Tel: 0982852165; Email:[email protected]

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn

Tai lieu chia se tai: wWw.SinhHoc.edu.vn