Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
MỤC LỤC
STT NỘI DUNG TRANG
1 Lời nói đầu 1
2 Thực trạng dạy và học môn Vật lý ở trường THCS hiện nay,
nguyên nhân và giải pháp khắc phục 3
3 Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lý theo định hướng
phát triển năng lực học sinh ở trường THCS 10
4 Công tác sử dụng và làm đồ dùng dạy học môn Vật lý ở
trường THCS 16
5 Một số biện pháp tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi môn Vật lý
ở trường THCS 24
6 Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Vật lý ở
trường THCS 30
7 Đổi mới PPDH và KTĐG theo định hướng phát triển năng lực
học sinh cấp THCS 37
8 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong giờ thực
hành thí nghiệm môn Vật lý cấp THCS 44
9 Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Vật lý 49
10 Về công tác làm và sử dụng đồ dùng dạy học môn Vật lý ở
trường THCS 54
11 Về đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực
học sinh 57
12 Thực trạng dạy và học môn Vật lý trong các trường THCS
hiện nay - trường THCS TT. Đại Ngãi, huyện Long Phú 60
13 Công tác chỉ đạo GV đổi mới PP giảng dạy môn Vật lý ở
trường THCS Châu Văn Hưng, Thạnh Trị, Sóc Trăng 65
14 Nâng cao chất lượng học tập môn Vật lý của học sinh THCS -
Trường THCS Tôn Đức Thắng, TP.Sóc Trăng 69
15 Giúp HS hứng thú học tập môn Vật lý 6 qua làm ĐDDH,
hướng dẫn làm thí nghiệm - THCS Nhơn Mỹ 2 - Kế Sách 73
16 Một số giải pháp bồi dưỡng HS giỏi môn Vật lý phần định luật
JUN-LENXƠ ở trường THCS Mỹ Tú 78
17 Giúp học sinh học tốt môn Vật lý cấp THCS
THCS Thạnh Thới An, huyện Trần Đề 83
18 Đổi mới phương pháp dạy hôc môn Vật lý ở trường THCS 93
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013, của Ban chấp
hành Trung ương về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Để thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường phổ thông đòi hỏi mỗi
cán bộ quản lý giáo dục, mỗi thầy cô giáo phải tích cực đổi mới nội dung,
phương thức tổ chức quản lý và các hoạt động giáo dục, đa dạng hóa các hình
thức học tập, kĩ thuật dạy học tích cực; đổi mới nội dung, phương thức đánh giá
học sinh theo định hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ hoạt động dạy học.
Nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đổi mới mới căn bản và toàn diện
giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường phổ thông,
trong đó việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Vật lý ở các trường
Trung học cơ sở trong bối cảnh hiện nay là một vấn đề đặt ra đối với toàn ngành
giáo dục nói chung và với Hội nghị chuyên đề môn Vật lý hôm nay nói riêng.
Bởi vì, sự hiểu biết và nhận thức về Vật lý có giá trị to lớn trong đời sống và sản
xuất, đặc biệt là trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Môn
Vật lý có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của giáo dục
phổ thông, bước đầu hình thành ở học sinh những kỹ năng và thói quen làm việc
khoa học – kỹ thuật trong học tập, trong học nghề, hoặc học lên đại học, khả
năng ứng dụng khoa học vào đời sống. Mặt khác môn Vật lý còn gắn bó, liên hệ
chặt chẽ với các môn học khác trong chương trình giáo dục phổ thông.
Với ý nghĩa thiết thực nêu trên, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Sở Giáo
dục và Đào tạo Sóc Trăng, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Cù Lao Dung trân
trọng tổ chức Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập
môn Vật lý ở trường Trung học cơ sở”. Mục đích của Hội nghị chuyên đề nhằm
đánh giá lại thực trạng việc giảng dạy và học tập bộ môn Vật lý trong nhà
trường phổ thông trong bối cảnh hiện nay, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp thiết
thực nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục trong nhà trường nói chung và bộ
môn Vật lý nói riêng. Nội dung của Hội nghị và Kỷ yếu tập trung vào các vấn đề
trọng tâm sau:
- Một là, thực trạng dạy và học môn Vật lý ở trường THCS hiện nay,
nguyên nhân và giải pháp khắc phục;
- Hai là, đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lý theo định hướng phát
triển năng lực học sinh ở trường THCS;
- Ba là, công tác sử dụng và làm đồ dùng dạy học môn Vật lý ở trường
THCS;
- Bốn là, một số biện pháp tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi môn Vật lý ở
trường THCS;
- Năm là, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học môn Vật lý ở
trường THCS.
Với tinh thần giao lưu, học hỏi, thông qua Hội nghị Ban tổ chức mong
muốn tạo ra diễn đàn để cán bộ quản lý, giáo viên môn Vật lý huyện Cù Lao
Dung có điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm từ các đơn vị bạn. Đồng thời
rất mong Hội nghị cùng các đơn vị bạn tích cực thảo luận, trao đổi, phân tích,
đánh giá những mặt làm được và hạn chế, tìm ra nguyên nhân, đề ra giải pháp
thiết thực góp phần nâng cao chất lượng hoạt động dạy và học môn Vật lý trong
trường THCS hiện nay.
Trong quá trình chuẩn bị Hội nghị, Ban tổ chức đã nhận được 14 bài
tham luận của cán bộ quản lý và giáo viên môn Vật lý ở các trường THCS trực
thuộc (trong đó tuyển chọn được 11 tham luận đưa vào kỷ yếu); 02 tham luận
của trường THPT An Thạnh 3; 06 tham luận của các Phòng GDĐT (Long Phú,
TP.Sóc Trăng, Thạnh Trị, Kế Sách, Mỹ Tú, Trần Đề). Tổng cộng gồm có 18 bài
tham luận được đưa vào kỷ yếu. Các bài tham luận phần lớn đã đánh giá đúng
thực trạng việc giảng dạy và học tập môn Vật lý ở trường THCS, đề ra giải pháp
thiết thực, có hiệu quả trong việc thực hiện đổi mới PPDH và KTĐG kết quả
học tập của học sinh, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, công tác làm và sử dụng
đồ dùng dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học…Ban tổ chức
trân trọng ghi nhận sự đóng góp của cán bộ quản lý, giáo viên các trường THCS
trực thuộc, trường THPT An Thạnh 3, Phòng GDĐT các huyện, thị xã, thành
phố trên địa bàn tỉnh trong việc nghiên cứu, viết và gửi bài tham luận góp phần
vào sự thành công của Hội nghị.
Ban tổ chức chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp, chia sẽ những
kinh nghiệm, giải pháp, cách làm hay của cán bộ quản lý, giáo viên, chuyên
viên, lãnh đạo các Phòng GDĐT huyện, thị xã, thành phố trong địa bàn tỉnh
nhằm góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Vật lý trong các
trường THCS hiện nay. Xin chân thành cảm ơn./.
THAM LUẬN
THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN VẬT LÝ Ở TRƢỜNG
THCS HIỆN NAY, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Trịnh Văn Tƣ
GV trƣờng THCS An Thạnh Tây
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vật lý là bộ môn khoa học tự nhiên có ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống.
Việc học tập tốt môn Vật lý có giá trị to lớn trong đời sống và sản xuất, đặc biệt là
trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Môn Vật lý bước đầu
hình thành ở học sinh những kỹ năng và thói quen làm việc khoa học – kỹ thuật
trong học tập, khả năng ứng dụng khoa học vào đời sống. Tuy nhiên việc dạy và
học môn Vật lý gặp khá nhiều khó khăn. Bởi lẻ môn vật lý đòi hỏi người giáo
viên phải hướng dẫn học sinh học tập một cách khoa học, đúng cách thì mới có
chất lượng cao.
Với mục đích nâng cao chất lượng dạy và học vật lý ở trường Trung học
cơ sở (THCS), bản thân nhận thấy rằng nhất thiết phải tìm ra những khó khăn,
vướng mắc và nguyên nhân của nó, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp khắc
phục nhằm nâng dần chất lượng dạy và học môn Vật lý ở trường THCS.
II. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN VẬT LÝ HIỆN NAY Ở
TRƢỜNG THCS
1. Thuận lợi
Được sự quan tâm của nhà trường, phân công giảng dạy đúng chuyên môn,
được tham gia các lớp tập huấn chuyên môn do Phòng và Sở GDĐT tổ chức.
Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình trong công tác.
Học sinh chấp hành khá tốt nội qui nhà trường, được trang bị đầy đủ SGK.
Về cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư xây dựng theo hướng kiên cố
hóa; trường, lớp khang trang, thoáng mát tạo điều kiện tốt cho việc học tập, sinh
hoạt và vui chơi giải trí.
2. Khó khăn
a. Đối với giáo viên
Do nhiều lý do nên giáo viên vẫn còn dạy học theo lối truyền thống,
truyền thụ kiến thức theo lối một chiều, chưa mạnh dạng trong việc đổi mới
phương pháp dạy học (PPDH). Một số giáo viên có ý thức đổi mới PPDH
nhưng chỉ mang tính đối phó khi có thao giảng, dự giờ, kiểm tra.
Một bộ phận giáo viên không tích cực đầu tư trong tiết dạy cũng như công
tác soạn giảng, thậm chí còn sao chép giáo án của người khác hoặc tải trên mạng
về điều chỉnh chút ít để làm giáo án của riêng mình và để đối phó; lên lớp thiếu
sự chuẩn bị phương tiện, đồ dùng dạy học dẫn đến tình trạng dạy chay, giờ học
nhàm chán, thiếu thu hút, không gây được hứng thú cho học sinh.
Trong quá trình dạy học còn nặng về truyền thụ lý thuyết, ít vận dụng kiến
thức vào thực tiễn cuộc sống, ít cho học sinh thực hành thí nghiệm mà chủ yếu
là thí nghiệm biểu diễn của giáo viên.
b. Đối với học sinh
Một bộ phận học sinh có ý thức tự học còn thấp, năng lực tiếp thu bài
chưa tốt để có thể học tập tốt nội dung giáo viên truyền thụ và có thể trả lời tốt
các câu hỏi của giáo viên. Vẫn còn một số học sinh thiếu tôn trọng đối với giáo
viên, tỏ thái độ không tốt khi được giáo viên nhắc nhở.
Phương pháp học tập của học sinh chưa phù hợp với đặc thù bộ môn, thụ
động trong học tập, tái hiện một cách máy móc rập khuôn những gì giáo viên
giảng, lười suy nghĩ tìm tòi sáng tạo.
Còn nhiều học sinh chưa chú tâm vào việc thực hiện hiệm vụ của giáo
viên giao trên lớp, làm bài tập ở nhà, lười suy nghĩ, lười chép bài hoặc chép qua
loa cho có lệ. Đa số học sinh không học bài cũ, không nghiên cứu bài mới trước
khi đến lớp.
Nhiều học sinh mất căn bản về kiến thức toán học nên khi gặp những bài
toán khó có liên quan nhiều đến kiến thức toán học thì các em lại không làm bài
được. Từ đó dẫn đến chất lượng học tập Vật lý của các em thấp.
Một bộ phận gia đình học sinh chưa quan tâm nhiều đến việc học tập của
các em, thiếu sự phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục con em mình.
III. NGUYÊN NHÂN
1. Về mặt khách quan
Ngoài các trường đạt chuẩn quốc gia, đa số các trường còn chưa có phòng
thí nghiệm thực hành nên việc dạy học còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong
các tiết thực hành.
Các dụng cụ thí nghiệm được cấp về trong thời gian khá lâu nên một số dụng
cụ đã xuống cấp, thiếu chính xác, sai số gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy và
học. Trang thiết bị hỗ trợ cho công tác dạy của giáo viên và học tập của học sinh
còn thiếu.
Một số dụng cụ thí nghiệm không có trong danh mục thiết bị tối thiểu
nhưng trong chương trình dạy học lại có nói đến.
Chương trình hiện tại còn quá tải so với khả năng nhận thức của học sinh
nên nhiều em không theo kịp nội dung bài học.
Do điều kiện học sinh của huyện đa số là con của nông dân nên các em
ngoài việc học tập còn phụ giúp gia đình làm kinh tế nên thời gian đầu tư cho
việc học tập không được nhiều. Khả năng vận dụng kiến thức của học sinh còn
hạn chế nên ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của các em.
Nhiều cha mẹ học sinh đi làm ăn xa nên việc theo dõi, đôn đốc học tập
của các em ở nhà chưa thường xuyên là liên tục.
2. Về mặt chủ quan
Giáo viên chưa nhận thức hết tầm quan trọng việc đổi mới, thiếu tính kiên trì
và thường xuyên trong việc thực hiện đổi mới PPDH. Sự đang dạng các phương
tiện, kỹ thuật dạy học còn hạn chế làm ảnh hưởng đến kết quả dạy và học.
Giáo viên ít quan tâm đến công tác đầu tư, chuẩn bị cho tiết dạy, trong
giảng dạy ít quan tâm đến các học sinh yếu, kém
Học sinh học tập thụ động, lười học không chịu học bài, làm bài tập và
thiếu tinh thần hợp tác với giáo viên trong giờ học. Khả năng tự ghi bài của học
sinh còn chưa tốt nên trông chờ vào việc ghi bảng, đọc chép của giáo viên.
Một số học sinh còn mê chơi các trò chơi điện tử rồi dẫn đến bỏ học, cúp
tiết, thiếu tôn trọng giáo viên.
IV. GIẢI PHÁP
1. Nâng cao lòng yêu nghề và ý thức trách nhiệm của giáo viên
Để đổi mới phương pháp giảng dạy có hiệu quả, giáo viên là yếu tố quyết
định hàng đầu trong việc thực hiện đổi mới PPDH. Vì vậy, mỗi thầy cô giáo
phải có sự nhận thức đúng đắn, lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm và sự quyết
tâm cao. Tổ chức hướng dẫn học sinh học tập tốt là những phẩm chất cần thiết
của người giáo viên trong nhà trường. Giáo viên với bất cứ hoàn cảnh nào, lớp
học nào đều phải hội đủ các điều kiện về kiến thức, khả năng giảng dạy hữu
hiệu, lòng nhiệt thành và đức tính thân thiện của nhà giáo. Bên cạnh đó, giáo
viên phải có kỹ năng tổ chức hướng dẫn học sinh trong mọi hoạt động học tập,
có kỹ năng sử dụng đồ dùng dạy học, thực hành thí nghiệm, có năng lực tự thu
thập thông tin phong phú để phục vụ yêu cầu dạy học. Muốn làm được điều này
đòi hỏi giáo viên phải có ý thức trách nhiệm, tâm huyết với nghề nghiệp, dành
tình yêu cho công việc đang làm cùng với sự nhiệt tình trong giảng dạy chắc
chắn việc truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách hiệu quả và thành công
hơn. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm và lòng yêu nghề là
một yêu cầu bức thiết trong bối cảnh hiện nay.
2. Đẩy mạnh đổi mới phƣơng pháp dạy học và kiểm tra đánh giá
a. Về đổi mới PPDH
Đẩy mạnh đổi mới PPDH là nhiệm vụ hàng đầu, thường xuyên và liên
tục. Tùy theo điều kiện thực tế về cơ sở vật chất, thiết bị của nhà trường, đối
tượng học sinh, nội dung kiến thức từng bài học giáo viên vận dụng sáng tạo các
hình thức, kỹ thuật dạy học cho phù hợp nhằm phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động của học sinh, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng SGK,
làm bài tập, nghe ghi chép, tìm kiếm thông tin, …) trau dồi các phẩm chất linh
hoạt độc lập, sáng tạo về tư duy cho học sinh.
Lựa chọn và sử dụng linh hoạt các PPDH chung và phương pháp dạy học
đặc thù của môn học Vật lý để thực hiện được mục tiêu, kiến thức, kỹ năng của
bài học trên cơ sở phát huy tối đa những hoạt động học của học sinh như hoạt
động cá nhân, hoạt động nhóm, học trong lớp, học ở nhà.
Chuẩn bị tốt về phương tiện, dụng cụ dạy học trong giờ thực hành, thí
nghiệm để đảm bảo về yêu cầu rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, nâng cao hứng thú cho học sinh.
Dạy học trên cơ sở phân hóa đối tượng học sinh, đặc biệt quan tâm đến
đối với học sinh yếu kém tạo điều kiện cho các em từng bước phát triển và theo
kịp bạn bè trong lớp.
Tùy theo điều kiện thực tế về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và học sinh
của đơn vị đẩy mạnh công tác dạy học 2 buổi/ngày nhằm bồi dưỡng học sinh
giỏi, phụ đạo cho học sinh yếu, kém.
b. Đa dạng các hình thức kiểm tra – đánh giá (KTĐG)
Đa dạng các phương pháp, kỹ thuật dạy học thì song song với nó là phải
đa dạng hóa các hình thức KTĐG kết quả học tập của học sinh. Trong KTĐG
kết quả học tập của học sinh phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Phải đảm bảo các kỹ năng và cấp độ kiểm tra đánh giá, đa dạng các hình
thức kiểm tra như: trắc nghiệm, tự luận, vận dụng, vận dụng cao; kiểm tra vỡ
ghi, kiểm tra bài tập, kiểm tra miệng, kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ,
kết hợp với học sinh tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
Xây dựng ma trận đề kiểm tra phù hợp, trên cơ sở phân hóa trình độ kiến
thức, kỹ năng của học sinh trong lớp.
Đánh giá kết quả học tập khách quan, công bằng, có sửa chữa và ghi nhận
xét trên cơ sở động viên khuyến khích các em học tập tốt hơn.
Giáo viên thường xuyên kiểm tra việc tự ghi bài, học bài của các học sinh
yếu, kém và có biện pháp khuyến khích các em học tập.
3. Giáo viên phải đầu tƣ nghiên cứu bài dạy, nắm vững mục tiêu, nội
dung kiến thức- kỹ năng và phƣơng pháp truyền đạt
Thực tế cho thấy vẫn còn một số giáo viên ít chịu đầu tư, nghiên cứu
trong việc xây dựng, thiết kế bài dạy và thậm chí còn sao chép giáo án của người
khác hoặc tải trên mạng về chỉnh sửa đôi chút để làm của riêng mình đồng thời
để đối phó. Như thế sẽ không phù hợp với điều kiện thực tế của từng trường,
từng địa phương và đối tượng người học, hơn nữa mỗi giáo viên có một cách
dạy khác nhau. Vấn đề này có ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy và học ở
trường THCS. Vật lý là môn khoa học của thực nghiệm, vì vậy trong giảng dạy
đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư chuẩn bị tốt cho bài dạy. Phải nắm vững mục
tiêu, nội dung kiến thức và kỹ năng cần truyền đạt, phương tiện, kỹ thuật dạy
học thích hợp để thiết kế bài giảng nhằm dẫn dắt học sinh đi từ dễ đến khó, từ
khó hiểu đến dễ hiểu, từ lý thuyết đến thực tiễn, thu hút học sinh tích cực tham
gia xây dựng bài, phát huy tính chủ động và sáng tạo của học sinh. Nếu người
giáo viên khéo kéo trong việc xây dựng kế hoạch giảng dạy, bài dạy sẽ phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh và học sinh sẽ trở thành chủ thể của hoạt
động giáo dục. Công tác này là một yêu cầu thiết yếu trong việc nâng cao chất
lượng dạy và học ở trường THCS và là một kinh nghiệm, một hình thức sáng tạo
cần thiết của mỗi giáo viên trong quá trình giảng dạy. Sáng tạo tốt, nghiên cứu
sâu, vận dụng linh hoạt các phương pháp, kỹ thuật dạy học chắc chắn tiết dạy sẽ
hay và đạt hiệu quả cao.
4. Tăng cƣờng công tác sử dụng và làm đồ dùng dạy học
Tăng cường sử dụng các phương tiện và đồ dùng dạy học đã có nhằm đạt
hiệu quả cao nhất trong công tác giảng dạy của giáo viên cũng như việc học của
học sinh.
Trong điều kiện đồ dùng còn thiếu, bị hư hỏng nhiều giáo viên có kế
hoạch sửa chữa những dụng cụ thí nghiệm bị hư hỏng, thiếu chính xác sao cho
dụng cụ thí nghiệm sử dụng một cách chính xác nhất để đảm bảo kết quả thí
nghiệm thu hút được sự chú ý của học sinh, tạo cho học sinh niềm tin tưởng cao
vào kết quả thí nghiệm, từ đó giúp học sinh hứng thú hơn trong việc học tập rồi
nâng dần kết quả học tập bộ môn.
Giáo viên tích cực làm các dụng cụ thí nghiệm, đồ dùng dạy học còn thiếu
trong khả năng có thể để giảng dạy trên lớp. Ngoài ra có thể cải tiến dụng cụ thí
nghiệm hiện có thành bộ thí nghiệm để có thể sử dụng dễ dàng, thuận tiện nhất.
Nói về việc làm và cải tiến các dụng cụ thí nghiệm thì thời gian qua giáo viên
huyện Cù Lao Dung cũng đã cải tiến thành công nhiều dụng cụ phục vụ cho
công tác dạy của giáo viên và học tập của học sinh như: Máy dùng chất lỏng của
đơn vị trường THCS An Thạnh Tây, bộ thí nghiệm ròng rọc của trường THPT
An Thạnh 3, hộp kín của trường THCS An Thạnh 1…
5. Tăng cƣờng ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
Trong dạy học Vật lý thì có nhiều thí nghiệm học sinh khó có thể tưởng
tượng ra kết quả thông qua quan sát thí nghiệm, thông qua làm thí nghiệm mà
cần có những hình ảnh cụ thể để minh họa cho các em quan sát và rút ra kết
luận. Vì vậy việc ứng dụng công nghệ thông tin như soạn giáo án trên
PowerPoint và sử dụng những thí nghiệm ảo để trình chiếu cũng góp phần nâng
cao hiệu quả giảng dạy.
6. Tăng cƣờng tính độc lập, tự học, tự rèn của học sinh
Tính độc lập, tự học, tự rèn của học sinh thể hiện ở việc các em tự nghiên
cứu tài liệu, tự tìm hiểu các vấn đề liên qua đến nội dung bài học, tự tìm hiểu
câu hỏi và giải pháp để giải quyết một vấn đề nào đó, biết vận dụng kiến thức
vào thực tế cuộc sống. Làm được như vậy là học sinh đã xây dựng cho mình một
thái độ học tập sáng tạo và tích cực.
Để có thể đáp ứng được yêu cầu của sách giáo khoa hiện hành, nâng cao
tính tự học tại nhà của học sinh bằng cách giáo viên giao nhiệm vụ cho các em
tại nhà tìm hiểu, chuẩn bị một nội dung nào đó, yêu cầu học sinh về nhà làm bài
tập, tự trả lời một số câu hỏi tình huống liên quan đến bài học, vận dụng kiến
thức vào thực tiễn của cuộc sống và sản xuất.
Giáo viên cũng có thể cho học sinh thực hiện ngay tại lớp như tự nghiên
cứu mục nào đó trong SGK, tự quan sát một hình vẽ, một đoạn phim…để tìm ra
câu trả lời. Khi giao nhiệm vụ cho học sinh giáo viên chú ý đến tính vừa sức với
từng đối tượng để tạo điều kiện thuận lợi và gây hứng thú cho các em học tập.
Việc dạy cách học, tự học, tự rèn của HS được hướng vào các yêu cầu sau:
- Làm cho học sinh biết tự học, tự vận dụng;
- Luôn liên hệ với thực tiễn của cuộc sống và sản xuất;
- Làm cho học sinh biết hợp tác và chia sẻ trong học tập;
- Tận dụng sự hỗ trợ của CNTT để truy cập kiến thức;
- Coi trọng sự khám phá, kỹ năng thực hành;
- Học phương pháp nghiên cứu đi từ phân tích đối tượng để tìm giải pháp
giải quyết tình huống.
7. Công tác phối hợp
Kết hợp với các đoàn thể trong nhà trường đẩy mạnh phong trào thi đua
học tập, các cuộc thi tìm hiểu kiến thức cấp THCS, các trò chơi, hoạt động ngoại
khóa, các hoạt động trãi nghiệm sáng tạo, tham quan thực tế nếu có điều kiện.
Kết hợp với phụ huynh để gia đình nắm được tình hình hoạt động học tập
của con em mình, kịp thời nhắc nhở đôn đốc việc thực hiện nội quy cũng như
việc học của các em, từ đó giúp cho các em học tập tốt tại nhà và nâng dần kết
quả học tập.
Kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, đoàn thể địa phương thường xuyên liên
hệ với gia đình học sinh, nắm bắt hoàn cảnh, điều kiện kinh tế gia đình, điều
kiện học tập của các em, đặc biệt là đối với những học sinh có hoàn cảnh khó
khăn để có giải pháp hỗ trợ kịp thời về vật chất và tinh thần nhằm tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho các em đến lớp và học tập tốt.
Kết hợp với chính quyền địa phương trong việc quản lí chặt các dịch vụ
trò chơi điện tử, kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, gia đình học sinh trong việc
quản lí giờ giấc của các em.
V. KẾT LUẬN
Mỗi thầy cô giáo phải có sự nhận thức đúng đắn về đổi mới căn bản, toàn
diện về giáo dục và đào tạo; đổi mới PPDH và KTĐG là nhiệm vụ trọng tâm và
thường xuyên trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập ở trường THCS;
có ý thức nâng cao lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm trong nghề nghiệp.
Giáo viên phải tích cực nghiên cứu đầu tư trong thiết kế bài giảng, vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực phù hợp với
đối tượng học sinh; chuẩn bị tốt, đầy đủ nội dung kiến thức cần truyền đạt cho
học sinh và các đồ dùng dạy học, dụng cụ thực hành thí nghiệm.
Khi lên lớp phải biết cách tổ chức các hoạt động giáo dục, dẫn dắt học
sinh tích cực, chủ động trong việc tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức, đánh thức khả
năng tư duy sáng tạo của học sinh.
Hướng dẫn tốt việc tự ghi bài, tính độc lập, tự học, tự rèn của học sinh
một cách phù hợp. Động viên tinh thần học tập của học sinh, đặc biệt đối với các
đối tượng yếu, kém.
Rèn luyện cho học sinh tinh thần ý thức trong học tập, hợp tác với giáo viên,
với bạn bè trong việc học tập tại lớp và có phương pháp học tập thật tốt tại nhà.
Bài tham luận được nghiên cứu trong thời gian có hạn và trong quá trình
tổ chức triển khai thực hiện không tránh khỏi phần thiết sót, rất mong được sự
đóng góp của quý đại biểu và các bạn đồng nghiệp để tham luận được hoàn thiện
hơn. Xin chân thành cám ơn!
THAM LUẬN
ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN VẬT LÝ THEO ĐỊNH
HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH Ở TRƢỜNG THCS
Nguyễn Văn Chiến
GV trƣờng THCS TT Cù Lao Dung
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để phát triển phẩm chất và năng lực của người học một cách hiệu quả,
tối ưu thì người giáo viên ở các trường Trung học phải không ngừng học tập,
rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ chủ động tìm ra phương pháp dạy học
(PPDH) hiệu quả nhất có thể đáp ứng lại tinh thần chung của nền giáo dục
nước nhà.
Thông qua việc đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một
chiều, giáo viên (GV) làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh (HS) làm
trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách dạy này HS là
chủ thể hoạt động, GV là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự
tương tác tích cực giữa người dạy và người học.
Thấy rõ tầm quan trọng của việc đổi mới PPDH là cơ sở để điều
chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học và quản lý giáo dục. Vì vậy, đổi mới
PPDH trở thành nhu cầu bức xúc, cần thiết để thúc đẩy ngành giáo dục
phát triển.
Qua nhiều năm công tác, chúng tôi cũng đã tìm hiểu, đúc kết một số
hình thức "Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lý theo định hướng phát
triển năng lực học sinh"
II. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
Đông đảo GV có nhận thức đúng đắn về đổi mới PPDH. Nhiều GV đã
xác định rõ sự cần thiết và có mong muốn thực hiện đổi mới PPDH.
Một số GV đã và đang vận dụng được các PPDH tích cực trong dạy
học; kĩ năng sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại và ứng dụng CNTT vào
việc tổ chức hoạt động dạy học một cách khá hiệu quả.
2. Hạn chế
a. Đối với giáo viên
Hoạt động đổi mới PPDH ở trường THCS chưa mang lại hiệu quả cao.
Truyền thụ tri thức phần lớn vẫn là PPDH truyền thống, một chiều. Một bộ
phận giáo viên không tích cực đầu tư, cải tiến PPDH, không trau dồi chuyên
môn nhằm nâng cao tay nghề. Một số giáo viên mặc dù có ý thức đổi mới
PPDH nhưng việc thực hiện chỉ mang tính hình thức, đối phó chưa thực sự
đem lại hiệu quả mong muốn.
Trong quá trình dạy học còn nặng về truyền thụ lý thuyết, chưa thật sự
được quan tâm đến việc rèn luyện kĩ năng sống, kĩ năng giải quyết vấn đề
thực tiễn cho HS thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp.
b. Đối với học sinh
Về phía học sinh còn thói quen thụ động, ghi nhớ và tái hiện một cách máy
móc, rập khuôn, chưa chủ động tìm tòi, khám phá, lười suy nghĩ, ngại phát biểu.
Một bộ phận học sinh có ý thức học tập không tốt, lười học, thường
xuyên không thuộc bài, không làm bài tập, mất trật tự trong giờ học, vi phạm
nội quy.
c. Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học
Đồ dùng dạy học, phòng học chức năng chưa đáp ứng được yêu cầu.
Trong đó cần phải nói đến độ chính xác của các thiết bị thí nghiệm (TBTN)
là không cao, hư hỏng.
Việc ứng dụng CNTT, sử dụng phương tiện dạy học chưa thực sự rộng
rãi và hiệu quả ở các trường THCS hiện nay.
3. Nguyên nhân
Nhận thức về sự cần thiết đổi mới PPDH, ý thức thực hiện đổi mới của
một bộ phận nhỏ cán bộ quản lí, GV còn chưa cao. Năng lực của đội ngũ GV về
vận dụng PPDH tích cực, sử dụng thiết bị dạy học, ứng dụng CNTT còn hạn chế.
Lý luận về PPDH chưa được nghiên cứu nhiều và việc vận dụng lí
luận vào thực tiễn chưa thực sự hiệu quả, các hình thức tổ chức hoạt động
dạy học còn mang tính bảo thủ. Chỉ chú trọng đến việc đánh giá kết quả
cuối học kì, và chỉ tiêu của môn học chưa thật sự quan tâm nhiều đến việc
đổi mới PPDH.
Cơ chế quản lí hoạt động đổi mới PPDH chưa khuyến khích được sự tích
cực đổi mới PPDH của GV. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất làm cho hoạt
động đổi mới PPDH ở trường THCS chưa thật sự mang lại hiệu quả cao.
Cùng với đổi mới PPDH thì cơ sở vật chất và thiết bị dạy học phải
đảm bảo, đồng bộ. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay phòng học chức năng,
dụng cụ thực hành, thí nghiệm chưa đáp ứng được yêu cầu.
Nội dung chương trình tuy đã được giảm tải nhưng vẫn còn nặng nề,
quá tải. Trong giờ dạy giáo viên chạy theo thời gian, áp lực thi cử, chạy
theo thành tích vẫn còn tồn tại. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc đổi mới
PPDH gặp nhiều khó khăn.
Do cơ chế thị trường và sự phát triển của công nghệ thông tin như:
phim ảnh, games, trang mạng không lành mạnh... tác động tiêu cực đến lối
sống và ý thức học tập của một bộ phận học sinh làm ảnh hưởng phần nào
đến chất lượng giáo dục.
III. GIẢI PHÁP
Những điều cần quan tâm trong việc phát triển năng lực HS
Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và
phát triển năng lực tự học (sử dụng SGK, tìm kiếm thông tin, ghi chép, …),
trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo và tư duy của
học sinh.
GV có thể lựa chọn các phương pháp chung hoặc các phương pháp đặc
thù của mộn học để thực hiện. Tuy nhiên cần phải đảm bảo nguyên tắc “ GV
là người hướng dẫn, HS là người tự tìm ra tri thức”.
Tùy theo nội dung bài học, đối tượng và điều kiện cụ thể ở từng đơn vị
mà GV linh hoạt các hình thức học tập: cá nhân, nhóm, thực hành, viết báo
cáo, … để có thể giúp HS được vận dụng kiến thức vào thực tiễn, qua đó
nâng cao hứng thú học tập.
Cần sử dụng hiệu quả các ĐDDH đối với đặc thù môn học, sử dụng có
hiệu quả việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
1. Cải tiến PPDH và kết hợp đa dạng các PPDH
PPDH truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, vấn đáp, … là các
PPDH quan trọng. Đổi mới PPDH không có nghĩa là loại bỏ những PPDH
truyền thống mà chúng ta cần phải cải tiến thế nào để nâng cao hơn hiệu quả các
PPDH đó. Cụ thể GV có thể áp dụng các PPDH truyền thống và hiện đại song
song để hỗ trợ nhau trong dạy học để có thể phát huy tính tích cực của HS.
Thực tế không có một PPDH nào lúc nào là tối ưu và phù hợp cho tất cả
các nội dung, hay mục tiêu bài học. Vì mỗi PPDH có những ưu điểm và nhược
điểm riêng của nó. Do đó GV cần phải biết vận dụng phối hợp nhuần nhuyễn
các PPDH trong tiến trình dạy học để các phương pháp này hỗ trợ lẫn nhau,
giúp cho HS không bị nhàm chán và tiếp thu kiến thức một cách chủ động,
tích cực.
2. Vận dụng PPDH giải quyết vấn đề
Ở PPDH giải quyết vấn đề nhằm mục tiêu phát triển khả năng tư duy,
khả năng nhận biết các tình huống có vấn đề và tự bản thân giải quyết các
tình huống đó. Tình huống có vấn đề thường là những tình huống chứa đựng
các mâu thuẫn trong nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp HS tự
mình lĩnh hội tri thức, qua đó phát huy tính tích cực nhận thức của HS.
PPDH này thường được GV sử dụng giảng dạy trong phần đặt vấn đề ở môn
VL và trong các nội dung chuyển ý giữa các nội dung bài học nhằm kích
thích óc tìm tòi, tư duy, suy nghĩ về vấn đề mới ở HS.
3. Vận dụng PPDH đóng vai (PPDH theo tình huống)
Đóng vai là PPDH tổ chức cho HS thực hành một số cách ứng xử nào đó
trong một tình huống giả định, gắn liền với thực tiễn đời sống và nghề nghiệp.
Thông qua việc đóng vai của HS sẽ tạo điều kiện HS độc lập kiến tạo tri thức
trong mối tương tác giữa kiến thức và thực tiễn, ngoài ra có thể rèn luyện cho
HS những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trước những diễn biến trong đời
sống thực tiễn.
Trong PPDH này có thể HS phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến
nhiều môn học hoặc nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau gắn liền với thực tiễn đời
sống hằng ngày. Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của HS đây cũng là
PPDH quan trọng gắn liền việc dạy học trong nhà trường với thực tiễn đời sống.
4. Vận dụng PPDH định hướng hành động
Là PPDH làm cho hoạt động trí óc và tay chân kết hợp chặt chẽ với
nhau. Trong quá trình học tập HS thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn
thành các sản phẩm hành động, có sự kết hợp linh hoạt giữa các hoạt động trí
tuệ và hoạt động tay chân. Việc vận dụng PPDH này có ý nghĩa quan trọng
trong việc thực hiện kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà
trường và xã hội. Đối với bộ môn Vật lí THCS thì PPDH này thường được
GV sử dụng trong những tiết dạy học thí nghiệm thực hành.
5. Sử dụng ĐDDH và ứng dụng CNTT trong dạy học
ĐDDH có vai trò quan trọng trong việc đổi mới PPDH, thông qua việc
sử dụng các ĐDDH sẽ làm tăng cường tính trực quan trong dạy học thí
nghiệm, dạy học thực hành. Việc sử dụng ĐDDH có tác dụng giúp cho việc
dạy học tránh được tình trạng dạy “chay”, dạy “ suông” dẫn đến hiệu quả tiết
dạy thấp.
Thông qua việc sử dụng các ĐDDH sẽ giúp các em nắm chắc kiến
thức, rèn luyện được kĩ năng, kĩ xảo, tính thận trọng, chính xác, sự kiên trì,
óc sáng tạo... HS thấy hứng thú hơn trong học tập.
Ứng dụng CNTT trong dạy học đang là xu thế học tập ngày nay, là
phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Bên cạnh sử dụng các ĐDDH
trực quan thì ứng dụng CNTT sử dụng các phần mềm bỗ trợ trong dạy học sẽ
giúp HS hứng thú, tích cực hơn trong học tập.
6. Sử dụng các kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo
Kĩ thuật dạy học là cách thức hành động của GV và HS trong các
tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học.
Có những kĩ thuật dạy học chung, có những kĩ thuật dạy học riêng đặc thù
của từng môn học. Nhưng GV sử dụng các kĩ thuật dạy học đều hướng tới
việc phát huy tích tích cực của HS trong học tập. Ngày nay các kĩ thuật
dạy học được chú trọng sử dụng trong dạy học nhằm phát huy tính tích
cực, sáng tạo của người học như: trò chơi học tập, sử dụng sơ đồ tư duy,
dạy học theo trạm, dạy học theo chủ đề,…
IV. KẾT LUẬN
Để góp phần định hướng sự phát triển năng lực của học sinh. Trong
những năm học qua tôi đã vận dụng đề tài này vào việc dạy học Vật lí đối với
đối tượng học sinh của trường. Tuy kết quả đạt được chưa cao, song cũng giúp
đại đa số học sinh cải thiện khá tốt kết quả môn Vật lý.
Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng đề tài này tôi rút ra được một số
bài học kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy như sau:
- Phải nắm vững chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lý ở cấp THCS.
- GV phải có kĩ năng xác định mục tiêu dạy học đa dạng hoá của từng bài,
từng đơn vị kiến thức.
- GV phải khéo léo vận dụng các PPDH, tổ chức cho học sinh hoạt động,
thích thú trong việc chiếm lĩnh kiến thức. Vì những hiện tượng vật lí đó có thể
rất quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta như : gió thổi, mây
trôi, nước sôi, vật nổi, …những hiện tượng tưởng chừng như hiển nhiên đó, để
nghiên cứu và trả lời được câu hỏi vì sao lại thế thường gây được ấn tượng mạnh
vào tâm lí, sự hiếu kì của học sinh. Nhưng trong quá trình dạy học giáo viên
không được quên rằng xử lí các tình huống sư phạm một cách hợp lí, tế nhị sẽ
tạo được ấn tượng sâu sắc với lứa tuổi học sinh THCS.
V. KIẾN NGHỊ
- Thường xuyên mở các hội nghị chuyên đề về phương pháp giảng dạy
môn Vật lý để các giáo viên được giao lưu, học tập kinh nghiệm lẫn nhau.
- Đồ dùng thí nghiệm cần có sự chính xác cao.
- Cần phải có phòng học bộ môn để các giờ học GV dùng TN biểu điễn,
thực hành,...được diễn ra thuận lợi và hiệu quả.
Trên đây là một số suy nghĩ, kinh nghiệm đã được tôi vận dụng vào thực
tiễn giảng dạy trong chương trình VL ở Trường chúng tôi, bước đầu đã đem lại
kết quả khá tốt.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng còn gặp một số khó khăn và
không tránh khỏi thiếu sót. Bản thân tôi rất mong quý Đại biểu, Thầy Cô giáo
đến dự Hội thảo nhận xét, đánh giá và cho những ý kiến bổ sung để tôi có điều
kiện hoàn thiện và bản thân nâng cao thêm kinh nghiệm, kiến thức về chuyên
môn để ngày càng giảng dạy được tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
THAM LUẬN
CÔNG TÁC SỬ DỤNG VÀ LÀM ĐỒ DÙNG DẠY HỌC
MÔN VẬT LÝ Ở THCS
Nguyễn Ngọc Hồng
Giáo viên trường THPT An Thạnh 3
I- ĐẶT VẤN ĐỀ
Vật lí (VL) là một bộ môn khoa học thực nghiệm, vì vậy việc sử dụng thí
nghiệm (TN) trong dạy học VL ở trường phổ thông không chỉ là công việc bắt
buộc, mà nó còn là một trong những biện pháp quan trọng giúp nâng cao chất
lượng dạy học, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh (HS).
Một trong những tác dụng của TN VL là tạo ra sự trực quan sinh động trước mắt
HS; là cách thức hoạt động của thầy và trò; giúp cho trò tự chiếm lĩnh kiến thức
kĩ năng, kĩ xảo. Ngoài ra, TN VL còn góp phần giúp cho HS củng cố niềm tin
khoa học nhằm hình thành thế giới quan duy vật biện chứng cho HS. Vì vậy việc
sử dụng, tự làm, cải tiến đồ dùng dạy học (ĐDDH) là một trong những yếu tố
đặc biệt quan trọng trong giảng dạy môn vật lý. ĐDDH còn có tác dụng giúp
cho việc dạy học môn VL tránh được tình trạng dạy “chay”, dạy “ suông” dẫn
đến hiệu quả tiết dạy thấp. Trong những năm qua, do trường chưa có phòng
chức năng, thiết bị được cấp theo danh mục của Bộ GDĐT nhưng vẫn còn thiếu,
kém chất lượng hoặc hư hỏng do thời gian sử dụng dài, bảo quản chưa tốt.
Từ những lý do nêu trên, thực tế bản thân tôi và các bạn đồng nghiệp
trong quá trình giảng dạy bộ môn vật lý, chúng tôi đã sử dụng, cải tiến, tự làm
một số ĐDDH nhằm khắc phục được một số nhược điểm của đồ dùng dạy học
hiện có và tự làm một số đồ dùng dạy học chưa được cấp phát đáp ứng được yêu
cầu trong dạy học bộ môn, nhằm đạt được mục tiêu của một tiết dạy, đồng thời
tạo sự hứng thú cho học sinh tham gia học tập môn vật lý. Sự đam mê và hứng
thú đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của trường THPT An Thạnh 3
với bộ môn vật lý THCS.
II- THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN.
Trong thực tế giảng dạy môn vật lý ở trường THPT An Thạnh 3 nói chung
môn vật lý THCS nói riêng trong nhiều năm qua việc sử dụng các bộ thí nghiệm
trong dạy và học Vật lí THCS là hoạt động thường xuyên của mỗi giáo viên. Song
để khai thác tốt các tiện ích, công dụng của các bộ thí nghiệm hiện có hay tự làm
thêm (cái chưa có) hoặc cải tiến lại một số ĐDDH (đã hư hỏng, kém chất lương)
nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn VL thì không nhiều người
làm được, không thường xuyên làm được. Sở dĩ có thực trạng trên, theo tôi là do
một số nguyên nhân sau:
1- Một số thiết bị còn thiếu, những thiết bị đã có thì hư hỏng một phần
hoặc hỏng toàn phần.
2- Một số bộ thí nghiệm thiếu chính xác còn sai số nhiều, kém chất lượng.
3- Một phần khác không kém phần quan trọng chính là ở đội ngũ giáo viên,
chúng ta chưa mạnh dạn tìm tòi, nghiên cứu sử dụng các TNVL để mang lại hiệu quả.
4- TN chưa được đưa vào trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
HS, điều đó có ảnh hưởng đến thái độ của cả người dạy và người học.
5- Do chưa có phòng chức năng, nên việc chuẩn bị TN, vận chuyển các bộ
TN từ lớp này sang lớp khác, rồi từ phòng thiết bị lên lớp học …còn gặp nhiều
khó khăn.
6- Ngoài ra, cũng cần phải thừa nhận rằng việc sửa chữa, bảo quản
ĐDDH của một bộ phận GV hiện nay nói chung chưa tích cực, còn ngại khó khi
chuẩn bị trước TN, mang các bộ dụng cụ TN đến lớp.
7- Các bộ dụng cụ TN không đủ để cho số lượng nhóm học sinh trên lớp
thực hiện, thường được GV sử dụng thí nghiệm biểu diễn cho HS quan sát.
Trong thực tế giảng dạy môn vật lý THCS ở trường THPT An Thạnh 3
trong nhiều năm qua, tôi nhận thấy còn gặp một số khó khăn khi dạy môn vật lý
9 Chương II. Điện từ học và Chương III. Quang học như sau :
- HS không quan sát được hiện tượng vật lý sẽ xảy ra như thế nào?
- GV diễn giảng, liên hệ thực tế đa số học sinh vẫn không nắm chắc được bài.
- Khi sử dụng TN ảo HS dễ nhìn, dễ hình dung nhưng chưa thực tiễn và
rất khó áp dụng kiến thức trong thực tế.
- Tiết học cảm thấy nhàm chán, HS không hứng thú với môn học, dư thời gian.
- Có những thí nghiệm mà học sinh ngồi những dãy bàn cuối lớp sẽ không
quan sát thí nghiệm được.
- HS chỉ nghe giảng sự phát huy tính tích cực, chủ động chưa cao.
III - GIẢI PHÁP.
Giải pháp 1. Công tác sử dụng ĐDDH dạy học.
GV nhận thức được việc sử dụng ĐDDH sẽ nâng cao chất lượng dạy học,
giờ dạy sẽ sinh động và học sinh hiểu bài hơn.
GV thường xuyên rèn luyện kỹ năng sử dụng ĐDDH, tự làm và cải tiến
một số ĐDDH nhằm nâng cao khả năng sử dụng ĐDDH để thí nghiệm vào dạy
học có hiệu quả hơn.
1.1. Khi tiến hành thí nghiệm.
Đối với bài học tôi thường hướng dẫn HS thực hiện theo SGK như sau:
- Trước hết giáo viên giới thiệu từng phần tử trong thí nghiệm.
-Yêu cầu HS nêu được:
+ Mục đích thí nghiệm.
+ Mô tả thí nghiệm.
- Tiến hành thí nghiệm mà giáo viên đã chuẩn bị.
- Từ thí nghiệm HS quan sát giải quyết vấn đề.
1.2. Đối với bài thực hành.
Đầu tiên, dẫn dắt học sinh tạo ra tình huống có vấn đề và học sinh mong
muốn được giải quyết vấn đề đó.
Hướng dẫn học sinh xây dựng phương án thí nghiệm.
Để giải quyết vấn đề thì phải làm thí nghiệm. Vậy thì cần dụng cụ gì và
làm như thế nào?.
Yêu cầu HS sẽ đề xuất các phương án thí nghiệm (nêu được những dụng
cụ cần có, cách tiến hành, cách đo số liệu và xử lí số liệu).
Giáo viên cùng học sinh phân tích các phương án của học sinh.
Để thí nghiệm được thực hiện thành công thì giáo viên phải chuẩn bị thật kỹ
tiết dạy: Giáo án, ĐDDH…; hình dung các phương án thí nghiệm học sinh đề xuất,
để khi học sinh đề xuất các phương án thí nghiệm thì giáo viên phải hướng dẫn học
sinh phân tích xem phương án nào hay, phương án nào cần phải bổ sung.
Thực tế, không phải thí nghiệm nào cũng có ĐDDH để TN.
- Nếu không có dụng cụ TN: Theo tôi, giáo viên vẫn nên hướng dẫn học
sinh xây dựng các phương án thí nghiệm (thí nghiệm tư duy). Sau đó, giáo viên
có thể cho học sinh xem thí nghiệm mô phỏng trên máy tính (TN ảo).
- Có những bộ thí nghiệm không thể đo chính xác được định lượng thì
giáo viên vẫn giới thiệu thí nghiệm, cách tiến hành, cách xử lí số liệu và sau đó
giáo viên cho học sinh số liệu để học sinh xử lí số liệu đó, cách viết kết quả thí
nghiệm. (bài vận hành máy biến thế, xác định điện trở của dây dẫn bằng am pe
kế và vôn kế, xác định công suất điện của các dụng cụ điện…)
Giải pháp 2. Công tác làm đồ dùng dạy học.
Chúng tôi tự làm và cải tiến một số ĐDDH môn vật lý THCS hiện nay Bộ
GDĐT chưa cấp phát hoặc hiệu quả thấp.
Cơ sở để chúng tôi tiến hành tự làm và cải tiến ĐDDH này là:
- Lắp ráp thí nghiệm nhanh chóng, đơn giản.
- Kết quả thí nghiệm chính xác.
- Thời gian hoàn thành thí nghiệm ngắn.
- Hiện tượng quan sát được trong thí nghiệm rõ ràng.
ĐDDH tự làm đều dựa trên mục tiêu cơ bản của bài dạy và nội dung thí
nghiệm được tiến hành theo sách giáo khoa.
Thực tế khi tự làm, cải tiến ĐDDH là xuất phát từ sự đam mê và kinh
nghiệm nảy sinh trong quá trình giảng dạy bộ môn vật lý. Với ý tưởng làm để
giúp tiết dạy của giáo viên khi đứng lớp dạy đạt hiệu quả tốt hơn.
Qua đó góp phần thực hiện được nhiệm vụ GD hiện nay: “Mỗi thầy giáo,
cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.
2.1. Tự làm ĐDDH :
2.1.1. Gương phẳng nghiêng 450.
- Nhờ gương phẳng nghiêng
góc 450
mà học sinh cả lớp quan sát
được khi GV tiến hành biểu diễn thí
nghiệm .
- Học sinh ngồi cuối lớp vẫn
quan sát được thí nghiệm qua gương.
2.1.2. Bộ thí nghiệm về hiện tượng cảm ứng điện từ: (Vật lí 9).
2.1.3. Mô hình động cơ điện một chiều
Lắp ráp sử dụng
2.1.4. Bộ chuông điện: Dùng cho hoạt động ngoại khóa
2.1.5. Bộ ròng rọc
2.2. ĐDDH đƣợc cải tiến :
2.2.1. Bộ thí nghiệm quang hình vật lý 7, Chƣơng I. Quang học.
2.2.2. Bộ thí nghiệm quang hình vật lý 9
Lắp ráp sử dụng
2.3. Ưu điểm .
Dự thi “ Đồ dùng dạy học” các cấp:
Năm học Tên ĐDDH Cấp huyện Cấp tỉnh
2012-2013 Mô hình “ Ròng rọc”. III
2013-2014
Bộ TN“ Hiện tượng cảm ứng điện từ” II II
Mô hình“ Động cơ điện một chiều”. KK KK
2015- 2016 Bộ thí nghiệm quang hình THCS III KK
IV- Mô tả sử dụng “Mô hình động cơ điện một chiều” trong dạy và học
Bài 28. Động cơ điện một chiều( SGK vật lý 9, trang 76 ).
Dựa vào mô hình học sinh nêu cấu tạo và nguyên tắc hoạt động
của“Động cơ điện một chiều”.Từ mô hình này giáo viên có thể tiến hành
nhiều thí nghiệm:
- Chứng minh chiều của lực điện từ phụ thuộc vào chiều của dòng điện.
- Dự đoán hiện tượng khi khung dây dẫn kín đặt trong từ trường (không
đặt trong từ trường) và đặt song song hoặc vuông góc với các đường sức từ.
- Phát huy được tư duy, phân tích, tổng hợp cho học sinh.
- Cả lớp quan sát được hiện tượng vật lí rõ ràng.
Bố trí TBDH: Bố trí các bộ phận như hình ảnh minh họa bên dưới
Mô hình Hình chụp từ sgk
HS tìm hiểu từng bộ phận của động cơ và chỉ ra các bộ phận chính của nó.
Lắp ráp mô hình động cơ điện một chiều và đặt vấn đề:
- Dự đoán xem có hiện tượng gì xảy ra với khung dây khi có dòng điện
chạy qua?
- Khi đổi chiều dòng điện thì hiện tượng gì tiếp tục xảy ra với khung dây?
- Làm TN kiểm tra dự đoán của HS.
- Nêu nguyên tắc hoạt động của động cơ điện một chiều?
Kết quả thí nghiệm:
- Khi đặt khung dây dẫn trong từ trường và cho dòng điện chạy qua khung
thì dưới tác dụng của lực điện từ, khung dây sẽ quay.
- Nếu thay đổi chiều dòng điện thì khung dây dẫn sẽ quay theo chiều
ngược lại.
Chú ý: GV có thể khắc sâu kiến thức
cho HS như hình ảnh minh họa:
- Lấy 2 thanh nam châm ra khỏi
mô hình, đóng mạch điện khung dây có
quay không. Tại sao?.
- Tiến hành thí nghiệm kiểm chứng.
Kết quả thí nghiệm: Khung dây dẫn
sẽ không quay. Vì khung dây dẫn không
đặc trong từ trường
V- KẾT LUẬN
Thông qua thực tiễn dạy học môn vật lý THCS ở trường THPT An Thạnh
3, chúng tôi nhận thấy việc sử dụng, cải tiến và làm một số đồ dùng dạy học
hiện có để phục vụ giảng dạy. Sự sáng tạo cải tiến và tự làm đồ dùng dạy học
này đạt được bốn vấn đề lớn trong khi dạy thực nghiệm:
- Tổ chức học sinh lắp ráp thí nghiệm nhanh chóng đơn giản.
- Kết quả thí nghiệm chính xác.
- Thời gian hoàn thành thí nghiệm ngắn.
- Hiện tượng quan sát được trong thí nghiệm rõ ràng.
Trong quá trình nghiên cứu, sử dụng và tự làm ĐDDH thì trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ của giáo viên được nâng lên, đặc biệt là khả năng sử dụng thiết
bị hay ĐDDH, phục vụ tốt yêu cầu trong giảng dạy. Đối với học sinh, giáo viên
có thể hướng dẫn các em tự làm ĐDDH hỗ trợ cho mình, trong quá trình tự làm
ĐDDH các em sẽ nắm chắc kiến thức, rèn luyện được kĩ năng, kĩ xảo, tính thận
trọng, chính xác, sự kiên trì, óc sáng tạo... HS thấy hứng thú học tập, có ý thức
thi đua với bạn bè để làm đúng, làm đẹp, làm tốt…
Thông qua việc sử dụng ĐDDH phù hợp nhiều nhóm học sinh đã nhanh
chóng đưa ra nhận xét xác thực hơn. Nếu có những sai lệch từ phía học sinh thì
giáo viên dựa vào ĐDDH có sẵn để giải thích rõ hơn một lần nữa giúp các em
hiểu bài ngay tại lớp. Tôi cảm nhận được nhờ có ĐDDH mà lớp học trở nên sinh
động hơn và giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức bài học tốt hơn. Có thể nói
ĐDDH là phương tiện không thể thiếu trong tiết dạy thực nghiệm, nhưng tự làm
ĐDDH là vấn đề không dễ, đòi hỏi ở người làm có sự sáng tạo và tâm huyết với
nghề nghiệp.
Tôi thiết nghĩ đây là một biện pháp tự bồi dưỡng thường xuyên về chuyên
môn của giáo viên một cách thiết thực nhất; mỗi giáo viên có thể dành chút thời
gian cho việc tự nghiên cứu làm đồ dùng dạy học có liên quan đến bộ môn mình
giảng dạy; tiết kiệm những nguyên vật liệu còn sử dụng được; đồng thời cũng
góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh và hoàn thành nhiệm vụ
được giao./.
THAM LUẬN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC BỒI DƢỠNG HỌC SINH GIỎI
MÔN VẬT LÝ Ở TRƢỜNG THCS
Võ Hoàng Phƣơng
GV trƣờng THCS Đại Ân 1
I- ĐẶT VẤN ĐỀ
Phong trào học sinh giỏi (HSG), là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
mà giáo viên và nhà trường luôn phấn đấu trong việc thực hiện nhiệm vụ năm
học, luôn được sự quan tâm của các ngành, các cấp, nhà trường, gia đình và xã
hội; phong trào HSG là một trong những căn cứ để nhà trường và Phòng
GD&ĐT đánh giá thực trạng đội ngũ, chất lượng giáo dục và xét thi đua khen
thưởng trong từng năm học. Qua phong trào HSG nhằm góp phần triển khai tích
cực phong trào thi đua "Dạy tốt - Học tốt", khuyến khích đội ngũ thầy cô giáo và
học sinh tích cực đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy năng lực tư duy,
sáng tạo, dạy giỏi, học giỏi; góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, tạo ra sân
chơi lành mạnh để các em khẳng định trí tuệ, năng lực, năng khiếu của bản thân;
góp phần đào tạo nhân tài cho địa phương và đất nước.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và ý nghĩa thiết thực nêu trên, tôi xin đưa ra
“Một số biện pháp tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi môn Vật lý ở trường THCS”.
II. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
- Được sự chỉ đạo, quan tâm của Ban giám hiệu nên hằng năm luôn có
xây dựng kế hoạch cụ thể, lâu dài trong công việc bồi dưỡng HSG.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn tốt, có tâm huyết với nghề, có kinh
nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG.
- Hằng năm trường có động viên, khen thưởng cho những giáo viên đạt
thành tích trong phong trào bồi dưỡng HSG.
- Cơ sở vật chất luôn đảm bảo cho công tác bồi dưỡng HSG của nhà trường.
2. Khó khăn
- Hiện nay lượng công việc của giáo viên ngày càng tăng, số tiết thực dạy
lại không giảm (18-19t/tuần) vừa phải bảo đảm chất lượng chuyên môn vừa phải
hoàn thành cả nhiệm vụ khác mà nhà trường giao phó, đồng thời phải tham gia
quá nhiều phong trào của giáo viên và cả phong trào của học sinh, do đó cường
độ làm việc quá nhiều nên đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG cũng có phần bị
hạn chế.
- Học sinh học chương trình chính khóa phải học quá nhiều môn, cộng
thêm chương trình bồi dưỡng HSG, các em phải tham gia đủ thứ các loại phong
trào nên rất hạn chế về thời gian tự học cũng như đầu tư cho việc học bồi dưỡng.
- Một số học sinh tham gia học bồi dưỡng còn mang tính chất phong trào,
chưa thật sự cố gắng. Ý thức, nhận thức về công tác HSG của gia đình học sinh
và cộng đồng dân cư ở địa phương còn rất hạn chế.
- Số lượng học sinh để chọn đội tuyển dự thi rất ít (01 đến 03
HS/môn/năm)
- Công tác kiểm tra giám sát, đôn đốc khích lệ của nhà trường chưa được
thường xuyên, chưa kịp thời. Mới chỉ dừng lại ở mức độ quan tâm nhưng chưa thật
sự sâu sát, khoa học. Kinh phí hỗ trợ cho việc bồi dưỡng HSG không có nên phần
nào cũng ảnh hưởng đến kết quả trong công tác bồi dưỡng HSG của giáo viên.
- Việc tạo nguồn chưa thực hiện tốt, còn mang tính hình thức, không
mang tính liên tục từ lớp 6 đến lớp 9. Giáo viên chưa thật sự tâm huyết.
* Vì vậy để nâng cao hiệu quả trong công tác bồi dưỡng HSG, tôi xin đề
ra một số giải pháp để khắc phục các vấn đề như sau:
III. GIẢI PHÁP
Giải pháp 1. Đối với nhà trƣờng:
- Thứ nhất, phải xây dựng kế hoạch và triển khai vào đầu năm học. Trong
đó, phải xây dựng các tiêu chí, chỉ tiêu phấn đấu thi đua cụ thể đến từng tổ bộ môn,
cán bộ, giáo viên và ký cam kết thi đua. Tùy theo điều kiện thực tế của nhà trường
để tiến hành xây dựng chế độ bồi dưỡng, đãi ngộ, khen thưởng đối với giáo viên,
học sinh đạt thành tích trong phong trào cho hợp lý nhằm khích thích, thúc đẩy
phong trào phát triển.
- Thứ hai, về công tác tuyển chọn học sinh giỏi, phải chủ động phát hiện,
tuyển chọn (thông qua giáo viên chủ nhiệm, kết quả học tập, thi tuyển…) và tiến
hành bồi dưỡng học sinh giỏi ngày từ đầu cấp học. Nhà trường phải xây dựng kế
hoạch, phân công giáo viên bồi dưỡng, lập thời khóa biểu ôn luyện một cách
nghiêm túc. Đồng thời có kế hoạch theo dõi, kiểm tra, đôn đốc giáo viên trong
quá trình tiến hành bồi dưỡng.
- Thứ ba, đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng trong đội ngũ giáo viên và
học sinh về ý thức trách nhiệm, sự quyết tâm cao, khơi dậy truyền thống của nhà
trường về phong trào học sinh giỏi (Ngày mùng 3 tết hằng năm là ngày họp mặt
các cựu HSG và đội tuyển HSG của trường); trong quá trình tiến hành bồi dưỡng
học sinh giỏi, phải có sự phân công hợp lý, chọn người giao việc, chọn những
giáo viên có đủ phẩm chất, năng lực, tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt huyết, đặc
biệt là chuyên môn giỏi, nhiều kinh nghiệm, đạt nhiều thành tích trong phong trào
học sinh giỏi.
- Thứ tƣ, đội tuyển học sinh giỏi phải được công bố, vinh danh trước toàn
trường, gia đình; đồng thời phải phân tích rõ nhiệm vụ học tập cụ thể của các em
ở trường cũng như ở nhà. Có kết hoạch phối hợp với gia đình cùng theo dõi, đôn
đốc việc học tập của các em.
- Thứ năm, đẩy mạnh phong trào xã hội hóa giáo dục, kết hợp với nhà
trường có chế độ động viên, khuyến khích, khen thưởng kịp thời, hợp lý đối với
những giáo viên và học sinh đạt thành tích.
- Thứ sáu, cần tạo điều kiện cho giáo viên học tập nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, dự các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn do Phòng
và Sở GD&ĐT tổ chức.
- Thứ bảy, trang bị đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng dạy học, tài liệu tham
khảo, công nghệ thông tin, … (học trực tuyến, giáo án E-Learing) để hỗ trợ tích
cực cho công tác dạy và học.
Giải pháp 2. Đối với giáo viên
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói “Muốn có trò giỏi thì trước
hết phải có thầy giỏi”. Bởi vì, người thầy có vai trò rất quan trọng trong việc
định hướng và truyển thụ kiến thức, phương pháp học tập đến các em. Cho
nên, người thầy phải là người “có tài, có đức”. Vì vậy đối với giáo viên cần
phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Thứ nhất, giáo viên phải là người có đức, có tài, có uy tín và có lòng
nhiết huyết cao. Một điều quan trọng hàng đầu đó là, truyền cho học sinh niềm
say mê, hứng thú, tinh thần ham học, sự quyết tâm cao, tinh thần trách nhiệm và
tính kỷ luật trong học tập. Tinh thần là điều cần thiết nhất, vì vậy người thầy
ngoài việc dạy học kiến thức, kỹ năng, phương pháp học tập còn phải biết kết
hợp với biện pháp tâm lý trong việc giáo dục tư tưởng học sinh. Hay nói cách
khác người thầy phải là người truyền lửa về sự quyết tâm và lòng đam mê môn
học cho các em.
- Thứ hai, phải có tinh thần trách nhiệm cao, có tâm huyết với nghề, xem
công tác bồi dưỡng HSG là một nhiệm vụ không thể thiếu (không ôn luyện HSG
cảm thấy buồn, khi nghe học sinh của trường hoặc của môn mình ôn luyện đạt
giải thì cảm thất rất vui), tích cực trau dồi, tích lũy chuyên môn, đọc nhiều, hiểu
sâu để có kiến thức sâu rộng; thường xuyên tham khảo tài liệu, tìm tòi tư liệu
trên các phương tiện thông tin…Đặc biệt quan trọng là phải tìm hiểu, nghiên
cứu các chuyên đề, đề thi, đáp án, từ các kỳ thi do Phòng, Sở tổ chức để so sánh,
rút kinh nghiệm cho bản thân và bổ sung cho tài liệu ôn thi; tích cực học hỏi
kinh nghiệm từ những giáo viên có kinh nghiệm trong và ngoài huyện.
- Thứ ba, giáo viên phải có kế hoạch, nội dung, chương trình cụ thể, chi
tiết và chia nhiều nội dung kiến thức trong công tác ôn thi học sinh giỏi. Xác
định rõ trọng tâm kiến thức giảng dạy cho từng khối lớp để tránh trùng lấp.
Chương trình bồi dưỡng cần phải đầy đủ các phân môn Vật lý: Cơ-Nhiệt-Điện-
Quang-phương án thí nghiệm và phải chọn nội dung dạy như thế nào cho hợp lí
(đó là kinh nghiệm riêng của mỗi giáo viên). Tránh tình trạng ôn thi tràn lan,
không trọng tâm, không đúng hướng, thích đâu dạy đó…(không soạn nội dung
trước) gây khó khăn, quá tải cho học sinh mà không đem lại kết quả tốt. Sau mỗi
nội dung giáo viên cần phải kiểm tra rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc, phải
tìm ra nguyên nhân (nếu không đạt là do đâu, ở trò hay ở thầy, ở chương trình
hay đề cương ôn thi chưa hoàn chỉnh...) đề ra hướng khắc phục, điều chỉnh cho
nội dung tiếp theo.
- Thứ tƣ, trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, thời lượng ôn thi trên
lớp với đội tuyển không nhiều. Vì vậy, việc hướng dẫn học sinh tự học là quan
trọng. Thực tế cho thấy nếu học sinh nào có tinh thần và phương pháp tư học tốt
thì sẽ thành công cao hơn các em khác. Ngoài ra giáo viên và phụ huynh cần chú
ý đến đặc điểm, cá tính của từng em để động viên, phát huy sở trường và
phương pháp học của các em. Ngoài ra, giáo viên cần hướng dẫn học sinh và cả
phụ huynh học sinh cách sử dụng quỹ thời gian của mình một cách hợp lý và
hiệu quả, tránh lãng phí thời gian, cũng như phân bố thời gian nghỉ ngơi hợp lý
để đảm bảo sức khỏe cho các em. Cụ thể hướng dẫn học sinh xây dựng thời gian
biểu tự học, nghỉ ngơi ở nhà một cách cụ thể và cần sự kiểm tra, đôn đốc trong
việc thực hiện thời gian biểu của phụ huynh đối với các em.
- Thứ năm, người thầy cần bồi dưỡng học sinh qua nhiều hình thức, trực
tiếp và gián tiếp (qua bài giảng trên lớp, thăm hỏi ngoài giờ, qua e-mail, cho bài
tập về nhà, chỉ định trong thời gian nào hoàn thành…Đặc biệt là phải có biện
pháp kiểm tra, đôn đốc đối với các em trong việc thực hiện kết quả học tập, rèn
luyện, giao việc…không nên tin tưởng quá vào các em. Thực tế cho thấy nhiều
em khi thầy giáo thăm hỏi: em làm bài tập xong chưa, học bài nào rồi, hoàn
thành công việc thầy đã giao chưa? thì học sinh trả lời học thuộc, làm tốt tất cả,
nhưng khi kiểm tra thì không thuộc, không làm, không biết gì cả mà thời gian thi
học sinh giỏi đã gần kề như thế thì quá muộn.
- Thứ sáu, về việc tuyển chọn học sinh vào đội tuyển, giáo viên bộ môn
là người trực tiếp đề cử, tuyển chọn. Vì vậy, giáo viên cần chú ý các yêu cầu:
+ Theo dõi, tuyển chọn ngay từ lớp đầu cấp (lớp 6), để có kế hoạch bồi
dưỡng lâu dài.
+ Tuyển chọn ngoài điểm số cao, cần chú ý đến kỹ năng, sở trường, sự
thông minh, cần cù, chăm học, sáng tạo và sự yêu thích đối với môn học.
+ Có tinh thần trách nhiệm, ham học và chịu khó, đặc biệt là sự quyết tâm
cao trong phong trào học sinh giỏi mà giáo viên và nhà trường đã tin tưởng giao
phó. Thực tế cho thấy, có những học sinh tham gia mang tính chất thời vụ, chạy
theo phong trào chứ không có tinh thần trách nhiệm và quyết tâm. Vì vậy, không
đạt được kết quả như mong muốn.
Giải pháp 3. Đối với học sinh ôn luyện
Bồi dưỡng HSG là một quá trình lâu dài. Cần phải bồi dưỡng sự hứng thú
và tính tích cực, độc lập nghiên cứu và tinh thần tự giác của HS.
- Học sinh phải nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc được chọn vào
đội tuyển ôn luyện HSG đồng thời đại diện cho toàn thể học sinh của trường
tham gia kỳ thi HSG cấp huyện, tỉnh...
- Học sinh phải yêu thích môn học, say mê trong học tập và ham học hỏi.
- Học sinh phải cần cù, chăm chỉ học tập và rèn luyện, ngoài đọc sách
giáo khoa, cần đọc thêm sách tham khảo và tài liệu khác...để hỗ trợ kiến thức.
Giải pháp 4. Đối với phụ huynh
- Quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình ôn luyện, thường
xuyên động viên, nhắc nhở tích cực con em trong học tập.
- Luôn giữ liên lạc với giáo viên phụ trách ôn luyện, nhà trường để nắm
tình hình học tập của con em mình.
- Xây dựng thời gian biểu cho các em học tập ở nhà, và cần sự kiểm tra,
đôn đốc trong việc thực hiện thời gian biểu, thực hiện chế độ nghỉ ngơi, ăn uống
hợp lý...
Giải pháp 5. Sự phối hợp giữa các tổ chức trong và ngoài trƣờng và
khen thƣởng
- Để hỗ trợ cho công tác dưỡng HSG có hiệu quả, các bộ phận gián tiếp
như: Chi bộ, Ban giám hiệu, Công đoàn, các tổ chức xã hội khác… cũng cần
quan tâm đặc biệt và có những biện pháp hỗ trợ đúng mức như:
* Đối với GV dạy bồi dưỡng HSG:
+ Giảm bớt tiết, bớt công tác kiêm nghiệm.
+ Bồi dưỡng cho giáo viên theo đúng quy định tài chính (nếu có)
+ Hỗ trợ các tài liệu ôn tập cần thiết về công tác bồi dưỡng HSG
+ Khen thưởng, tuyên dương khi có HS đạt giải HSG cấp Huyện, Tỉnh...
* Đối với HSG:
+ Quan tâm theo dõi và đáp ứng các nhu cầu về phòng học, các tài liệu ôn
tập (Tặng tập, viết, sách tham khảo... cho những em HSG có hoàn cảnh khó khăn)
+ Bồi dưỡng, hỗ trợ chi phí ăn uống, đi lại cho các em tham gia buổi thi
+ Khen thưởng, tuyên dương các em khi đạt giải HSG cấp Huyện, Tỉnh.
IV. KẾT LUẬN
Giáo dục luôn là nhiệm vụ then chốt thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Thực tế ngày nay càng khẳng định việc bồi dưỡng HSG là
một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển nền giáo dục (những năm
gần đây thì đội tuyển HSG của Việt Nam đã gặt hái được khá nhiều huy chương
trên đấu trường Quốc tế). Nguồn lực học sinh giỏi là một trong những yếu tố thúc
đẩy chất lượng của học sinh và giáo viên trong nhà trường. Vì thế công tác bồi
dưỡng HSG phải được quan tâm và tiến hành thường xuyên, lên tục. Để thực hiện
điều đó thì giáo viên là lực lượng nòng cốt, quyết định sự thành công trong công
tác bồi dưỡng HSG.
Việc bồi dưỡng học sinh giỏi giống như chúng ta ươm một mầm non.
Nếu chúng ta biết rào, biết thường xuyên chăm sóc, vun xới thì mầm non sẽ
xanh tốt và kết quả đem lại hoa thơm, trái ngọt. Để đạt được kết quả đó, tôi nghĩ
rằng Người thầy giáo cần phải có một cái “tâm”, đó là cái tâm cho ngành
giáo dục.
Trên đây là kinh nghiệm và một số giải pháp tổ chức bồi dưỡng HSG môn
Vật lý của trường THCS Đại Ân 1. Trong quá trình thực hiện không thể tránh
khỏi phần thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của các cấp lãnh đạo, đồng
nghiệp để tôi có thể tìm ra các giải pháp bồi dưỡng HSG đạt hiệu quả cao nhất./.
THAM LUẬN
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG DẠY HỌC MÔN VẬT LÍ Ở TRƢỜNG THCS
Nguyễn Văn Hải
GV trƣờng THCS An Thạnh 1
I. Đặt vấn đề
Vật lý là môn khoa học của thực nghiệm, vì vậy trong giảng dạy môn Vật
lý làm thí nghiệm là một khâu có vai trò rất quan trọng, nó không chỉ làm tăng
tính hấp dẫn của môn học, giúp học sinh hiểu sâu sắc các kiến thức lý thuyết mà
còn làm tăng tính nhạy bén trực quan của học sinh.
Việc lồng ghép các thí nghiệm vào trong các bài học Vật lý là một biện
pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, góp phần tích cực trong
hoạt động truyền đạt kiến thức cho học sinh.
Đổi mới phương pháp trong dạy học Vật lý phải gắn liền với việc tăng cường
sử dụng thí nghiệm trong quá trình dạy học. Bên cạnh đó, có một số bài khối lượng
kiến thức khá nhiều, hầu hết trong các bài đều có thí nghiệm. Nếu dạy theo phuong
pháp truyền thống và với những thí nghiệm thật thì đôi khi sẽ không chủ động được
thời gian.
Mặt khác, với điều kiện cơ sở vật chất hiện nay thì nhiều dụng cụ thí
nghiệm chưa đáp ứng được yêu cầu của bài học (Thiết bị thí nghiệm không đồng
bộ, chất lượng kém, sai số lớn, thiết bị sử dụng thời gian dài hỏng nhiều...). Do
đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và tiến hành các thí nghiệm ảo
trên máy vi tính là một giải pháp quan trọng trong việc giảng dạy, giúp học sinh
tiếp thu kiến thức một cách nhanh chóng, sâu sắc, tin tưởng vào kiến thức mà
mình chiếm lĩnh được, đồng thời tạo hứng thú học tập cho học sinh trong từng
bài học.
Trong những năm qua, Lãnh đạo trường THCS An Thạnh 1 nói riêng và
các trường trong huyện Cù Lao Dung nói chung đã có kế hoạch tổ chức các hoạt
động để hỗ trợ giáo viên trong việc ứng dụng CNTT vào đổi mới phương pháp
dạy học, từ việc nâng cao nhận thức của cán bộ giáo viên đến tập huấn sử dụng
phần mềm, thao giảng, triển khai chuyên đề, đầu tư thiết bị hiện đại…Chính vì
vậy đến thời điểm này, phần lớn cán bộ giáo viên của trường đã có thể ứng dụng
CNTT như một công cụ trong đổi mới dạy học.
II. Thực trạng
1. Thuận lợi
- Hiện nay, đa số giáo viên bộ môn Vật lí rất tích cực trong việc ứng dụng
CNTT vào giảng dạy làm cho chất lượng môn Vật lí đạt được hiệu quả cao.
- Được sự quan tâm, động viên của Lãnh đạo nhà trường; sự phối hợp,
cộng tác của giáo viên Tin học trong quá trình trao đổi cũng như cung cấp tư
liệu trong việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy có hiệu quả.
- Trong quá trình ứng dụng CNTT vào môn Vật lí, giáo viên luôn nhận
được sự hợp tác nhiệt tình, có trách nhiệm từ phía học sinh. Qua đó đã phát huy
được tính tích cực chủ động của các em.
- Từ những bài học có ứng dụng CNTT đã góp phần giúp các em suy
nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, từ đó nhận thức vấn đề
một cách thấu đáo.
2. Khó khăn
- Kinh phí đầu tư các thiết bị CNTT nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy
ứng dụng CNTT trong giảng dạy là khá lớn.
- Việc sử dụng và khai thác tiện ích của mạng Internet chưa được giáo
viên thực hiện một cách triệt để và có chiều sâu.
- Một số giáo viên chưa thành thạo trong việc soạn giáo án điện tử bằng
phần mềm Powerpoint. Nên thường dạy bằng cách mô tả, thuyết trình thí nghiệm
(đối với một số thí nghiệm khó thực hiện như: Thí nghiệm xảy ra trong phòng
tối, chân không, nhiệt độ cao...).
III. Các giải pháp
Việc ứng dụng CNTT vào dạy học theo tôi, đây là một trong những
phương pháp đạt hiệu quả cao. Vì thực tế cho thấy, học sinh vừa học, vừa nghe
lại vừa được nhìn và thực hành thì chắc chắn học sinh sẽ hiểu sâu sắc và nắm
được nội dung bài. Qua quá trình trực tiếp giảng dạy tôi rút ra một số kinh
nghiệm trong quá trình ứng dụng CNTT vào bộ môn Vật lí như sau:
1. Sử dụng PowerPoint làm phương tiện trình diễn bài giảng.
PowerPoint là một phương tiện trình diễn sinh động bài giảng thông qua
màu sắc của văn bản, sự phong phú của hình ảnh, các dạng đồ thị và những đoạn
âm thanh, video minh họa ...
Hình ảnh được trình chiếu trên PowerPoint khác với một tranh tĩnh, bên
cạnh sự phong phú của những lựa chọn phù hợp, còn có thể mô tả chi tiết và đưa
ra lần lượt những chỉ dẫn cần thiết minh hoạ cho bài giảng.
Sử dụng PowerPoint để mô phỏng quá trình Vật lí mà tranh ảnh thường
không thể diễn tả được bản chất của hiện tượng. Ví dụ về sự điều tiết của mắt, có
thể thiết kế để quan sát được sự thay đổi đồng thời vị trí của vật khi tiến dần tới
mắt người quan sát với sự thay đổi độ tụ của thuỷ tinh thể để ảnh của vật vẫn hiện
trên võng mạc.
Một trong những ưu điểm của PowerPoint là có thể đưa vào những đoạn
video dùng mô tả hiện tượng Vật lí mà không thể hoặc khó thực hiện thí nghiệm
trên lớp như hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, tương tác của các vật mang điện,
hiện tượng sét, sự dịch chuyển của ảnh qua thấu kính...
Đặt câu hỏi nêu vấn đề cho bài giảng, hay những câu hỏi tình huống để
hình thành kiến thức thì sự kết hợp của kênh chữ, hình ảnh và âm thanh trên
trang trình diễn sẽ tập trung được sự chú ý của học sinh hơn.
2. Sử dụng phần mềm dạy học
a. Phần mềm soạn giảng ViOLET 1.9
Trong dạy học vật lý, Violet cung cấp công cụ thiết kế mạch điện, cho phép
vẽ được tất cả các loại mạch điện trong chương trình THCS như mạch song
song, mạch nối tiếp, mạch kết hợp... Với các thiết bị điện như: nguồn một chiều,
nguồn xoay chiều, điện trở, biến trở, cuộn cảm, tụ điện, vôn kế, ampe kế, đèn,
công tắc,… dưới dạng các ký hiệu như quy định trong SGK hoặc các hình ảnh
giống thật, sinh động.
Các giá trị của các thiết bị điện có thể thay đổi được trong lúc trình chiếu
bài giảng, biến trở và công tắc có thể tương tác được như thật, đèn có thể sáng
hoặc tắt khi có hoặc không có dòng điện, đặc biệt các thiết bị đo như vôn kế hay
ampe kế sẽ luôn chỉ đúng giá trị thực tế bất kể mạch như thế nào. Chính vì vậy
công cụ thiết kế mạch điện sẽ rất hữu ích trong việc kiểm chứng kết quả của các
bài toán mạch điện, hướng dẫn thí nghiệm lắp mạch điện, trong các chương trình
Vật lý.
b. Phần mềm thí nghiệm vật lý ảo Crocodile Physics 6.05
Phần mềm thí nghiệm ảo Crocodile Physics 6.05 được xây dựng dựa trên
khả năng thao tác nhanh của các thế hệ máy tính cá nhân hiện nay. Nó có khả
năng thiết lập được hầu hết các thí nghiệm trong chương trình Vật lý phổ thông,
cung cấp một số chủ đề có sẵn theo chương trình và có thể tạo ra được các chủ
đề mới theo từng nội dung thí nghiệm. Khi xây dựng thí nghiệm ảo bằng phần
mềm Crocodile Physics 6.05 chúng ta có thể đưa vào các hình ảnh được ghi lại
sẵn từ ngoài chương trình, có thể sắp xếp các dụng cụ thí nghiệm trong một hoạt
cảnh giống như không gian của một phòng thí nghiệm.
Thiết kế thí nghiệm ảo bằng phần mềm Crocodile Physics 6.05 chúng ta có
thể sử dụng chuột một cách dễ dàng để lựa chọn, di chuyển hay thay đổi các
dụng cụ thí nghiệm. Mặt khác cũng có thể di chuyển, copy một dụng cụ hoặc
toàn bộ thí nghiệm đã xây dựng ra môi trường Word hoặc Powerpoint để đưa
hình ảnh, kết quả thí nghiệm vào bài giảng điện tử hay giáo án điện tử.
Phần mềm Crocodile Physics 6.05 mô phỏng rất tốt các thí nghiệm vật lý
về điện, quang ở chương trình THCS. Trong mạch điện có thể nối dây bằng cách
rê chuột, khi di chuyển dụng cụ thí nghiệm thì dây nối được tự động thay đổi
theo vị trí các thiết bị bị. Khi ta đóng mạch các dụng cụ như đèn sẽ phát sáng,
loa phát ra âm thanh, thấy được chiều của dòng điện trên từng đoạn mạch, nếu
dòng qua dụng cụ quá tải thì dụng cụ sẽ bị hỏng (cháy) giống như thật.
Trong các thí nghiệm về quang hình đường truyền của các tia sáng được
thiết kế một cách chính xác, đặc biệt trong thí nghiệm về sự tán sắc của ánh sáng
có thể thấy rõ được vị trí của từng màu đơn sắc; có thể di chuyển hoặc xoay
chuyển nguồn sáng hoặc dụng cụ thí nghiệm, thay đổi các màu sắc khác nhau
của ánh sáng.
3. Khai thác thông tin trên Internet làm tư liệu phục vụ giảng dạy
Một trong các điều kiện quan trọng nhất để tăng cường hiệu quả giáo dục
và chất lượng giảng dạy nói chung và môn Vật lí nói riêng là tìm kiếm nguồn tư
liệu phong phú và phù hợp để bổ sung những nội dung được quy định trong
chương trình và sách giáo khoa. Internet – Nguồn tư liệu vô tận cho các bài
giảng sẽ giúp giáo viên và học sinh đáp ứng được yêu cầu đó.
Những tư liệu được lựa chọn sẽ làm cho bài giảng trở nên phong phú, sống
động, hấp dẫn hơn, học sinh sẽ tiếp thu bài giảng một cách tự nhiên hơn. Internet là
một công cụ vô cùng hiệu quả cho việc khai thác tư liệu phục vụ cho các bài giảng.
Việc lựa chọn tư liệu như thế nào cho phù hợp với nội dung bài giảng?
Nhiều giáo viên có kinh nghiệm trong khai thác Internet phục vụ công tác giảng
dạy của mình đã chỉ ra rằng: Khi tìm kiếm, lựa chọn tư liệu cho bài học điều
quan trọng nhất là tính phù hợp. Tư liệu phù hợp là tư liệu liên quan đến nội
dung bài giảng; có nội dung, hình thức đa dạng (thông tin, hình ảnh, video...) và
được chọn lọc; lượng thông tin bổ sung vừa đủ không ít quá, cũng không nhiều
quá làm loãng nội dung.
Ngoài những thông tin có thể tìm kiếm trực tiếp trên website, việc liên lạc
trực tiếp bằng thư điện tử (e-mail) với các cá nhân, trang «truonghocketnoi », cơ
sở nghiên cứu có thể tìm thấy trên Internet hay giữa các đồng nghiệp với nhau
có thể giúp cung cấp những tư liệu chuyên môn quý.
IV. Kết quả
Qua nghiên cứu tìm hiểu về phương tiện kĩ thuật và ứng dụng CNTT tìm
kiếm thông tin trên Internet vào dạy học. Tôi đã vận dụng được một số biện pháp
trên vào quá trình dạy học môn vật lý, tôi thấy rằng nếu như trước đây bộ môn vật
lý rất xa vời và nhàm chán đối với HS, nhưng khi sử dụng CNTT vào dạy học thì
kết quả học tập của HS tiến bộ một cách rõ rệt. GV và HS sử dụng được khá thành
thạo máy vi tính đồng thời trao đổi thông tin với nhau qua Internet.
Từ sự nỗ lực và cố gắng trong việc ứng dụng CNTT vào dạy và học năm
học 2015-2016, chất lượng bộ môn Vật lí những lớp do tôi trực tiếp giảng dạy
đạt được kết quả như sau :
Khối 9
Giỏi Khá Trung bình Yếu Tb trở lên
SL % SL % SL % SL % SL %
TS: 91 17 18.7 36 39.6 37 40.7 01 1.1 90 98.9
IV. Bài học kinh nghiệm
Qua kết quả thành công bước đầu của việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy
môn Vật lí, tôi rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
- Để có được kết quả dạy và học như trên đòi hỏi người giáo viên đầu tư
tốt cho một tiết học bằng cách áp dụng những phương pháp dạy học tích cực phù
hợp với đối tượng học sinh của mình. Đặc biệt là nên ứng dụng CNTT trong dạy
học. Bên cạnh đó còn cần sự hỗ trợ của chuyên môn nhà trường, gia đình, các
đoàn thể để giáo dục học sinh phát triển cả về đức, trí, thể, mĩ…
- Chuẩn bị tốt các đồ dùng TN và làm TN trước khi đến lớp, cần chú ý
đến sự phát triển kiến thức, bồi dưỡng HS khá giỏi, năng khiếu bộ môn, dự kiến
những sai lầm của HS (nếu có) và cách khắc phục.
- Qua thí nghiệm rèn luyện cho các em kĩ năng sử dụng các dụng cụ, lắp
ráp thí nghiệm thành thạo hơn.
- Định hướng thiết kế hoặc thiết kế bài giảng điện tử một cách lôgic và
thiết thực. Không làm phân tán sự chú ý của HS và dàn trải kiến thức.
- Bố trí TN Vật lý theo một quy trình nhất định, xác định được hệ thống
việc làm và cách thao tác của HS khi làm TN các tình huống khác có thể xảy ra
trong quá trình dạy học.
- Sử dụng phần mềm hỗ trợ dạy học với máy tính cần phải lưu ý và biết
cách khắc phục các trở ngại kỹ thuật do hệ thống thiết bị gây nên. GV phải sử
dụng một cách có hiệu quả các phương tiện dạy và học, là người biết sáng tạo
vận dụng những khả năng mà phương tiện đã mang lại cho quá trình dạy học.
V. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện chuyên đề này, tôi nhận thấy để
việc ứng dụng CNTT vào dạy học môn Vật lý nói riêng và các môn học nói
chung đạt được hiệu quả cao thì bản thân người giáo viên phải có tâm huyết, có
kĩ năng sử dụng phần mềm hỗ trợ dạy học. Về phía nhà trường cần có sự động
viên, hỗ trợ trang thiết bị cho những tiết dạy có sử dụng CNTT… Hơn nữa nhà
trường cần tổ chức các phong trào thi đua giảng dạy bằng phương tiện hiện đại,
có tổng kết, biểu dương, khen thưởng. Đẩy mạnh việc tổ chức triển khai chuyên
đề, các buổi tập huấn việc sử dụng CNTT để việc trao đổi kinh nghiệm giữa các
giáo viên góp phần nâng cao trình độ tin học học cho giáo viên.
Trong quá trình thực hiện không tránh khỏi phần sai sót, rất mong được
sự đóng góp của quý thấy cô trực tiếp giảng day môn Vật lý để tham luận được
hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn./.
THAM LUẬN
ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
THEO ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
CẤP THCS
Trần Huỳnh Minh Huấn
GV trƣờng THPT An Thạnh 3
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để phát triển phẩm chất và năng lực của người học một cách hiệu quả, tối
ưu thì người giáo viên (GV) ở các trường Trung học phải không ngừng học tập,
rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ, chủ động tìm ra phương pháp dạy học
(PPDH) hiệu quả nhất có thể đáp ứng lại tinh thần chung của nền giáo dục nước
nhà. Bên cạnh đổi mới PPDH thì đánh giá kết quả học tập của học sinh (HS) là
một hoạt động rất quan trọng trong quá trình giáo dục.
Đánh giá kết quả học tập của HS là một quá trình không thể tách rời trong
quá trình dạy học và có thể nói thông qua kiển tra đánh giá (KTĐG) sẽ tạo động
lực thúc đẩy đổi mới PPDH, đổi mới cách thức tổ chức hoạt động dạy học, hoạt
động quản lí,… Nếu thực hiện được việc KTĐG hướng vào đánh giá quá trình
học tập giúp phát triển năng lực người học, thì lúc đó quá trình dạy học sẽ trở nên
tích cực hơn. Vì vậy, việc đổi mới KTĐG kết quả học tập của HS là một vấn đề
cần thiết và không thể thiếu được của đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.
Thông qua việc đổi mới PPDH sẽ thúc đẩy việc đổi mới KTĐG theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Chuyển cách
dạy thụ động, truyền thụ một chiều “đọc- chép”, GV làm trung tâm sang cách
dạy lấy HS làm trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách
dạy này HS là chủ thể hoạt động, GV là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo
nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học.
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của việc đổi mới PPDH và đổi mới
KTĐG có vai trò rất to lớn đến việc nâng cao chất lượng giáo dục, là cơ sở để
điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học và quản lý giáo dục. Vì vậy, đổi mới
PPDH và KTĐG trở thành nhu cầu bức xúc, cần thiết của ngành giáo dục và
toàn xã hội ngày nay. Qua nhiều năm công tác, chúng tôi đã tìm hiểu, tổng kết
một số hình thức “Đổi mới PPDH và KTĐG” nhằm phát triển phẩm chất, năng
lực của người học một cách tích cực, hiệu quả nhất nói chung, của môn vật lý
THCS nói riêng.
II. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
Đông đảo GV có nhận thức đúng đắn về đồi mới PPDH. Nhiều giáo viên
đã xác định rõ sự cần thiết và có mong muốn thực hiện đổi mới đồng bộ PPDH
và KTĐG.
Một số GV đã vận dụng được các PPDH, KTĐG tích cực trong dạy học;
kĩ năng sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại và ứng dụng CNTT vào việc tổ
chức hoạt động dạy học một cách hiệu quả; vận dụng được quy trình KTĐG
theo hướng phát triển mới.
2. Hạn chế
a. Về PPDH
Hoạt động đổi mới PPDH ở trường THCS chưa mang lại hiệu quả cao.
Truyền thụ tri thức một chiều vẫn còn là PPDH chủ đạo của nhiều GV. Số GV
thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các PPDH cũng như sử dụng
các PPDH phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS còn chưa nhiều.
Trong quá trình dạy học còn nặng về truyền thụ lý thuyết, việc rèn luyện kĩ
năng sống, kĩ năng giải quyết vấn đề thực tiễn cho HS thông qua khả năng vận
dụng tri thức tổng hợp chưa thật sự được quan tâm. Việc ứng dụng CNTT, sử dụng
phương tiện dạy học chưa thực sự rộng rãi và hiệu quả ở các trường THCS.
b. Về KTĐG
Hoạt động KTĐG chưa đảm bảo yêu cầu khách quan, chính xác, công
bằng; việc kiểm tra đánh giá chủ yếu yêu cầu tái hiện kiến thức và đánh giá qua
điểm số đã dẫn đến tình trạng truyền thụ kiến thức một chiều theo lối “đọc –
chép” thuần túy. HS học tập thiên về ghi nhớ, ít quan tâm vận dụng kiến thức.
Quy trình biên soạn đề KTĐG còn mạng nặng tính chủ quan của người dạy.
Hoạt động KTĐG, hoạt động trên lớp còn chưa được quan tâm thực hiện
một cách khoa học và hiệu quả. Nhiều HS còn thụ động trong việc học tập, khả
năng sáng tạo và vận dụng tri thức đã học để giải quyết vấn đề thực tiễn của HS
còn hạn chế.
3. Nguyên nhân
Nhận thức về sự cần thiết đổi mới PPDH và KTĐG và ý thức thực hiện
đổi mới của một bộ phận nhỏ cán bộ quản lí, GV còn chưa cao. Năng lực của
đội ngũ GV về vận dụng các PPDH tích cực, sử dụng thiết bị dạy học, ứng dụng
CNTT phục vụ công tác giảng dạy còn hạn chế.
Lý luận về PPDH và KTĐG chưa được nghiên cứu nhiều và việc vận
dụng lí luận vào thực tiễn chưa thực sự hiệu quả, các hình thức tổ chức hoạt
động dạy học, giáo dục còn mang đậm tính bảo thủ. Chỉ chú trọng đến đánh giá
cuối kì, chưa thật sự quan tâm nhiều đến việc đánh giá thường xuyên trong quá
trình dạy học, giáo dục.
Cơ chế quản lí hoạt động đổi mới PPDH và KTĐG chưa khuyến khích
được sự tích cực đổi mới PPDH và KTĐG của GV. Đây là nguyên nhân quan
trọng nhất làm cho hoạt động đổi mới PPDH và KTĐG ở trường THCS chưa
thật sự mang lại hiệu quả cao.
III. GIẢI PHÁP
1. Đổi mới PPDH theo hƣớng phát triển năng lực học sinh
1.1. Những chú ý cần quan tâm trong việc phát triển năng lực HS
Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và
phát triển năng lực tự học(sử dụng SGK, tìm kiếm thông tin, ghi chép, …), trên
cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của HS.
GV có thể lựa chọn các phương pháp chung hoặc các phương pháp đặc
thù của mộn học để thực hiện. Tuy nhiên cần phải đảm bảo nguyên tắc “ GV là
người hướng dẫn, HS là người tự tìm ra tri thức”.
Tùy theo nội dung bài học, đối tượng và điều kiện cụ thể ở từng đơn vị
mà GV linh hoạt các hình thức học tập: cá nhân, nhóm, thực hành, viết báo cáo,
… để có thể giúp HS được vận dụng kiến thức vào thực tiễn, qua đó nâng cao
hứng thú học tập.
Cần sử dụng hiệu quả các ĐDDH đối với đặc thù môn học, sử dụng có
hiệu quả việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
1.2. Cải tiến PPDH và kết hợp đa dạng các PPDH
PPDH truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, vấn đáp, … là các PPDH
quan trọng. Đổi mới PPDH không có nghĩa là loại bỏ những PPDH truyền
thống mà chúng ta cần phải cải tiến thế nào để nâng cao hơn hiệu quả các
PPDH đó. Cụ thể GV có thế áp dụng các PPDH truyền thống và hiện đại song
song để hỗ trợ nhau trong dạy học để có thể phát huy tính tích cực của HS.
Vd: Thay vì mô tả một hiện tượng vật lí thì ta có thể kết hợp ứng dụng
CNTT cho HS quan sát hiện tượng một cách trực quan.
Thực tế không có một PPDH nào lúc nào cũng là tối ưu phù hợp cho tất
cả các nội dung, mục tiêu bài học. Vì mỗi PPDH có những ưu điểm và nhược
điểm riêng, do đó GV cần phải biết vận dụng phối hợp nhuần nhuyễn các PPDH
trong tiến trình dạy học để các PPDH hỗ trợ nhau giúp cho người học có cảm
giác không bị nhàm chán mà học tập một cách chủ động, tích cực trong quá
trình tiếp thu kiến thức.
1.3. Vận dụng PPDH giải quyết vấn đề
Ở PPDH giải quyết vấn đề nhằm mục tiêu phát triển khả năng tư duy, khả
năng nhận biết các tình huống có vấn đề và tự bản thân giải quyết các tình
huống đó. Tình huống có vấn đề thường là những tình huống chứa đựng các
mâu thuẫn trong nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề giúp HS tự mình
lĩnh hội tri thức, qua đó phát huy tính tích cực nhận thức của HS. PPDH này
thường được GV sử dụng giảng dạy trong phần đặt vấn đề ở môn Vật lí và
trong các nội dung chuyển ý giữa các nội dung bài học nhằm kích thức óc tìm
tòi, tư duy, suy nghĩ về vấn đề mới ở HS.
1.4. Vận dụng PPDH đóng vai (PPDH theo tình huống)
Đóng vai, là PPDH tổ chức cho HS thực hành một số cách ứng xử nào đó
trong một tình huống giả định, gắn liền với thực tiễn đời sống và nghề nghiệp.
Thông qua việc đóng vai sẽ tạo điều kiện cho HS kiến tạo tri thức theo cá nhân
trong mối tương tác giữa kiến thức và thực tiễn. Ngoài ra có thể rèn luyện cho
HS những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trước khi thực hành trong thực tiễn.
Trong PPDH này có thể HS phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến
nhiều môn học hoặc nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau gắn liền với thực tiễn đời
sống hằng ngày. Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của HS đây cũng là
PPDH quan trọng gắn liền việc dạy học trong nhà trường với thực tiễn đời sống.
1.5. Vận dụng PPDH định hướng hành động
Là PPDH làm cho hoạt động trí óc và tay chân kết hợp chặt chẽ với nhau.
Trong quá trình học tập HS thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các
sản phẩm hành động, có sự kết hợp linh hoạt giữa các hoạt động trí tuệ và hoạt
động tay chân. Việc vận dụng PPDH này có ý nghĩa quan trọng trong việc thực
hiện kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.
Đối với bộ môn Vật lí THCS thì PPDH này thường được GV sử dụng trong
những tiết thí nghiệm thực hành.
1.6. Sử dụng ĐDDH và ứng dụng CNTT trong dạy học
ĐDDH có vai trò quan trọng trong việc đổi mới PPDH, thông qua việc sử
dụng các ĐDDH sẽ làm tăng cường tính trực quan trong dạy. Việc sử dụng
ĐDDH có tác dụng tránh được tình trạng dạy “chay”, dạy “ suông” dẫn đến
hiệu quả tiết dạy thấp.
Thông qua việc sử dụng các ĐDDH sẽ giúp các em sẽ nắm chắc kiến
thức, rèn luyện được kĩ năng, kĩ xảo, tính thận trọng, chính xác, sự kiên trì, óc
sáng tạo... HS thấy hứng thú hơn trong học tập.
Ứng dụng CNTT trong dạy học đang là xu thế học tập ngày nay, là
phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Bên cạnh sử dụng các ĐDDH trực
quan thì ứng dụng CNTT sử dụng các phần mềm bỗ trợ trong dạy học sẽ giúp
HS hứng thú, tích cực hơn trong học tập.
1.7. Sử dụng các kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo
Kĩ thuật dạy học là cách thức hành động của GV và HS trong các tình
huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Có
những kĩ thuật dạy học chung, có những kĩ thuật dạy học riêng đặc thù của từng
môn học. Nhưng GV sử dụng các kĩ thuật dạy học đều hướng tới việc phát huy
tích tích cực của HS trong học tập. Ngày nay các kĩ thuật dạy học được chú
trọng như: trò chơi học tập, sử dụng sơ đồ tư duy, dạy học theo trạm, dạy học
theo chủ đề, …
2. Đổi mới kiểm tra đánh giá
2.1. Định hướng đổi mới kiểm tra đánh giá
Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình
độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của HS, nhằm tạo cơ sở cho những
điều chỉnh sư phạm của GV, các giải pháp của các cấp quản lí giáo dục và cho
bản thân HS, để HS học tập đạt kết quả tốt hơn.
Đánh giá kết quả học tập của HS cần sử dụng phối hợp nhiều công cụ,
phương pháp và hình thức khác nhau (đánh giá qua các hoạt động trên lớp;
đánh giá qua hồ sơ học tập, vở học tập; đánh giá qua việc HS báo cáo kết quả
thực hiện một dự án học tập, nghiên cứu khoa học kĩ thuật, báo cáo kết quả thực
hành, thí nghiệm; đánh giá qua bài thuyết trình, bài viết, bài trình chiếu, video
clip, …) về kết quả thực hiện nhiêm vụ học tập. GV có thể sử dụng các hình
thức đánh giá nói trên thay cho các bài kiểm tra hiện hành.
Xu hướng đổi mới KTĐG kết quả học tập của HS tập trung vào các
hướng sau:
- Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học sang sử dụng
các hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kì.
- Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực
của người học. Nghĩa là chuyển đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu, … sang
đánh giá năng lực vận dụng, năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn.
- Chuyển từ đánh giá là một hoạt động độc lập với các quá trình dạy học sang
việc tích hợp dánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một PPDH.
- Tăng cường ứng dụng CNTT trong KTĐG, sử dụng hiệu quả các phần
mềm hỗ trợ thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ khó, độ
phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lí phân tích, lí
giải kết quả đánh giá.
2.2. Việc làm cần thiết trong việc đổi mới KTĐG
Dựa vào chuẩn kiến thức kĩ năng (theo hướng tiếp cận năng lực) từng
môn học, từng lớp học, từng cấp học.
Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá
của GV và đánh giá của HS, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia
đình, cộng đồng.
Kết hợp giữa hình thức đánh giá trắc nghiệm khác quan và tự luận.
Tiến hành đánh giá kết quả học tập của HS theo ba công đoạn cơ bản: thu
thập thông tin, phân tích và xử lí thông tin, xác nhận và ra quyết định điều chỉnh
hoạt động dạy, hoạt động học.
Trong đánh giá thành tích học tập của HS không chỉ đánh giá kết quả mà
chú ý cả quá trình học tập. Không chú trọng nhiều vào khả năng tái hiện tri thức
mà phải chú trọng vào khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các vấn
đề phực hợp.
Cần phối hợp nhuần nhuyễn các hình thức, phương pháp KTĐG khác
nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực hành. Kết hợp
giữa tự luận và trắc nghiệm khách quan.
Trong KTĐG nên chú trọng đánh giá cả một tiến trình dạy học thông qua
các hệ thống câu hỏi, GV có thể rèn luyện cho HS khả năng tự đánh giá bản
thân, đánh giá lẫn nhau giữa các nhóm.
Phải đánh giá được các năng lực khác nhau của HS, đảm bảo tính khách
quan, đảm bảo sự công bằng, đảm bảo tính toàn diện, đảm bảo tính công khai,
đảm bảo tính giáo dục, đảm bảo tính phát triển.
2.3. Các hình thức KTĐG
2.3.1. Kiểm tra miệng
GV đã sử dụng phương pháp vấn đáp tái hiện trong dạy học, GV đặt câu
hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời. Hình thức KTĐG này
được xem là phương pháp có giá trị sư phạm.
Ngoài sử dụng PP vấn đáp tái hiện, GV còn có thể sử dụng PP Vấn đáp
giải thích – minh họa, vấn đáp tìm tòi trong quá trình giảng dạy để ghi điểm cho
HS. Các phương pháp này GV đóng vai trò là người điều khiển, tổ chức giúp
HS tự lực tìm tòi kết quả, tự lực chiếm lĩnh kiến thức. Qua đó HS sẽ có niềm
vui của sự khám phá, trưởng thành thêm về trình độ tư duy.
2.3.2. Kiểm tra TN thực hành
GV sử dụng phương pháp Hoạt động nhóm trong dạy học, giao cho các
nhóm cùng một nhiệm vụ hay mỗi nhóm một nhiệm vụ khác nhau. Kết quả làm
việc của mỗi HS trong nhóm sẽ đóng góp cho kết quả học tập của nhóm và kết quả
của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp.
Việc KTĐG thông qua TNTH các thành viên mỗi nhóm sẽ phải làm việc
tích cực, không ỷ lại vào một người hiểu biết trong nhóm và sẽ năng động hơn, HS
tích cực tham gia vào các tình huống trong TN thực hành, qua đó chiếm lĩnh
những kiến thức và kĩ năng một cách tự giác, sáng tạo theo hướng hợp tác nhóm.
Ngoài phương pháp hoạt động nhóm, GV có thể sử dụng phương pháp
“Đóng vai” trong quá trình TN thực hành. Phương pháp này có ưu điểm giúp
HS rèn luyện kỹ năng ứng xử, tạo sự hứng thú, sự chú ý và làm nảy sinh óc
sáng tạo cho HS.
2.3.3. Kiểm tra viết
a. Kiểm tra viết 15 phút
Bài kiểm tra 15 phút có thể tiến hành vào đầu hoặc cuối tiết học. Đối với
hình thức này GV có thể sử dụng các phương pháp động não, phương pháp hoạt
động nhóm, phương pháp giải thích – minh họa để ghi nhận kết quả học tập của
HS để lấy điểm số làm kết quả KTĐG kết quả học tập của 1 cá nhân hoặc của
các cá nhân trong một nhóm.
b. Kiểm tra viết 1 tiết và kiểm tra HK
Đối với hình thức này GV thường sử dụng kết hợp các phương pháp dạy
học như: phương pháp giải thích – minh họa, phương pháp động não, phương
pháp giải quyết vấn đề, …
Bài kiểm tra viết 1 tiết và kiểm tra HK thường được tiến hành sau một
chương hoặc một số bài.
Để KTĐG trong trường hợp này thường phối hợp giữa trắc nghiệm khách
quan và tự luận theo tỉ lệ trên cơ sở xây dựng ma trận của đề. Đề kiểm tra bao
gồm các câu hỏi, bài tập (tự luận và trắc nghiệm) theo 4 mức độ yêu cầu: Nhận
biết - Thông hiểu - Vận dụng - Vận dụng cao.
Căn cứ vào mức độ phát triển năng lực của HS ở từng học kỳ và từng
khối lớp, GV và nhà trường xác định tỉ lệ các câu hỏi, bài tập theo 4 mức độ
yêu cầu trong các bài kiểm tra trên nguyên tắc đảm bảo sự phù hợp với đối
tượng HS và tăng dần tỉ lệ các câu hỏi, bài tập ở mức độ yêu cầu vận dụng, vận
dụng cao.
So sánh câu hỏi/đề thi tự luận và trắc nghiệm khách quan
Nội dung so sánh Tự luận Trắc nghiệm khách
quan
1./ Độ tin cậy Thấp hơn Cao hơn
2./ Độ giá trị Thấp hơn Cao hơn
3./ Đo năng lực nhận thức Như nhau
4./ Đo năng lực tư duy Như nhau
5./ Đo kỹ năng, kỹ xảo Như nhau
6./ Đo phẩm chất Tốt hơn Yếu hơn
7./ Đo năng lực sáng tạo Tốt hơn Yếu hơn
8./ Ra đề Dễ hơn Khó hơn
9./ Chấm điểm Thiếu chính xác và
thiếu khách quan hơn
Chính xác và khách
quan hơn
10./ Thích hợp Qui mô nhỏ Qui mô lớn
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Khi thực hiện một số biện pháp trên tôi rút ra được một số bài học:
- Tạo cho HS có thái độ tích cực hơn trong học tập môn Vật lí, HS hứng
thú, tích cực hơn, tạo điều kiện cho HS phát huy tính tư duy và sáng tạo.
- Giúp các em dễ dàng nắm vững các kiến thức của bài học để có thể vận
dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống.
- Giúp các em rèn luyện đượcc kĩ năng thuyết trình, có được những suy
luận, lập luận, sự tự tin khi phát biểu trước đám đông.
- Đánh giá được thực lực của HS, để từ đó có hướng giảng dạy phù hợp
với từng đối tượng
V. KIẾN NGHỊ
Tăng cường xây dựng CSVC, phòng học bộ môn ở nhà trường THCS.
Nghiên cứu lại số lượng HS trên lớp học để có thể áp dụng đổi mới
PPDH một cách hiệu quả./.
THAM LUẬN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TRONG GIỜ THỰC HÀNH THÍ NGHIỆM MÔN VẬT LÍ CẤP THCS
Lê Thị Cẩm Vân
GV trƣờng THCS An Thạnh Nam
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Làm các thí nghiệm Vật lí ở nhà trường là một trong các biện pháp quan
trọng nhất để phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học Vật lí. Điều này quyết
định bởi đặc điểm của khoa học Vật lí vốn là khoa học thực nghiệm và bởi
nguyên tắc dạy học là nguyên tắc trực quan “học đi đôi với hành”.
Thường thì, do kinh nghiệm sống học sinh đã có một số vốn hiểu biết nào
đó về các hiện tượng Vật lí. Nhưng không thể coi những hiểu biết ấy là cơ sở
giúp họ tự nghiên cứu Vật lí bởi vì trước một hiện tượng Vật lí, học sinh có thể
có những hiểu biết khác nhau, thậm chí là sai. Ví dụ: Học sinh nào cũng thấy
được mọi vật rơi là do Trái Đất hút, nhưng không ít học sinh lại cho rằng vật
nặng thì rơi nhanh hơn vật nhẹ. Vì vậy, khi giảng dạy Vật lí, giáo viên một mặt
phải tận dụng những kinh nghiệm sống của học sinh, nhưng mặt khác phải chỉnh
lí, bổ sung, hệ thống hoá những kinh nghiệm đó và nâng cao lên mức chính xác,
đầy đủ bằng các thí nghiệm Vật lí, nhờ đó mà tránh được tính chất giáo điều,
hình thức trong giảng dạy.
Làm các thí nghiệm Vật lí có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận
thức của học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học,
vì qua đó các em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên
trì, điều đó rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh
tham gia hoạt động thực tế. Do được tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết
bị và đo lường các đại lượng,..., các em có thể nhanh chóng làm quen với những
dụng cụ và thiết bị dùng trong đời sống và sản xuất sau này.
Đặc biệt, việc thực hiện các thí nghiệm Vật lí là rất phù hợp với đặc điểm
tâm, sinh lí và khả năng nhận thức của học sinh, đồng thời tạo điều kiện rèn
luyện cho học sinh các kỹ năng thực hành và thái độ ứng xử trong thực hành,
cần thiết cho việc học tập Vật lí ở các cấp học trên.
II. THỰC TRẠNG
Hiện nay, song song với việc đổi mới phương pháp dạy học, bộ giáo dục
và đào tạo đã đưa về các trường những bộ dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho việc
giảng dạy, nhưng thực tế còn có nhiều vấn đề làm giáo viên ngại làm thí
nghiệm, ngại triển khai cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do thiết bị thí nghiệm chất lượng
kém, có những thiết bị mới chỉ sử dụng một vài lần đã hỏng. Ví dụ như bộ mô
đun lắp ráp mạch điện ở vật lí 7; máy phát điện xoay chiều ở vật lí 9; bộ thí
nghiệm về cân bằng lực - quán tính (máy A tút) ở lớp 8...
Một số trang thiết bị còn thiếu chính xác như nhiệt kế, lực kế, đồng hồ
vạn năng…dẫn đến kết quả thí nghiệm giữa lí thuyết với thực tế khác xa nhau,
thiếu tính thuyết phục đối với học sinh.
Trang thiết bị phục vụ cho thí nghiệm còn thiếu thốn, không đồng bộ giữa
việc hướng dẫn thí nghiệm ở sách giáo khoa với đồ dùng thí nghiệm thực tế (ví
dụ thí nghiệm bài lực điện từ lý 9).
Cơ sở vật chất của trường chưa đủ đáp ứng nhu cầu, thiếu phòng học bộ
môn, do đó tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm gặp nhiều khó khăn.
Phòng thí nghiệm chưa được xắp xếp khoa học và còn là kho chứa đồ dùng dạy
học, việc lấy đồ dùng thí nghiệm chưa thuận tiện. Việc di chuyển thiết bị thí
nghiệm từ phòng học của lớp này sang phòng học của lớp khác sẽ làm cho giáo
viên và học sinh vừa vất vả lại mất nhiều thời gian.
Bài dạy thì dài (nhất là phần điện học vật lý 9) do đó làm thí nghiệm theo
nhóm khó đảm bảo thời gian trong một tiết học. Mặt khác học sinh còn chưa
quen với việc sử dụng các thiết bị thí nghiệm (nhất là học sinh có lực học trung
bình, yếu) các em thường nghịch đồ dùng thí nghiệm và biến nó thành đồ chơi
của riêng mình.
Tất cả những nguyên nhân trên và nhiều nguyên nhân khác làm ảnh
hưởng lớn đến chất lượng thí nghiệm và dẫn đến chất lượng giáo dục trong các
giờ dạy hiệu quả không cao.
II. CÁC GIẢI PHÁP VÀ ỨNG DỤNG
1. Chuẩn bị điều kiện để thực hiện thí nghiệm
Giáo viện phải chuẩn bị thí nghiệm cẩn thận trước khi đưa vào dạy học,
cần suy nghĩ tới các tình huống thí nghiệm không thành công, từ đó tìm ra
nguyên nhân để khắc phục. Giáo viên cần cho học sinh thu thập thông tin qua
kênh chữ, kênh hình ở SGK để xác định mục tiêu của thí nghiệm, dụng cụ cần
cho mỗi thí nghiệm là gì? Cách thức tiến hành thí nghiệm, cách quan sát, ghi
chép những hiện tượng diễn ra.
Để làm thí nghiêm thành công, hạn chế tới mức thấp nhất sự cố diễn ra
ngoài ý muốn và đạt được kết quả thí nghiệm trong thời gian ngắn nhất thì trước
khi cho các em làm thí nghiệm người giáo viên cần lưu ý học sinh một số điểm
trong quá trình làm thí nghiệm. Ví dụ trong bài “Lực đẩy ác si mét” phần “thí
nghiệm kiểm tra” SGK vật lý 8, giáo viên cần lưu ý học sinh:
- Hiệu chỉnh lực kế cho đúng trước khi làm thí nghiệm.
- Bố trí thí nghiệm để lực kế dãn đều theo phương thẳng đứng.
- Quả nặng khi thả vào nước phải chìm hẳn và không chạm vào đáy thành bình.
- Để cố định bình tràn, cần tráng nước ở các cốc B, A trước khi làm thí nghiệm.
- Khi hứng nước, đổ nước từ cốc nọ sang cốc kia phải cẩn thận, tránh để
nước rơi vãi dẫn đến thí nghiệm thiếu chính xác.
Việc lắp ráp dụng cụ thí nghiệm là rất cần thiết, tạo cho học sinh sự linh
hoạt sáng tạo nên phần lớn các thí nghiệm giáo viên không nên lắp sẵn từ trước,
mà phải để cho học sinh tự lắp ráp thí nghiệm.
Hiện nay với bộ thí nghiệm của học sinh các nhà sản xuất cũng đã tính
toán đến thời gian và điều kiện lắp ráp của hoc sinh trong một tiết học, nên đã bố
trí lắp ráp chúng thành bộ. Ví dụ: bộ thí nghiệm về tác dụng từ của dòng điện
xoay chiều (thí nghiệm hình 35.2 + 35.3 SGK vật lý 9) hoặc bộ thí nghiệm về
khảo sát từ phổ, đường sức từ của ống dây có dòng điện chạy qua (Vật lý 9).
Làm như vậy rất tiện lợi cho việc bố trí thí nghiệm, tránh mất nhiều thời gian
vào việc không thật cần thiết. Nhưng cá biệt có những bài mà giáo viên có thể
hướng dẫn một số học sinh lắp ráp trước. Ví dụ như lắp ráp máy phát điện xoay
chiều trong bài 38 SGK vật lý 9.
Kinh nghiệm cho thấy trước mỗi bài dạy có thí nghiệm giáo viên cần
chuẩn bị làm trước thí nghiệm trên đồ dùng thí nghiệm của mỗi nhóm, tìm sự cố
xảy ra từ đó tìm cách khắc phục. Những thí nghiệm khó thành công giáo viên
phải làm thí nghiệm nhiều lần để hướng dẫn học sinh học tập có kết quả tốt nhất.
2. Quản lí hoạt động nhóm học sinh khi làm thí nghiệm
Trong khâu tổ chức lên lớp, cần hướng dẫn học sinh học tập theo nhóm
như sau:
- Làm việc chung cả lớp: Giáo viên nêu vấn đề, nhiệm vụ nhận thức; yêu
cầu học sinh đọc thông tin trong SGK, nghiên cứu hình vẽ,nêu mục đích,
dụng cụ thí nghiệm, cách tiến hành thí nghiệm… giáo viên chia nhóm, giao
nhiệm vụ cho các nhóm hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
- Làm việc theo nhóm:
- Nên chia nhóm có sự tham gia của cả học sinh nam và học sinh nữ, học
sinh có nhiêù trình độ khác nhau như giỏi, khá,trung bình, yếu để các em tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau tạo điều kiện tốt cho việc làm thí nghiệm.
- Giao nhiệm vụ cho nhóm trưởng, nhóm phó: Nhóm trưởng nhận, trả dụng cụ
thí nghiệm điều khiển các bạn trong nhóm cùng làm thí nghiệm. Nhóm phó (thư kí)
ghi chép lại các kết quả thí nghiệm, hiện tượng thí nghiệm cần quan tâm.
- Các thành viên trong nhóm được nhóm trưởng phân công chịu trách
nhiệm (hoặc giám sát) một công việc nào đó.
- Mọi thành viên trong nhóm đều phải có trách nhiệm để hoàn thành thí
nghiệm và đảm bảo an toàn khi làm thí nghiệm.
- Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm (không nhất thiết phải
là nhóm trưởng hay thư kí, mà có thể là một thành viên trong nhóm đại diện
trình bày).
- Làm việc chung cả lớp: Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả thí nghiệm;
thảo luận chung (các nhóm nhận xét, đóng góp ý kiến và bổ sung cho nhau) giải
thích nguyên nhân sai số (nếu có).
Trong khi tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm, giáo viên phải
quản lí tốt hoạt động nhóm nếu không một số học sinh ý thức kém không chú ý
đến việc làm thí nghiệm mà ỷ lại vào bạn, nghịch ngợm làm hỏng đồ dùng thí
nghiệm. Trong giờ học thực hành giáo viên cho điểm bài thực hành nên tổng
hợp chung cả điểm ý thức và điểm nội dung thực hành.
3. Rèn tính tích cực sáng tạo của học sinh qua việc làm thí nghiệm
Khi tổ chức cho các nhóm học sinh làm thí nghiệm giáo viên nên chủ
động giao thời gian cho các nhóm hoàn thành thí nghiệm dể tạo sự thi đua giữa
các nhóm, giúp các thành viên trong nhóm tích cực hơn. Sau đó giáo viên nhận
xét, động viên các nhóm làm việc tích cực nhất, hiệu quả nhất.
Nếu thí nghiệm do giáo viên biểu diễn với sự tham gia tích cực của học
sinh thì cần chọn nơi bố trí thí nghiệm cho học sinh dễ quan sát, giáo viên dễ
thực hiện. Bố trí thí nghiệm không được lộn xộn gây khó khăn cho việc quan sát
của học sinh và không làm cản trở thao tác thí nghiệm của giáo viên.
Các thiết bị dạy học như thí nghiệm, mô hình, tranh vẽ, biểu bảng, băng
hình, SGK… được sử dụng không chỉ là phương tiện minh họa kiến thức, mà là
nguồn tri thức, là phương tiện để học sinh khai thác tìm tòi, phát hiện giải quyết
vấn đề đặt ra, thông qua đó mà chiếm lĩnh kiến thức và rèn luyện kĩ năng. Ví dụ
như: Tạo điều kiện để học sinh tự tay làm thí nghiệm, tự mình quan sát, đo đạc
và rút ra nhận xét, kết luận; tạo điều kiện dể học sinh tìm hiểu cấu tạo, cách sử
dụng một dụng cụ đo; thông qua việc nghiên cứu các số liệu đã cho trong bảng
để rút ra kết luận; khai thác hình vẽ với vai trò là nguồn thông tin, chứ không
phải là hình ảnh minh họa lời trình bày của SGK. Tạo điều kiện cho đa số học
sinh được sử dụng thiết bị day học dể hoàn thành nhiệm vụ học tập.
4. Chú ý đến đặc tính kĩ thuật của đồ dùng và thao tác thí nghiệm
Các dụng cụ thí nghiệm thường có độ chính xác không giống nhau mặc
dù có cùng một khuôn mẫu chế tạo. Các dụng cụ trong các bộ thí nghiệm hiện
nay chất lượng còn thấp. Do đó, trước khi làm thí nghiệm (hướng dẫn học sinh
làm thí nghiệm) trên lớp giáo viên cần làm trước thí nghiệm nhiều lần để tìm
hiểu nguyên nhân sai số, tìm cách khắc phục để hạn chế đến mức thấp nhất sai
số trong phép đo. Nếu sau thí nghiệm có sai số cho phép thì nên cho học sinh
giải thích nguyên nhân dẫn đến sai số trong các phép đo.
Thao tác thí nghiệm là một vấn đề khó, nó không chỉ đưa ra kết quả thực
nghiệm tốt mà trong mỗi động tác của người thầy đều phải mang tính sư phạm.
Để có được thao tác đẹp, chính xác và thuyết phục thì mỗi người giáo viên cần
rèn luyện kĩ năng thực hành của mình bằng cách làm thí nghiệm nhiều lần, tiếp
xúc với đồ thí nghiệm nhiều lần để rút ra kinh nghiệm cho bản thân
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Như vậy để đáp ứng được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học
đối với bộ môn Vật lí thì việc hướng dẫn học sinh sử dụng dụng cụ thí nghiệm
để thực hiện các thí nghiệm là vô cùng quan trọng, nó quyết định đến sự thành
công của bài dạy, quyết định trực tiếp đến chất lượng giáo dục.
Thí nghiệm vật lí trước hết là nguồn thộng tin về thuộc tính của các sự vật
và hiện tượng vật lí; phải tìm cách tiến hành thí nghiệm vật lí để thu được những
thông tin đúng đắn về đối tượng cần tìm hiểu. Thí nghiệm vật lí gắn bó hữu cơ
với tiến trình dạy học và phải nhằm mục tiêu là đạt tới nhận thức mới trong quá
trình dạy học.
Dạy học theo phương pháp thí nghiệm vật lí cần tuân theo quy trình sau;
- Phải thảo luận để học sinh hiểu rõ mục tiêu của thí nghiệm và do đó tạo
ra hứng thú nhận thức của học sinh.
- Cho học sinh tìm hiểu đầy đủ chức năng của từng bộ phận có trong dụng
cụ thí nghiệm được sử dụng.
- Cho học sinh thảo luận về các bước của việc tiến hành, những yêu cầu cần
quan sát hay đo đạc trong mỗi bước thí nghiệm. Phải chuẩn bị các bảng ghi số
liệu đo được hoặc biên bản ghi các quan sát các số liệu đo, lâp biểu đồ, đồ thị.
- Xử lí các kết quả thu được từ thí nghiệm, rút ra mối quan hệ giữa các
quan sát, giữa các số liệu đo. Từ đó phát biểu kết luận về sự vật, hiện tượng hoặc
quá trình Vật lí như là những kiến thức mới.
Ngày nay với khoa học công nghệ hiện đại ngoài việc cho học sinh làm
thí nghiệm trên đồ dùng thật, trên giấy, ta có thể đưa thí nghiệm mô phỏng trên
máy vi tính, thí nghiệm quay lại bằng video. Các thí nghiệm đó đều có tác động
tích cực tới việc nắm bắt kiến thức mới của học sinh. Theo tôi những thí nghiệm
đơn giản, dễ làm, giáo viên nên tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm,
qua đó học sinh có thể trao đổi học tập lẫn nhau, giúp học sinh tự khẳng định
mình, kiến thức các em ghi nhớ lâu hơn, học sinh hứng thú học tập, bài học trở
nên nhẹ nhàng hơn,tiết học hiệu quả hơn.
2. Kiến nghị
- Nên tổ chức các hội thảo, các chuyên đề về sử dụng đồ dùng dạy học
một cách có hiệu quả, cách làm thí nghiệm ở một số bài thí nghiệm khó thành
công và đảm bảo đủ thời gian
- Hàng năm cần bổ sung thêm các trang thiết bị phục vụ cho việc giảng
dạy,có kế hoạch thay thế các đồ dùng đã cũ, hỏng không còn sử dụng được hoặc
sử dụng nhưng thiếu chính xác.
- Tham mưu với địa phương hỗ trợ kinh phí để xây dựng các phòng chức
năng, phòng học bộ môn tạo điều kiện tốt cho việc hoạt đông nhóm, làm thí
nghiệm của học sinh, giúp học sinh tích cực hoạt động./.
THAM LUẬN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
BỒI DƢỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN VẬT LÝ
Ung Thị Huỳnh Thiệp
GV trƣờng THCS thi trấn Cù Lao Dung
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG) là một nhiệm vụ quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng nhân tài cho nhà
trường nói riêng, cho địa phương nói chung. Nhận thức được nhiệm vụ
quan trọng đó, tổ Vật lý đã xây dựng kế hoạch ngay từ đầu năm học. Công
tác bồi dưỡng HSG là một công việc khó khăn và lâu dài, đòi hỏi nhiều
công sức của thầy và trò. Trong những năm gần đây, qua các kỳ thi HSG
vòng huyện, vòng tỉnh môn Vật lý đã đạt được những thành công nhất định
góp phần vào kết quả thi HSG chung của toàn trường.
II. THỰC TRẠNG
Trước hết chúng tôi nhìn lại thực trạng công tác bồi dưỡng HSG:
1. Thuận lợi
- Được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát và kịp thời của BGH, có kế hoạch cụ
thể, lâu dài trong công việc bồi dưỡng HSG.
- Trường có cơ sở vật chất khá khang trang, trang thiết bị phục vụ tương
đối đầy đủ giúp cho việc dạy và học đạt kết quả tốt.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm
trong công tác bồi dưỡng HSG nhiều năm liền.
2. Khó khăn
- Đa số giáo viên dạy bồi dưỡng vừa phải bảo đảm chất lượng bộ môn,
vừa phải hoàn thành các chỉ tiêu chất lượng mũi nhọn và công tác kiêm nhiệm
do đó cường độ làm việc quá tải và việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG
cũng có phần bị hạn chế.
- Học sinh học chương trình chính khóa phải học quá nhiều môn, lại phải
học thêm những môn khác, cộng thêm chương trình bồi dưỡng HSG nên rất hạn
chế về thời gian tự học nên các em có ít thời gian cho việc học bồi dưỡng HSG,
do đó kết quả không cao là điều tất yếu.
- Một số học sinh tham gia học bồi dưỡng chưa cố gắng nhiều nên kết quả
thi học sinh giỏi ở một số môn chưa cao.
- Giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn chương trình dạy, theo kinh
nghiệm của bản thân, theo chủ quan, tự nghiên cứu, tự sưu tầm tài liệu.
III. GIẢI PHÁP
Giải pháp 1: Về xây dựng kế hoạch bồi dƣỡng HSG
Căn cứ vào nhiệm vụ năm học; căn cứ vào điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ
giáo viên, học sinh nhà trường phải xay dựng kế hoạch và triển khai vào đầu năm
học. Trong đó, phải xây dựng các tiêu chí, chỉ tiêu phấn đấu thi đua cụ thể đến
từng giáo viên và ký cam kết thi đua.
Phân công giáo viên có chuyên môn giỏi, nhiều kinh nghiệm và đạt thành
tích trong phong trào HSG tiến hành ôn luyện
Kế hoạch bồi dưỡng đội tuyển HSG cần được tiến hành thường xuyên,
liên tục. Thực hiện đúng đủ theo theo thời khóa biểu đã quy định, thường xuyên
đôn đốc, động viên và kiểm tra giáo viên trong quá trình ôn thi.
Tùy theo điều kiện thực tế của nhà trường để tiến hành xây dựng chế độ bồi
dưỡng, đãi ngộ, khen thưởng đối với giáo viên, học sinh đạt thành tích trong phong
trào cho hợp lý nhằm khích thích, thúc đẩy phong trào phát triển.
Giải pháp 2: Đối với Ban giám hiệu
- Cần phải phân công chuyên môn một cách hợp lý, lựa chọn giáo viên có
năng lực chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm, tinh thần trách nhiệm, cố gắng phân
công theo hướng ổn định để phát huy kinh nghiệm của giáo viên.
- Phát hiện và xây dựng nguồn học sinh bắt đầu từ lớp 6, cử giáo viên có
kinh nghiệm dạy bồi dưỡng.
- Cần tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp học tập nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Có những chế độ động viên, khuyến khích khen thưởng đối với giáo
viên và học sinh tham gia bồi dưỡng HSG.
- Đối với năm học tiếp theo tôi xin đề xuất ý kiến của tôi như sau:
+ Đối với lớp 8: chúng ta lựa chọn đội tuyển ngay sau khi kết thúc năm học
thông qua việc trao đổi với giáo viên giảng dạy trước đó để lựa chọn những em có khả
năng, tư duy, đặc biệt là lòng đam mê môn học làm nguồn cho năm học kế tiếp.
+ Lên kế hoạch bồi dưỡng ngay từ trong hè. Tiếp đó, bồi dưỡng sàng lọc,
tuyển chọn qua các cuộc thi cấp trường.
+ Thông qua giáo viên chủ nhiệm định hướng, sự thỏa thuận của giáo viên
bồi dưỡng ở các đội tuyển để tránh tình trạng chồng chéo giữa các môn dẫn đến
kém hiệu quả.
+ Bồi dưỡng đội tuyển HSG cần được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Thực hiện đúng đủ theo kế hoạch, theo thời khóa biểu đã quy định, thường
xuyên đôn đốc, động viên và kiểm tra giáo viên trong quá trình ôn thi.
Giải pháp 3. Đối với giáo viên
3.1. Thầy phải giỏi và có kinh nghiệm
Qua một thời gian tham gia công tác bồi dưỡng HSG, tôi nhận thấy để
nâng cao chất lượng trong công tác này cần thực hiện tốt những công việc sau:
Muốn có HSG phải có Thầy giỏi, người xưa có câu “Không Thầy đố mày
làm nên”. Vì thế người thầy phải tâm huyết, yêu nghề, luôn có ý thức tự rèn
luyện, tích lũy tri thức và kinh nghiệm, trau dồi chuyên môn, luôn xứng đáng là
“người dẫn đường tin cậy” cho học sinh noi theo. Phải thường xuyên tìm tòi các
tư liệu, các kiến thức nâng cao trên các phương tiện, đặc biệt là trên mạng
internet. Lựa chọn trang Web nào hữu ích nhất, tiện dụng nhất, tác giả nào hay
có các chuyên đề hay, khả quan nhất để sưu tầm tài liệu. Đặc biệt là phải có tinh
thần học hỏi, nghiên cứu đề thi, đáp án, tổng kết kinh nghiệm sau mỗi kỳ thi học
sinh giỏi các cấp. Người thầy còn phải là người truyền lữa đam mê môn học,
tinh thần quyết tâm đến học sinh, có thế các em mới toàn tâm, toàn ý phấn đấu
học tập.
3.2. Công tác tuyển chọn HSG
Việc bồi dưỡng học sinh giỏi cũng như gieo một mầm xanh vậy, giống có
tốt thì mầm xanh mới phát triển tốt và cây mới đươm hoa, kết trái ngọt được.
Học sinh được chọn phải là những em học giỏi (điểm số cao), trí óc thông minh
sáng tạo, chăm học và hơn hết là phải có tinh thần yêu thích, đam mê môn học.
Công tác tuyển chọn HSG phải được tiến hành từ đầu cấp học (lớp 6).
3.3. Về chƣơng trình bồi dƣỡng
- Giáo viên cần biên soạn chương trình, tránh tình trạng thích đâu dạy đó.
Nội dung bồi dưỡng rõ ràng, cụ thể, chi tiết cho từng khối, lớp, về từng lĩnh vực
kiến thức, rèn luyện các kỹ năng ngôn ngữ theo số tiết quy định và nhất thiết
phải bồi dưỡng theo quy trình từ thấp đến cao, từ dễ đến khó để các em HS bắt
nhịp dần.
- Xác định rõ trọng tâm kiến thức giảng dạy cho từng khối lớp để tránh
trùng lập. Chương trình bồi dưỡng cần phải đầy đủ các phân môn Vật lý: Cơ-
Nhiệt-Điện-Quang (từ lớp 6 đến lớp 9 )
- Dạy chắc cơ bản rồi mới nâng cao, thông qua những bài luyện tập cụ thể.
- Dạy kiểu dạng bài có quy luật trước, dạy kiểu bài có tính đơn lẻ, đặc biệt sau.
Để giải được các bài toán dành cho HSG, học sinh cần phải hiểu kiến
thức một cách cơ bản, hệ thống, vững chắc, sâu sắc và có khả năng vận dụng
linh hoạt.
+ Mỗi loại kiến thức (khái niệm, định luật, định lý…) đều có nội hàm
riêng và cách vận dụng (hay quy tắc, phương pháp) đặc trưng của nó. Khi dạy
cần phải thông qua một số bài thí dụ cụ thể để khắc sâu cho học sinh đầy đủ, cặn
kẽ nội hàm và phương pháp vận dụng của kiến thức đó. Được như vậy, khi gặp
hàng chục, hàng trăm bài khác, mặc dù có những chi tiết cụ thể khác nhau
nhưng học sinh vẫn làm được vì chúng giống nhau ở điểm cốt lõi.
+ Có những loại bài liên quan đến đến rất nhiều loại kiến thức kỹ năng
khác nhau, học sinh muốn làm được cần phải biết chia bài đó thành nhiều bài toán
nhỏ, trong mỗi bài nhỏ dùng kiến thức, kỹ năng nào. Muốn làm được như vậy,
học sinh phải nắm thật vững nội hàm và phương pháp vận dụng của từng loại kiến
thức, biết được chúng liên quan với nhau như thế nào (hay từng kiến thức nằm
trong một hệ thống như thế nào), từ đó mới biết khi nào cần sử dụng kiến thức
nào. Nói cách khác, phải dạy một cách cơ bản, vững chắc và hệ thống. Nếu dạy
được học sinh đến trình độ đó, thì từ yêu cầu và điều kiện của bài ra, học sinh sẽ
biết chia việc để giải một bài toán khó ra nhiều công đoạn, mỗi công đoạn dùng
kiến thức, phương pháp nào. Dù cho bài toán biến hoá nhiều kiểu, nhưng cũng
không ra ngoài những kiến thức và phương pháp trong chương trình đã học.
- Lý do phải dạy theo những phương châm nêu trên:
+ Dạy chắc cơ bản trước rồi mới nâng cao: Các bài cơ bản là những bài
dễ, chỉ liên quan đến một hoặc vài loại kiến thức kỹ năng, cần phải luyện tập
nắm vững từng loại trước. Sau đó mới nâng cao dần những bài tổng hợp nhiều
loại kiến thức, học sinh đã nắm vững từng loại sẽ dễ dàng nhận ra và giải quyết
được. Đối với học sinh giỏi bước này có thể làm nhanh, hoặc cho tự làm nhưng
phải kiểm tra biết chắc chắn, cơ bản rồi mới nâng cao, nếu bỏ qua bước này
trình độ của học sinh sẽ không ổn định và không vững chắc.
+ Mỗi loại cần thông qua một hoặc hai bài điển hình, quan trọng là phải
rút ra phương pháp rồi cho thêm một số bài cho học sinh tự vận dụng cho thành
thạo phương pháp, cần kiểm tra thẩm định xem học sinh đã nắm chắc chắn chưa,
nếu chưa chắc chắn cần phải củng cố đến khi được mới thôi.
+ Hầu hết các bài đều có thể quy về một loại nào đó cùng nhiều bài khác
có quy tắc giải chung, đó là phổ biến: mỗi loại bài toán có một loại nguyên tắc,
cứ xác định đúng loại bài, sử dụng đúng nguyên tắc là giải quyết được. Nhưng
cá biệt có một ít bài không theo những nguyên tắc chung, thuộc những tình
huống cá biệt, có thể sử dụng những cách riêng, thường không rõ quy luật,
nhưng giải quyết nhanh. Cần phải coi trọng loại bài có nguyên tắc là chính. Loại
chỉ nên giới thiệu sau khi đã học kỹ loại trên, vì loại đó học bài nào chỉ biết bài
đó mà không áp dụng cho nhiều bài khác được.
3.4. Về Tài liệu bồi dƣỡng
- Giáo viên sưu tầm các bộ đề thi các cấp trong tỉnh và các tỉnh khác
thông qua công nghệ thông tin nhằm giúp các em tiếp xúc làm quen với các
dạng đề, luôn tìm đọc, tham khảo các tài liệu hay để hướng dẫn cho học sinh.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh các tài liệu, sách vở, băng đĩa phù hợp với
trình độ của các em để tự rèn luyện thêm ở nhà. Đồng thời cung cấp hoặc giới
thiệu các địa chỉ trên mạng để học sinh có thể tự học, tự nghiên cứu, bổ sung
kiến thức.
3.5. Về thời gian bồi dƣỡng
- Để chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả thì nhà trường cần
có kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi liên tục và đều đặn, không dồn ép ở tháng
cuối trước khi thi vừa quá tải đối với học sinh, vừa ảnh hưởng đến quá trình tiếp
thu kiến thức ở môn học khác của học sinh.
Giải pháp 4. Đối với học sinh
Bồi dưỡng HSG là một quá trình lâu dài. Cần phải bồi dưỡng sự hứng thú,
đam mê và tính tích cực, độc lập nghiên cứu của học sinh.
- Cần phát hiện sớm và bồi dưỡng sớm để có thể đạt kết quả cao.
- Cách tốt nhất bồi dưỡng hứng thú cho học sinh là hướng dẫn dìu dắt cho
các em đạt được những thành công từ thấp lên cao. Nhiều học sinh lúc đầu chưa
bộc lộ rõ năng khiếu nhưng sau quá trình được dìu dắt đã trưởng thành rất vững
chắc và đạt thành tích cao.
- Học sinh phải nhận thức đúng về tầm quan trọng của học tập.
- Học sinh phải yêu thích môn học, say mê trong học tập và ham học hỏi.
- Học sinh phải cần cù tích luỹ và chăm chỉ rèn luyện, ngoài đọc sách giáo
khoa, học sinh cần đọc thêm sách tham khảo và tài liệu khác.
Giải pháp 5. Đối với phụ huynh
- Quan tâm tạo điều kiện, động viên tích cực con em học tập tốt hơn.
- Trang bị đầy đủ dụng cụ học tập.
- Thường xuyên liên lạc với giáo viên, nhà trường để nắm tình hình học
tập của con mình.
- Lập thời gian biểu học tập ở nhà cho các em; theo dõi, động viên con em
học tập; thực hiện chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý để đảm bảo sức khỏe cho
các em.
Giải pháp 6. Sự phối hợp giữa các tổ chức trong nhà trƣờng và công tác
khen thƣởng
- Để hỗ trợ cho công tác dưỡng HSG có hiệu quả, các bộ phận gián tiếp như:
Chi bộ, Lãnh đạo trường, Công đoàn, giáo viên chủ nhiệm… cũng cần quan tâm đặc
biệt và có những biện pháp hỗ trợ đúng mức như: tạo điều kiện cho giáo viên và học
sinh tham gia bồi dưỡng. Ví dụ: giảm bớt tiết, bớt công tác kiêm nghiệm, bồi dưỡng
thỏa đáng cho giáo viên, có chế độ ưu tiên khuyến khích đối với học sinh đạt giải;
tuyên dương khen thưởng kịp thời đối với các giáo viên và học sinh đạt thành tích;
quan tâm theo dõi và đáp ứng các nhu cầu chính đáng của giáo viên và học sinh về
phòng học, điện, nước…
IV. KẾT LUẬN
Tôi nghĩ rằng: Người thầy giáo có vai trò quyết định nhất đối với kết
quả HSG, các em HS có vai trò quyết định trực tiếp đối với kết quả của
mình; Kết quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có đạt hay không, điều đó
còn phụ thuộc rất lớn ở các em học HS. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi giống
như chúng ta ươm một mầm non. Nếu chúng ta biết rào, biết thường xuyên chăm
sóc, vun xới thì mầm non sẽ xanh tốt và kết quả đem lại hoa thơm, trái ngọt.
THAM LUẬN
VỀ CÔNG TÁC LÀM VÀ SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG DẠY HỌC
MÔN VẬT LÍ Ở TRƢỜNG THCS
Cô Văn Thôi
GV trƣờng THCS An Thạnh Tây
I. Tầm quan trọng của công tác làm và sử dụng đồ dùng dạy học
(ĐDDH) trong dạy và học môn Vật lí
- Như chúng ta đã biết bộ môn Vật lý là môn khoa học thực nghiệm với
phương pháp nghiên cứu là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
- Mọi kết luận của nó đều rút ra được nhờ thực tiễn và kiểm chứng bằng
quan sát và thí nghiệm. Chính vì vậy trong các giờ dạy Vật lý cần phải có thiết
bị dạy học để khơi dậy và phát triển năng lực tư duy khả năng tự học, hình thành
cho các em biết rõ phương pháp học và nghiên cứu bộ môn.
- Muốn phát huy tính tích cực chủ động của học sinh thì một trong những
yếu tố quan trọng của người thầy là phương tiện dạy học. Phải xem thiết bị dạy
học được sử dụng như là nguồn thông tin và điều kiện dẫn dắt học sinh đến tri
thức mới.
- Chính vì vậy phương pháp thực nghiệm được xem như là một phương
pháp nhận thức cơ bản nhất trong quá trình tìm tòi nghiên cứu Vật lý. Hiện nay
chương trình Vật lý ở trung học cơ sở chủ yếu là Vật lý thực nghiệm, các kiến
thức Vật lý phải rút ra từ thực nghiệm và được kiểm tra, đánh giá lại bằng thực
nghiệm. Qua đó cho thấy việc giảng dạy Vật lý trong các trường phổ thông phải
gắn kết chặt chẽ với việc sử dụng đồ dùng dạy học.
- Đứng trước tình hình đó đòi hỏi người giáo viên phải có lòng say
mê nghề nghiệp, có trình độ nghịêp vụ cao, trình độ chuyên môn vững vàng đặc
biệt là khả năng thao tác, vận dụng và sử dụng thiết bị dạy học thành thạo, khoa
học để tiết dạy đạt hiệu quả, tạo hứng thú học tập cho học sinh, theo quan điểm:
“Học mà chơi, chơi để học” đáp ứng yêu cầu phương pháp dạy học mới “Thầy
chủ đạo, trò chủ động”.
- Ngoài ra việc làm đồ dùng dạy học bổ sung trong bộ đồ dùng dạy học cũng
không kém phần quan trọng vì một số thiết bị không có trong danh mục thiết bị của
các công ty thiết bị trường học nên đòi hỏi giáo viên phải tự trang bị những đồ dùng
đó để có thể đáp ứng tốt công tác dạy của giáo viên và học tập của học sinh.
- Đến nay trong điều kiện đổi mới giáo dục, điều trăn trở ấy của tôi càng
tăng thêm và tôi luôn đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Làm thế nào để giáo viên
Vật lý làm và sử dụng thật hiệu quả thiết bị dạy học”.
II. Thực trạng
1. Công tác làm đồ dùng dạy học (ĐDDH)
- Giáo viên chưa quan tâm nhiều đến việc làm để bổ sung đồ dùng dạy học.
- Mặc dù ĐDDH được bộ giáo duc và đào tạo cung cấp theo danh mục thiết
bị tối thiểu, tuy nhiên vẫn còn một số trang thiết bị còn thiếu. Vì vậy giáo viên cũng
cần làm thêm một số trang thiết bị dạy học để phục vụ công tác giảng dạy.
2. Công tác sử dụng ĐDDH
- Việc chuẩn bị ĐDDH của một số giáo viên trước khi lên lớp còn chưa chu
đáo nên ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm, đôi khi thí nghiệm không thành công.
- Thao tác làm thí nhiệm của giáo viên đôi lúc còn lúng túng, còn chậm
chạp làm ảnh hưởng nhiều đến thời gian giảng dạy trên lớp.
- Việc hướng dẫn học sinh tự tiến hành làm các thí nghiệm không rõ ràng.
- Một số đồ dụng dạy học đã sử dụng trong thời gian khá lâu nên kết quả
thí nghiệm không còn chính xác.
III. Giải pháp
1. Công tác làm ĐDDH
Khi dạy vật lí cấp trung học cơ sở giáo viên nhất thiết phải làm một số đồ
dùng dạy học để bổ sung vào bộ thiết bị của nhà trường còn chưa có như: Dụng
cụ thí nghiệm, một số trang thiết bị dạy học cần thiết để phục vụ cho công tác
giảng dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh.
- Việc làm ĐDDH phải đảm bảo tính khả thi của dụng cụ, nghĩa là dụng
cụ đó phải phục vụ tốt cho công tác dạy của giáo viên và việc học tập của học
sinh và cũng phải bền vững để cóthể sử dụng lâu dài. Ở trường Trung học cơ sở
An Thạnh Tây chúng tôi có làm một bộ thí nghiệm máy nén thủy lực vào năm
học 2012-2013, và dự thi làm đồ dùng dạy học cấp huyện đạy giải nhất, dự thi
cấp tỉnh đạt giải khuyến khích. Đến nay dụng cụ đó vẫn còn sử dụng tốt và
chúng tôi đang dùng để phục vụ trong việc giảng dạy.
- Ngoài ra làm ĐDDH không nhất thiết phải là những dụng cụ khó chế tạo
mà đơn thuần nên hiểu đó là những dụng cụ hay thiết bị dạy học, tranh ảnh nhà
trường còn thiếu mà giáo viên cảm thấy cần thiết trong việc dạy của bản thân và
cho việc học tập của học sinh.
2. Việc sử dụng ĐDDH
- Trước khi giảng dạy trên lớp giáo viên nên chuẩn bị tốt các loại đồ dùng
dạy học, quan sát các thí nghiệm trong bài dạy cần làm và mỗi thí nghiệm đó
cần có những trang thiết bị nào để lựa chọn những thiết bị cho phù hợp với nội
dung thí nghiệm thì việc làm thí nghiệm mới hiệu quả. Ngoài ra giáo viên có thể
làm trước các thí nghiệm ít nhất một lần trước khi giảng dạy nhằm đảm bảo các
dụng cụ dạy học còn sử dụng tốt, còn phục vụ tốt cho công tác dạy và học. Việc
làm thí nghiệm trước khi lên lớp cũng giúp cho giáo viên thành thạo hơn và
không gặp lúng túng trong lúc giảng dạy và hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm.
- Đối với những dụng cụ khó lắp đặt hoặc những dụng cụ, đồ dùng khó sử
dụng thì giáo viên có thể hướng dẫn lắp đăt hoặc hướng dẫn cách sử dụng cho
các em để việc dùng đồ dùng hiệu quả và cho ra kết quả tốt nhất cho các em
quan sát và từ đó rút ra kết luận cho nội dung học tập.
- Một số dụng cụ, thiết bị, đồ dùng do sử dụng trong thời gian dài nên
mức độ chính xác của dụng cụ không còn đảm bảo. Do đó giáo viên có thể điều
chỉnh để những đồ dùng đó chính xác đến mức có thể. Thậm chí giáo viên sửa
chữa những đồ dùng đang có để phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập.
III. Kết luận
- Ngoài việc sử dung những dụng cụ dạy học sẵn có giáo viên nên làm các
dụng cụ dạy học mà trong danh mục thiết bị tối thiuể không có để bổ sung thiết
bị dạy học trong nhà trường.
- ĐDDH là một trong những yếu tố quyết định chất lượng dạy và học môn
vật lý nên khi dạy học có dụng cụ minh họa sẽ giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ và
khắc sâu kiên thức hơn.
- Việc sử dụng ĐDDH của giáo viên phải thật sự thành thạo, như thế khi
giảng dạy mới đạt hiệu quả.
- Việc hướng dẫn học sinh sử dụng dụng cụ dạy học cũng góp phần giúp
các em học tập tốt hơn, phát huy tính tích cực của học sinh./.
THAM LUẬN
VỀ ĐỔI MỚI KTĐG THEO HƢỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC HỌC SINH
Nguyễn Trọng Ngân
GV trƣờng THCS An Thạnh 2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) và kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của học sinh bậc trung học cơ sở là một vấn đề cần thiết và không thể
thiếu được trong việc đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.
Mục đích của quá trình đổi mới PPDH là tích cực hoá hoạt động học tập
của học sinh dựa trên nguyên tắc giáo viên giúp học sinh tự khám phá trên cơ sở
tự giác và được tự do (tự suy nghĩ, tranh luận, đề xuất vấn đề đang giải quyết).
Cụ thể hơn, dạy học tích cực hoá là nhằm tổ chức, hướng dẫn học sinh tự tìm
hiểu, phát hiện và giải quyết vấn đề trên cơ sở tự giác và được tự do, được tạo
khả năng và điều kiện chủ động trong hoạt động nhận thức. Như vậy người giáo
viên đồng thời phải là người tổ chức, người hướng dẫn, học sinh trở thành người
khám phá, người thực hiện và giải quyết vấn đề.
Kiểm tra đánh giá (KTĐG) có vai trò rất to lớn đến việc nâng cao chất
lượng đào tạo. Kết quả của KTĐG là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt
động học và quản lý giáo dục. Nếu KTĐG sai dẫn đến nhận định sai về mặt chất
lượng đào tạo gây tác hại to lớn trong việc sử dụng nguồn nhân lực. Vậy đổi mới
KTĐG trở thành nhu cầu bức thiết của ngành giáo dục và toàn xã hội ngày nay.
KTĐG đúng thực tế, chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng
say, nâng cao năng lực sáng tạo trong học tập.
Đổi mới KTĐG kết quả học tập của học sinh là một khâu quan trọng trong
đổi mới giáo dục phổ thông. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để không những kiểm
tra được kiến thức của học sinh mà còn kiểm tra được các kỹ năng, năng lực
hành động của học sinh trong môi trường gắn với thực tiễn cuộc sống xã hội.
II. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
Giáo viên (GV) đã được tập huấn về công tác đổi mới KTĐG, đông
đảo GV và học sinh (HS) có nhận thức đúng đắn và hưởng ứng tích cực về
đồi mới KTĐG.
Một số GV đã vận dụng phầm mềm ứng dụng CNTT vào việc KTĐG
theo hướng phát triển năng lực HS.
2. Khó khăn
Trong thực tế lâu nay việc KTĐG đối với môn Vật lý có hiện tượng thiên
về KTĐG mức độ tiếp thu và vận dụng kiến thức của người học thông qua chủ
quan đánh giá của người dạy. Vì vậy việc KTĐG kết quả học tập còn chưa có
tác dụng mạnh mẽ, kích thích, động viên học sinh (HS) nỗ lực học tập, hoặc ra
đề quá khó làm cho học sinh có học lực từ trung bình trở xuống dễ chán nãn
hoặc ra đề quá dễ sẽ dẫn đến học sinh có tâm lí thỏa mãn, kém nỗ lực phấn đấu.
KTĐG mới chỉ tập trung vào việc giáo GV đánh giá HS, ít tạo điều kiện cho HS
tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Nhiều GV ra đề kiểm tra với mục đích
làm sao để chấm dễ, chấm nhanh nên kết quả đánh giá chưa khách quan.
Một bộ phận GV chưa nắm vững yêu cầu đổi mới KTĐG, việc KTĐG
chủ yếu được tiến hành tự phát theo kinh nghiệm của từng giáo viên, một bộ
phận không nhỏ chưa bám sát mục tiêu môn học, chuẩn kiến thức, kỹ năng của
chương trình.
Những năm gần đây, xu thế áp dụng hình thức kiểm tra trắc nghiệm phát
triển khá mạnh trong các trường học, môn học. Hình thức kiểm tra này được
giáo viên và học sinh hưởng ứng và áp dụng khá tích cực. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập, chưa cân đối giữa hình thức tự luận với
trắc nghiệm, có biểu hiện đơn điệu hoặc lạm dụng hình thức trắc nghiệm làm
giảm hiệu quả KTĐG.
Tình trạng thiếu khách quan trong KTĐG vẫn còn khá phổ biến. Bệnh
thành tích và thói quen dạy học thụ động, nặng đối phó với thi cử còn khá
phổ biến.
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu. Trong một
lớp học còn quá đông HS.
III. GIẢI PHÁP
Để thực hiện tốt việc đổi mới đánh giá kết quả của HS, GV cần phải:
- KTĐG theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình.
- Ra đề kiểm tra theo ma trận và đảm bảo các mức độ: Nhận biết - Thông
hiểu - Vận dụng – Vận dụng cao. Tốt nhất nên ra theo tỉ lệ 3:3:4
- Khi ra đề phải phối hợp giữa trắc nghiện khách quan và tự luận (tuỳ theo
nôị dung chương, bài, khối lớp mà có thể ra theo tỉ lệ: 7/3; 6/4; 5/5).
1. Kiểm tra miệng: Không thể tiến hành kiểm tra miệng (vấn đáp) tất cả
HS. Về nguyên tắc cách kiểm tra này cho phép đánh giá chính xác trình độ kiến
thức, kĩ năng và năng lực của HS. Tuy nhiên, thực tế là chưa thể thực hiện được.
Vì vậy ngoài kiểm tra vấn đáp, GV còn sử dụng phiếu học tập hoặc bài kiểm tra
trên giấy.
2. Kiểm tra thí nghiệm (TN), thực hành (TH): Như đã nói ở trên, dụng
cụ TN chưa đồng bộ, phòng lại quá chật, bàn ghế thì sát nhau. Trong kiểm tra
TNTH đòi hỏi mọi HS phải tham gia. Từ đó HS tranh giành nhau làm việc (để
không bị trừ điểm) nên đã dẫn tới có khi kết quả thực hành chưa xong. Từ thực
trạng đó, GV cho HS làm TNTH trước, ghi kết quả vào vở nháp, sau đó, phát
mẫu báo cáo thực hành cho từng HS để mỗi HS tự trả lời câu hỏi và xử lí số liệu
theo kết quả đã ghi. Tránh tình trạng HS làm chung cả nhóm hoặc vừa làm TN
vừa ghi báo cáo, tạo cơ hội cho HS dễ quay cóp, bài giống nhau.
3. Kiểm tra viết:
- Kiểm tra 15 phút:
+ Bài kiểm tra có thể tiến hành vào đầu hoặc cuối tiết học.
+ Nội dung: Thường kiểm tra 1 hoặc 2 bài mới học.
+ Hình thức: Phối hợp trắc nghiệm khách quan và tự luận. Tùy theo nội
dung bài, khối lớp mà GV có thể ra theo tỉ lệ: 7/3; 6/4 hoặc 5/5.
- Kiểm tra 1 tiết:
+ Kiểm tra viết 1 tiết thường được tiến hành sau một chương hoặc một số bài.
+ Phối hợp giữa trắc nghiệm khách quan và tự luận theo tỉ lệ trên cơ sở
xây dựng ma trận của đề.
+ Nhận biết: Là trình độ nhận thức thể hiện ở chỗ HS có thể nhận ra một khái
niệm, một đại lượng, một công thức, một sự vật, một hiện tượng (chiếm 30%).
+ Thông hiểu: Là trình độ nhận thức cao hơn nhận biết, thể hiện ở chỗ HS
phải nắm ý nghĩa, những mối quan hệ của những nội dung đã biết (chiếm 30%).
+ Vận dụng: Trình độ này đòi hỏi HS phải biết sử dụng kiến thức và kĩ
năng đã "biết" và "hiểu" để giải quyết một tình huống mới, nghĩa là phải biết di
chuyển kiến thức và kĩ năng từ tình huống quen thuộc sang tình huống mới. Đây
là trình độ nhận thức đòi hỏi có sự sáng tạo của HS (chiếm 40%).
- Trong trắc nghiệm khách quan thì có thể ra đề dưới nhiều hình thức:
TNKQ nhiều lựa chọn; TN điền khuyết; TN đúng , sai; TN ghép cột, dòng.
KTĐG kết quả học tập của HS là một việc làm hết sức quan trong. Nó
không chỉ có tác dụng giúp GV biết được tình hình học tập, phấn đấu của HS,
hiệu quả của việc dạy và học, mà nó còn tác dụng điều chỉnh quá trình dạy học,
động viên, khuyến khích HS trong học tập. Vì vậy, GV cần phải đổi mới các
hình thức KTĐG đúng với năng lực của người học.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC
- Đánh giá được thực lực của học sinh, để từ đó có hướng điều chỉnh
PPDH phù hợp với đối tượng HS.
- Giúp học sinh chú ý hơn trong quá trình học tập, tạo cho học sinh có
được những suy luận, lập luận, phát huy tính tư duy và sáng tạo và sự tự tin khi
phát biểu trước đám đông.
- Trong tiết dạy, học sinh hứng thú hơn, sinh động hơn và tích cực hơn.
- Học sinh có thể nắm được khối lượng kiến thức khá lớn và có cách học
mới để đạt kết quả cao.
VI. KIẾN NGHỊ
Cần trang bị đồ dùng dạy học và dụng cụ thí nghiệm cho môn Vật lý đủ
số lượng, đảm bảo tính chính xác, đồng bộ để kết quả học tập của bộ môn được
nâng cao hơn./.
THAM LUẬN
THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN VẬT LÝ TRONG CÁC TRƢỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ HIỆN NAY
Trần Chí Nhơn
GV trƣờng THCS TT. Đại Ngãi, huyện Long Phú
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH
- Trường THCS TT Đại Ngãi toạ lạc trên tuyến quốc lộ Nam Sông Hậu
thuộc địa phận ấp Ngãi Hội 2, thị trấn Đại Ngãi. Hiện nay, trường THCS TT Đại
Ngãi là trường đạt chuẩn quốc gia, trường cũng đã đạt nhiều thành tích trong giảng
dạy. Cho nên, có nhiều phụ huynh ở các xã lân cận gởi con em mình đến học.
- Năm 2016 -2017 trường có 22 lớp với tổng số 886 học sinh (432 nữ),
nhà trường có 6 tổ bộ môn với tổng giáo viên là 48. Trong đó tổ Lý – Tin –
Công Nghệ có 7 thành viên (4 nam, 3 nữ) có 3 giáo viên được phân công giảng
dạy môn vật lý ở 4 khối lớp. 3 giáo viên điều có trình độ đạt chuẩn, tất cả các
thành viên trong tổ đều rất nhiệt tình, tận tụy trong công tác giảng dạy, tâm
huyết với nghề, có nhiều giáo viên có thâm niên nghề cao có kinh nghiệm trong
công tác giảng dạy.
- Về SGK và SGV thư viện nhà trường cung cấp đầy đủ. Ngoài ra, mỗi
phòng có trang bị 1 Ti vi 40 inch để kết nối khi giảng dạy giáo án điện tử. Tuy
nhiên, do đặc thù của môn vật lý nhà trường chưa có phòng chức năng, đồ thí
nghiệm còn thiếu nhiều, điều này ảnh hưởng rất lớn với công việc dạy và học.
II. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm của BGH nhà trường phân công giảng dạy đúng
chuyên môn.
- Được tham gia các lớp tập huấn chuyên môn.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình và tâm huyết
với nghề.
- Học sinh đa số có điều kiện học tập tốt, được sự quan tâm của gia đình.
- Học sinh được trang bị SGK đầy đủ.
- Về cơ sở vật chất: Trường, lớp khang trang, thoáng mát tạo điều kiện tốt
cho việc học tập, sinh hoạt và vui chơi của các em.
2. Khó khăn
- Do đặc thù của bộ môn là môn khoa học tự nhiên có những bài học để đi
đến kết luận một vấn đề phải làm thí nghiệm đưa ra kết quả chính xác vì vậy nên
cần phải có phòng thực hành và đồ dùng dạy học. Điều này dẫn đến đổi mới
phương pháp dạy học chưa đồng bộ. Vì muốn đổi mới phương pháp dạy học thì
điều kiện cơ sở vật chất phải đầy đủ.
- Một số học sinh đi học nhà còn cách xa trường.
- Vẫn còn một số không ít học sinh không có ý thức học tập.
- Mặt khác vẫn còn nhiều phụ huynh học sinh chưa quan tâm đến việc học
tập của con em mình.
3. Nguyên nhân:
3.1. Đối với giáo viên
- Giáo viên luôn có ý thức muốn đổi mới phương pháp dạy học nhưng
điều kiện thực tế rất khó khăn do đặc thù của bộ môn (Phải có phòng thực hành,
dụng cụ thí nghiệm).
- Để chuẩn bị cho tiết dạy - học có hiệu quả, hiện nay giáo viên phải
chuẩn bị đủ bộ đồ thí nghiệm, nhưng phòng chứa đồ thí nghiệm ở xa phòng học,
chuẩn bị thì được nhưng mang lên lớp dạy xong dọn dẹp mang xuống thì thời
gian không cho phép vì tiết học chỉ có 45 phút.
- Đồ thí nghiệm còn thiếu rất nhiều.
- Đồ thí nghiệm cho kết quả không chính xác.
- Theo phân phối chương trình hiện nay thì tiết bài tập rất ít.
- Các bài tập thì đa dạng đòi hỏi học sinh phải nắm bắt vấn đề, có kỹ năng
biết phân loại bài tập thì mới giải quyết được.
- Về bài học lý thuyết có những bài nội dung khá dài (Câu hỏi cần trả lời
đến hơn 10 câu) phân phối thời gian không đảm bảo.
3.2. Đối với học sinh
- Một số gia đình học sinh có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ đi
làm ăn ở xa để con lại cho ông bà nuôi dưỡng, ông bà lớn tuổi không có khả
năng quản lý việc học tập của cháu, cộng với các em đang tuổi mới lớn rất ham
chơi nên bỏ bê việc học dẫn đến việc học tập của các em ngày càng sa sút.
- Một số gia đình học sinh có hoàn cảnh khá giả nhưng lại là con một nên
được cha mẹ nuông chiều dẫn đến các em đua đòi, lười học.
- Có những bài học có nội dung quá dài (12 câu hỏi) thời gian quá ngắn để
các em đọc câu hỏi, suy nghĩ, trả lời, giáo viên chỉnh sửa, hoàn thiện câu trả lời,
học sinh ghi nội dung. Dẫn đến nhiều học sinh không theo dõi kịp, không kịp
hiểu, không kịp ghi chép làm cho học sinh hỏng kiến thức từ đó chán nản, không
thích học môn vật lý nữa.
- Đa phần hiện nay học sinh thụ động quen nghe chỉ quen ghi chép những
phần giáo viên ghi bảng hoặc đọc chép. Tái hiện một cách máy móc gập khuôn
những gì giáo viên giảng, không tụ suy nghĩ tìm tòi sáng tạo.
- Thực tế nhìn nhận học sinh rất lười học, không học bài, không làm bài
tập làm kiểm tra copy lẫn nhau. Trong giờ học nói chuyện nói chuyện riêng rất
nhiều không chú ý nghe giảng, thích cười đùa nói chuyện làm ảnh hưởng đến
các học sinh khác và làm cho giáo viên nhắc nhở rất mất thời gian. Mặc dù giáo
viên bộ môn cũng như giáo viên chủ nhiệm đã có nhiều biện pháp đối với những
học sinh này nhưng vẫn không tiến triển.
- Học sinh không tuân thủ sự hướng dẫn của giáo viên (Ví dụ: Phát vật mẫu
dụng cụ thí nghiệm khi sử dụng điện, một số học sinh cho đó là đồ chơi không quan
sát nhận biết nghiêng cứu… để hình thành các kỹ năng lỉnh hội kiến thức).
- Vẫn còn một số học sinh thiếu tôn trọng đối với giáo viên, tỏ thái độ
không tốt khi được giáo viên nhắc nhở.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG DẠY HỌC.
1. Kết hợp với phụ huynh
- Giáo viên bộ môn kết hợp với giáo viên chủ nhiệm và ban giám hiệu
cùng với phụ huynh học sinh trao đổi qua các buổi đại hội phụ huynh học sinh
lớp (Trong những trường hợp cấp bách cần thiết giáo viên chủ nhiệm gởi thư
mời hoặc liên hệ qua điện thoại) đề gia đình nắm được tình hình hoạt động học
tập của con em mình, kịp thời nhắc nhở đôn đốc việc thực hiện nội quy cũng
như việc học của các em, nhằm giúp cho các em thực hiện tốt rèn luyện, nâng
cao kết quả học tập.
2. Đẩy mạnh đổi mới phƣơng pháp dạy học
2.1. Giáo viên từng bước đưa vào đổi mới phương pháp dạy học nhằm
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh, hình thành và phát triển
năng lực tự học (sử dụng SGK, nghe ghi chép, tìm kiếm thông tin, …) trau dồi
các phẩm chất linh hoạt độc lập sáng tạo về tư duy cho học sinh.
2.2. Lựa chọn và sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học chung và
phương pháp dạy học đặc thù của môn học để thực hiện đảm bảo nguyên tắc “Học
sinh tự hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên”.
2.3. Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với hình thức dạy học:
- Tùy môi trường, nội dung, điều kiện dạy học cụ thể mà có những hoạt
động dạy học thích hợp như học cá nhân, học nhóm, học trong lớp, học ở nhà.
- Chuẩn bị tốt về phương pháp dạy học giờ thực hành để đảm bảo về yêu cầu
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng thú cho HS.
2.4. Sử dụng có hiệu quả các thiết bị dạy học tối thiểu.
2.5. Giáo viên bằng sự nhiệt tình, lòng bao dung đặc biệt đối với học sinh
yếu kém tạo điều kiện cho các em từng bước phát triển.
2.6. Đa dạng các hình thức kiểm tra – đánh giá
- Kiểm tra vỡ ghi, kiểm tra bài tập, kiểm tra miệng… thường xuyên.
- Ra đề kiểm tra phù hợp, đánh giá kết quả học tập khách quan.
3. Tổ chuyên môn
Các thành viên trong tổ chuyên môn, mỗi cá nhân trong quá trình dạy học
tự rút ra cho mình kinh nghiệm, viết thành những sáng kiến, chuyên đề cùng
nhau đóng góp, xây dựng để tiến hành áp dụng vào thực tế giảng dạy.
4. Kết quả đạt đƣợc sau khi vận dụng các giải pháp qua mỗi năm học
nhƣ sau:
Chất
lƣợng
Năm học
TS
HS
Giỏi Khá TB Yếu HS Giỏi các
cấp
SL TL SL TL SL TL SL TL Huyện Tỉnh
2013 - 2014 868 270 31.1 338 38.9 228 26.3 32 3.7 1 nhì) 1 KK
2014 - 2015 910 334 36.7 344 37.8 203 22.3 30 3.3 2 KK
2015 - 2016 861 259 30.1 336 39 239 27.8 27 3.1 1 nhì 1 ba
2016 - 2017 1 KK 1 nhì
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua những giải pháp đã và đang thực hiện tôi nhận thấy rằng để dạy tốt
và học tốt môn vật lý cần lưu ý những vấn đề sau.
* Đối với ngƣời dạy:
- Trước khi lên lớp cần phải chuẩn bị đầy đủ nội dung kiến thức cần
truyền tải cho học sinh, chuẩn bị chu đáo các đồ dùng dạy học, dụng cụ thực
hành thí nghiệm (Giáo viên có thể tiến hành thí nghiệm, xem trước kết quả để
đưa ra kết luận chính xác tạo niềm tin cho học sinh)
- Biết cách vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với từng nội dung
từng bài cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Khi lên lớp phải biết cách tổ chức dẫn dắt học sinh tích cực, chủ động
tìm tòi kiến thức, đánh thức khả năng tư duy sáng tạo của học sinh, luôn tạo điều
kiện cho học sinh trình bày trước lớp những nội dung kiến thức thông tin mình
hiểu và tiếp thu được.
- Giáo viên có thái độ nhã nhặn tạo sự thiện cảm, thoải mái cho học sinh
trong tiết học, luôn biết lắng nghe tâm tư tình cảm nguyện vọng tạo mối quan hệ
thân thiện với học sinh.
- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách học ở nhà ở trường một cách cụ
thể (có phân định thời gian cho các hoạt động cá nhân).
- Để khắc sâu kiến thức giáo viên cần liên hệ kiến thức với thực tế, đây
cũng chính là những phương pháp giúp học sinh nhớ kiến thức lâu dài.
* Đối với ngƣời học:
- Để tiếp thu, chiếm lĩnh kiến thức học sinh phải thực sự có ý thức học
tập, phối hợp chặt chẽ với bạn bè, thầy cô.
- Phải phát huy tối đa tính tích cực trong học tập, khi đến lớp phải chuẩn
bị bài cũ, xem nội dung bài mới, quyết tâm thực hiện theo sự hướng dẫn của
giáo viên (VD: Học bài, làm bài tập ở sách giáo khoa, sách bài tập) thực hiện
theo phương châm “Vào lớp thuộc bài, ra lớp hiểu bài”. Có như thế thì hiệu quả
học tập sẽ được tiến bộ chất lượng học tập ngày càng nâng cao.
- Liên quan đến cá nhân học sinh một yếu tố quan trọng nhất là bản thân học
sinh phải tự rèn luyện đạo đức, tác phong, phát triển trí tuệ bản thân… như vậy mới
trở thành người có tài có đức, đem lại lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
V. KIẾN NGHỊ
- Môn vật lý là môn khoa học tự nhiên tất cả những khái niệm quy tắc,
định luật,… đều hình thành từ kết quả của thí nghiệm. Do đó, muốn cho học
sinh học tốt, say mê môn học cần thiết để có phòng chức năng riêng biệt có đầy
đủ dụng cụ thí nghiệm, dụng cụ hỗ trợ,… Vậy mong nhà trường, các cấp quản lý
giáo dục có kế hoạch xây dựng, cung cấp thiết bị để tạo điều kiện thuận lợi cho
giáo viên có thể hoàn thành việc giảng dạy tốt hơn.
Trên đây là một số giải pháp và bài học kinh nghiệm mà tôi đã và đang
thực hiện trong quá trình giảng dạy. Song việc giảng dạy và giáo dục học sinh là
một nghệ thuật. Bởi thế, có nhiều phương pháp, nhiều cách thức, nhiều con
đường đi đến thành công, mà kết quả học tập của học sinh chính là sự đánh giá
cho sự thành công đó. Rất mong sự đóng góp của quý đồng nghiệp./.
THAM LUẬN
CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN
ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY MÔN VẬT LÍ Ở TRƢỜNG
THCS CHÂU HƢNG, HUYỆN THẠNH TRỊ, TỈNH SÓC TRĂNG
Phạm Minh Hùng
Hiệu trưởng THCS Châu Hưng, huyện Thạnh Trị
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất lượng dạy và học là mối quan tâm hàng đầu của nhà trường, và càng
lúc càng đặt ra những yêu cầu để nâng cao chất lượng. Trong đó tập trung tìm
cách đổi mới phương pháp giảng dạy học là một yếu tố quan trọng và quyết
định. Phương pháp giảng dạy tích cực tất nhiên sẽ mang lại cho phương pháp
học tập hiệu quả hơn, từ đó sẽ gặt hái chất lượng tốt hơn.
Vật lí là một bộ môn khoa học thực nghiệm, phần lớn kiến thức được hình
thành từ thực nghiệm. Để nâng cao chất lượng bộ môn Vật lí giáo viên cần phải
đổi mới phương pháp, học sinh cần tích cực chủ động trong học tập. Có như vậy
mới nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, góp phần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ
lòng yêu nước, yêu quê hương và gia đình; tinh thần tự tôn dân tộc, lý tưởng xã
hội chủ nghĩa; lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật; tinh thần hiếu học, chí
tiến thủ lập thân, lập nghiệp.
II. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm chỉ đạo của Phòng GD&ĐT có những kế hoạch cụ
thể, lâu dài về thực hiện chương trình ... đã định hướng cho công tác quản lý
chỉ đạo về đổi mới phương pháp dạy học để nâng dần chất lượng bộ môn Vật
lí nói riêng, chất lượng giáo dục nói chung.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, tham gia đầy đủ các lớp
tập huấn và có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.
2. Khó khăn
- Số lượng lớp-học sinh ít, GV ít (môn Vật lí 01 GV) nên không có điều
kiện trao đổi chuyên môn.
- BGH, tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch định hướng, không cùng
chuyên môn với giáo viên nên trong sinh hoạt chuyên môn còn nhiều hạn chế.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN ĐỔI
MỚI PPGD MÔN VẬT LÍ
1. Về xây dựng kế hoạch
- Xây dựng kê hoạch phân công chuyên môn một cách hợp lý, ổn định để
phát huy kinh nghiệm của giáo viên, tổ.
- Có những chế độ động viên, khuyến khích khen thưởng đối với giáo viên
có chất lượng giảng dạy bộ môn ngày càng cao, có học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh.
2. Một số giải pháp
2.1 Chỉ đạo đổi mới PPGD
- Tiếp tục thực hiện đổi mới quản lí, đổi mới phương pháp dạy học: đổi
mới soạn giảng, thống nhất nội dung chương trình, ứng dụng CNTT trong soạn
giảng, đổi mới cách kiểm tra đánh giá…, giáo viên phải thường xuyên nghiên
cứu, sử dụng những thành quả của những môn khoa học có liên quan, cần phải
tiếp thu những thành tựu tiên tiến, những kinh nghiệm và phương pháp giảng
dạy theo hướng đổi mới nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng đối với người thầy - Người thầy
với sự say mê sáng tạo và đạo đức, người thầy phải tạo được niềm tin cho học
sinh, thương yêu học sinh. Điều này rất quan trọng, bởi vì nếu học sinh có
niềm tin ở người thầy của mình thì mới tự nguyện, cố gắng đem hết sức mình để
học tập, phấn đấu. Chính niềm tin ở người thầy giúp các em có đủ nghị lực và
mục đích học tập, vượt qua mọi khó khăn trở ngại vươn tới ước mơ của mình
(Học để hiểu-để làm ngưởi)
- Chỉ đạo tổ chuyên môn giúp giáo viên cải tiến các PPDH truyền thống,
kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học phù hợp với đặc thù bộ môn, từng
bước đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học
sinh, phù hợp năng lực học sinh, thông qua các chuyên đề, mạng internet, trường
học kết nối … để được các chia sẻ và góp ý, học hỏi lẫn nhau, tìm ra nhiều biện
pháp hay hơn nữa để nâng cao chất lượng bộ môn.
2.2 Đầu tư cơ sở vật chất
- Trang bị đồ dùng dạy học phòng bộ môn: tận dụng mọi thiết bị, dụng cụ
thí nghiệm của nhà trường để phục vụ bài giảng. Những thí nghiệm khó có thể
nhờ đến sự trợ giúp của CNTT để trình chiếu cho HS xem. Vấn đề này đặc biệt
quan trọng với những bộ môn thực nghiệm; những tiết có bài thực hành nhất
thiết phải làm đầy đủ, không làm qua loa để HS nhớ lại kiến thức cũ. Việc làm
này là rất cần thiết vì đa số HS rất thích thực hành để tự mình khám phá một vấn
đề khoa học hay làm lại những gì mình đã tiếp thu trên lớp. Đây cũng là cách để
thu hút HS học bộ môn.
- Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất (thiết bị, dụng cụ thí nghiệm, tranh ảnh,
kết nối mạng, máy chiếu..) tuy đã được nhà trường trang bị nhưng vẫn chưa thể
đầy đủ đa dạng để đáp ứng hết nhu cầu của từng tiết dạy được. Làm sao để học
sinh nhớ được những kiến thức cơ bản đó thì trong từng tiết dạy, giáo viên cần
biết vận dụng linh hoạt, mềm dẻo một số phương pháp dạy học tích cực, phù
hợp với nội dung bài dạy và đặc điểm đối tượng người học.
2.3 Chỉ đạo nâng cao chât lượng bộ môn
- Quán triệt đến CB, GV về việc đổi mới PPGD, mỗi cán bộ quản lý
trường học phải giúp giáo viên nhận thức đúng cơ sở của đổi mới PPDH.
Nghiên cứu kỹ định hướng đổi mới PPDH trong chương trình môn học để từ đó
lựa chọn nội dung dạy học đã quy định trong chương trình giáo dục phổ thông,
tập trung đi sâu những nội dung trọng tâm bài học và kết hợp lồng ghép giáo dục
đạo đức HS.
- Công tác quản lý chỉ đạo cần quan tâm đến việc lựa chọn và bố trí đội ngũ
TTCM, đội ngũ giáo viên đúng người, đúng việc, phù hợp với năng lực của họ,
nhằm phát huy tối đa năng lực cá nhân của họ vào hoạt động của nhà trường. Chỉ
đạo BGH, tổ chuyên môn cần đầu tư nhiều hơn trong việc lựa chọn lực lượng dự
giờ, đánh giá tiết dạy (kiến thức, phương pháp..) đúng thực chất, tạo điều kiện cho
GV rút kinh nghiệm và qua đó giúp GV có điều kiện cải tiến PPGD.
- Chỉ đạo tổ chuyên môn tập trung tìm cách đổi mới phương pháp giảng
dạy học trong sinh hoạt chuyên môn là một yếu tố quan trọng, không xem nhẹ.
Phương pháp dạy học tích cực hiện nay là “Lấy học sinh làm trung tâm”, GV là
người hướng dẫn và học sinh là người thực hiện mọi hoạt động mà GV giao cho.
GV-HS có mối tương quan chặt chẽ với nhau trong quá trình dạy học. Để tiết
học đạt hiệu quả cao phải được sự hợp tác của cả GV và HS. Đặc biệt người GV
cần “ Đổi mới phương pháp dạy học” sao cho yêu thích được bộ môn học. Tiếp
theo đó là cần chỉ đạo tổ chuyên môn, giáo viên xây dựng kế hoạch giảng dạy cụ
thể với từng đối tượng từng lớp và trong quá trình giảng dạy từ khâu soạn bài
đến khâu lên lớp hay khâu hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài, sử dụng thiết bị dạy
học cần chuẩn bị cẩn thận chu đáo để có những bài giảng hay nhất phù hợp nhất.
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra đánh giá, nội dung phù hợp với trình độ,
mức độ phát triển của mỗi học sinh trong quá trình học tập, nhận xét – cho điểm
khách quan. Có thể thay đổi hình thức kiểm tra kết hợp giữa 2 hình thức trắc
nhiệm và tự luận phù hợp với từng đối tượng lớp HS. Chấm, nhận xét và trả bài
đúng thời gian để HS kịp thời khắc phục sai sót.
- Phát huy hiệu quả phòng bộ môn, vận dụng những thành tựu mới của
khoa học kỹ thuật, công nghệ tin học trong việc đổi mới PPDH; tổ chức chỉ đạo
thực hiện các biện pháp quản lý có hệ thống, khoa học, đồng bộ và có tính khả
thi đối với việc đổi mới PPDH. Đổi mới PPDH là nhiệm vụ chung của nhà
trường. Do đó cần có chính sách, cơ chế phù hợp, tạo điều kiện và khuyến khích
tính sáng tạo, độc lập và trách nhiệm của giáo viên trong việc đổi mới PPDH.
- Quan tâm chỉ đạo đánh giá tiết dạy theo hướng đổi mới, không xem nhẹ
việc hướng dẫn HS cách học trên lớp và cách tự học ở nhà phải cụ thể, dễ thực
hiện, giúp tiết dạy có hiệu quả.
3. Kết quả:
Chất lượng môn Lí tăng lên rõ rệt, tỉ lệ HS khá giỏi dần tăng lên cả về số
lượng và chất lượng.
Năm học Tổng số
HS
Chia ra
Giỏi Khá TB Yếu
2014-2015 47 8 15 17 7
2015-2016 55 9 20 21 5
2016-2017* 59 11 22 22 4
* Điểm HK1; hằng năm luôn có đạt HS giỏi huyện môn Vật lí
IV. KẾT LUẬN:
Đến đây tôi xin kết luận bằng một số ý như sau:
- Thường xuyên tuyên truyền giáo dục ý thức trách nhiệm của người giáo
viên, chú trọng việc dạy chữ-dạy người. Cần phải xây dựng tinh thần đoàn kết
nội bộ, cùng nhau thấy được niềm vinh dự chung từ đó có trách nhiệm giúp đỡ
lẫn nhau, bổ sung cho nhau trong nâng cao chất lượng dạy học.
- Coi trọng sinh hoạt của tổ chuyên môn và phát huy chức năng phòng bộ
môn, việc sử dụng trang TBDH, ứng dụng CNTT hợp lý.
- Tuyên dương khen thưởng kịp thời, điểm cộng trong thi đua, gắn với
đánh giá công chức, viên chức cuối năm. Có thể nói đây là động lực, trách
nhiệm để mọi CB, GV phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
* Tóm lại, để công tác chỉ đạo giáo viên đổi mới PPGD môn Vật lí nói
riêng, nâng cao chất lượng chung của trường phải có quan tâm chỉ đạo của
BGH, ban ngành, đoàn thể, ý thức trách nhiệm của GV, sự quan tâm của CMHS
và cố gắng của HS. Việc nâng cao chất lượng dạy học phụ thuộc vào việc đổi
mới PPDH của đội ngũ giáo viên nhà trường. Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong
công tác quản lý chỉ đạo, quản lý đổi mới PPDH nhằm giúp giáo viên chuẩn bị
bài dạy thông qua sách giáo khoa, phân tích nội dung chương trình, góp ý về
việc soạn giáo án, góp ý cụ thể về phương pháp dạy học mới, cách tổ chức một
giờ học hiệu quả và kiến thức học sinh thu nhận sau giờ dạy. Do đó, việc quản
lý, chỉ đạo dạy học theo phương pháp mới là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá
trình quản lý của nhà trường trong thời đại đổi mới giáo dục ngày nay.
Trên đây là một số ý kiến tham luận của trường THCS Châu Hưng về
công tác chỉ đạo giáo viên đổi mới PPGD môn Vật lí. Tôi rất mong sự góp ý của
quý đồng nghiệp để tìm ra những giải pháp hay hơn nữa nhằm góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục. Xin trân trọng cảm ơn !
THAM LUẬN
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HỌC TẬP MÔN VẬT LÝ CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ
Trần Phƣơng Điền
Giáo viên trƣờng THCS Tôn Đức Thắng
I. Thực trạng học tập bộ môn vật lý hiện nay
Từ nhiều năm nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đã không ngừng đổi mới và cải
cách công tác giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả học tập của học sinh cho ngang
tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới, sẵn sàng hoà nhập với nền kinh
tế năng động hiện nay, cụ thể là:
- Đổi mới sách giáo khoa.
- Đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá.
- Đổi mới phương pháp dạy học.
- Đầu tư trang thiết bị trường học.
- Tạo thu nhập ổn định, tổ chức hội thảo chuyên đề...
Tuy nhiên với nhiều biện pháp tích cực như vậy mà kết quả học tập của học
sinh vẫn còn thấp, chưa ngang tầm quốc tế cũng như trong khu vực. Chất lượng
đại trà không đảm bảo, còn một bộ phận lớn học sinh có trình độ học tập yếu
kém, không quan tâm đến việc học tập.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng này?
II. Những nguyên nhân dẫn đến chất lượng học tập của học sinh chưa cao
1. Nguyên nhân khách quan
- Phụ huynh chưa quản lí và kiểm soát được sự phát triển và hội nhập của
công nghệ thông tin, mạng xã hội, internet… học sinh dễ bị cám dỗ bởi các
phim ảnh, trò chơi không lành mạnh trên mạng...
- Những gia đình có điều kiện kinh tế tốt thì nhồi nhét cho con cái học quá
nhiều, môn nào cũng học thêm, có khi một môn học thêm nhiều thầy. Các em
không còn thời gian để vui chơi giải trí, thậm chí thời gian chuẩn bị cho bài học
trên lớp cũng không có.
- Những gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn thì suốt ngày lăn lộn với
cuộc sống để kiếm tiền thì không quan tâm gì đến việc học hành của con cái, nếu
có quan tâm đi nữa thì cũng không đủ thời gian để theo dõi chuyện học tập của
các em cho nên các em dễ bị cám dỗ bởi các phần tử xấu, bỏ bê chuyện học hành.
2. Nguyên nhân chủ quan
2.1. Về phía học sinh
Hiện nay, đa số học sinh chưa xác định được động cơ học tập đúng đắn,
chưa có ý thức học tập như:
- Thường xuyên không mang sách vở khi đến lớp.
- Không tập trung trong giờ học, nói chuyện với bạn gây ồn hoặc nhiều
em giả vờ tập trung vào bài giảng của thầy cô nhưng thực chất các em không
học mà đang suy nghĩ việc khác.
- Lười không chép bài hoặc chép qua loa cho có lệ.
- Đa số học sinh không học bài cũ, không nghiên cứu bài mới trước khi
đến lớp. Nếu có soạn bài thì soạn bài theo hình thức chép từ sách giải hoặc sách
giúp học tốt, đôi lúc các em không biết mình chép đúng hay sai.
- Không nắm vững kiến thức cũ, các em không theo kịp bài học nên các
em thiếu tự tin tham gia xây dựng bài, dần dần các em quên đi việc phát biểu
xây dựng bài hoặc đôi lúc hiểu bài muốn phát biểu nhưng cứ ngại nói rồi các em
bỏ qua việc phát biểu luôn. Điều này kìm hãm tính thích thú đối với việc học
của các em.
- Thường hay ỷ lại, dựa dẫm vào bạn bè trong kiểm tra, thi cử.
- Nhiều học sinh không biết cách phân chia thời gian biểu học bài tại nhà
cho hợp lí. Thường tập trung môn này thì bỏ học môn kia…Thầy cô yêu cầu học
gì thì học nấy, không chủ động tìm tòi học thêm.
- Suy nghĩ chủ quan: “Thầy cô trả bài rồi nên không cần học nữa”, vô tình
từng ngày các em tạo ra lỗ hỏng kiến thức rất lớn. Học sinh chây lười trong học tập.
2.2. Về phía phụ huynh
- Công tác xã hội hoá giáo dục còn dừng lại ở mức độ hình thức mà chưa
đi vào thực tế, chưa vạch ra được kế hoạch hành động cụ thể cho công tác phối
hợp 3 bên: Nhà trường, gia đình và xã hội để giáo dục học sinh.
- Một số phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập
của con em do hoàn cảnh, do suy nghĩ lệch lạc… Bên cạnh đó, có nhiều phụ
huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em nhưng kiến thức bậc
THCS khó hơn nhiều, nên cha mẹ khó giám sát cách học của con em tại nhà, mà
chỉ quan tâm ở mức độ thấp, nhắc nhở qua loa như con cố gắng nhé, con thuộc
bài chưa?.. Đôi lúc các em chưa thuộc bài nhưng trả lời con học thuộc rồi thì cha
mẹ đâu biết được vì không biết kiểm tra ra sao.
- Đa số phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn thì thấy con mình lên lớp đều
đều là được rồi không để ý gì đến chất lượng học của con mình ra sao.
2.3. Về phía giáo viên và chƣơng trình sách giáo khoa
- Giáo viên đôi lúc nóng tính, thiếu tính mềm dẻo, thiếu khiếu hài hước.
Đôi lúc nội dung bài dạy dài, nên ảnh hưởng đến thời gian quan tâm đồng bộ
đến từng học sinh trong lớp.
- Thầy Cô giáo chưa mạnh dạn đánh giá thực chất kết quả học tập của học
sinh do sợ ảnh hưởng đến chỉ tiêu nhà trường đề ra. Kết quả là học sinh lười
học, không học vẫn đủ điểm số để lên lớp. Từ đó vô tình làm học sinh suy nghĩ
tiêu cực chây lười trong học tập, không tự giác học tập bởi đằng nào các em
cũng được lên lớp.
III. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng học tập của học sinh
- Trước hết bản thân mỗi giáo viên đứng lớp phải có niềm say mê, có tình
yêu thương đối với học trò, không ngại khó. Cố gắng kiểm soát tính nóng giận,
tạo tâm lí thoải mái cho học sinh.
- Thầy (Cô) giáo phải có kỹ năng tổ chức các hoạt động dạy học, đảm bảo
gây hứng thú học tập cho học sinh, kích thích sự tìm tòi học hỏi trong học tập.
- Thường xuyên cho các em cơ hội, hướng dẫn, chỉ bảo đúng sai cho các
em về mọi mặt: từ việc học, việc giao tiếp, ứng xử hoặc các kỹ năng sống khác
trong từng tiết dạy. Tránh quan niệm phân biệt việc đó là công việc của giáo
viên chủ nhiệm hay là của giáo viên bộ môn hay là của các bộ phận khác. Vì có
như vậy các em mới thấy được sự gần gũi, yêu thương thực sự của thầy cô, các
em mới tôn trọng thầy cô, mà tôn trọng thì các em sẽ biết vâng lời.
- Giáo viên bộ môn phải tăng cường nâng cao kiến thức chuyên môn, kiến
thức về Công nghệ thông tin, kiến thức xã hội tổng hợp để tạo sinh động cho bài
dạy và tạo hứng thú cho học sinh.
- Tăng cường tính tập trung vào bài học của học sinh bằng cách chủ động
gọi học sinh trả lời dù học sinh không phát biểu. Để các em phải quan tâm, theo
dõi bài học và rèn luyện tính tự tin, tích cực cho bản thân.
- Thường xuyên nhắc nhở các em học bài cũ, soạn bài mới và kiểm tra
việc học cũng như chuẩn bị của các em bằng nhiều cách có thể dò bài nhiều lần,
hoặc phân công học sinh tự kiểm tra chéo lẫn nhau và báo kết quả về giáo viên
bộ môn…
- Cần phân loại học sinh yếu kém theo kiểu nào. Học sinh yếu do tố chất
thì đôi lúc cần giới hạn nội dung bài cũ, báo trước để các em chuẩn bị tốt để
động viên tinh thần. Nếu học sinh có tố chất nhưng yếu do lười học thì thường
xuyên giao bài học, bài tập để các em làm, có kiểm tra, nhắc nhở. Đôi lúc giao
cho các em nhiệm vụ nhóm trưởng khi làm việc nhóm để kích thích tính tích cực
của các em.
- Trong quá trình dạy, câu hỏi đưa ra phải phù hợp trình độ học sinh khá,
giỏi, trung bình hay yếu kém. Tuy nhiên, đôi lúc các câu hỏi đưa ra chung cho
cả lớp là những câu hỏi dễ để lớp thảo luận chung mục đích việc này là lôi kéo,
kích thích các em học sinh yếu, kém tham gia bài học để các em có cảm giác
mình cũng giống các bạn khác làm được câu này, trả lời được câu kia… Điều
này giúp các em thoát khỏi vỏ bọc e dè, trốn tránh.
- Khi làm việc nhóm thì nhóm trưởng không nhất thiết phải là những em
khá giỏi mà có thể là những em yếu, kém. Giáo viên khéo léo hướng dẫn các em
biết cách phân công nhiệm vụ và thực hiện nhiệm vụ. Việc làm giúp các em tự
giác phải tham gia bài học, tự giác tự học hỏi bạn mình trong nhóm, tránh tình
trạng ỷ lại người khác.
- Sử dụng triệt để đồ dùng dạy học sẵn, tự làm và sưu tầm thực tiễn.
- Động viên, khen thưởng kịp thời khi học sinh tiến bộ.
IV. Bài học kinh nghiệm
- Dạy học là công việc lâu dài, vất vả. Do vậy giáo viên ngoài nhiệm vụ
truyền đạt kiến thức phải tìm cách thu hút sự tập trung chú ý của học sinh trong
giờ học làm cho giờ học có hiệu quả, phải yêu thương uốn nắn các em từ những
việc làm nhỏ nhất.
- Quan tâm đồng đều học sinh trong lớp. Trong mỗi tiết dạy cần nắm bắt
tâm lí, tính tình của mỗi học sinh để giáo viên có thể tìm ra biện pháp phù hợp
với từng đối tượng học sinh. Tạo mọi điều kiện cho các em phát triển điểm
mạnh chính là tạo hứng thú cho các em học tốt .
V. Những đề xuất
- Địa phương quản lí chặt các dịch vụ điện tử quanh khu vực trường.
- Phụ huynh quản lí việc sử dụng mạng xã hội, điện thoại thông minh… của
con em.
Trên đây là một số biện pháp nhằm đưa ra và thực hiện để góp phần nâng
cao chất lượng dạy học môn vật lý cấp Trung học cơ sở. Rất mong sự góp ý của
các đồng nghiệp để bài tham luận được hoàn chỉnh hơn.
Xin trân trọng kính chào!
THAM LUẬN
GIÖP HỌC SINH HỨNG THÖ HỌC TẬP MÔN VẬT LÍ 6 QUA VIỆC
LÀM ĐỒ DÙNG DẠY HỌC, HƢỚNG DẪN LÀM THÍ NGHIỆM
Võ Trọng Tín
Trường THCS Nhơn Mỹ 2- Huyện Kế Sách
I. TÌNH HÌNH CHUNG
Vật lí là một môn khoa học tự nhiên được con người ứng dụng rộng rãi
trong đời sống và kĩ thuật. Đặc biệt hơn những kiến thức vật lí có giá trị to lớn
trong đời sống và sản xuất của nông dân địa phương, trong việc đẩy mạnh “công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước”
Do vậy, trong một số giờ dạy bắc buộc phải có dụng cụ thí nghiệm - thực
hành và sử dụng các dụng cụ đó như thế nào mới đạt được hiệu quả cao? Vì các
hiện tượng vật lí là các hiện tượng luôn xảy ra theo một qui luật nhất định, việc
hình thành kĩ năng và năng lực đạt được kiến thức (năng lực nhận thức) và xử lí
thông tin của học sinh trở nên rất quan trọng
II. THỰC TRẠNG
1. Về phía giáo viên
Dù đã hết sức cố gắng để từng bước đổi mới phương pháp dạy học, nâng
cao chất lượng môn Vật Lí, đồng thời cũng đã tham dự đầy đủ các lớp tập huấn,
thực hiện đúng và đủ nội dung của các văn bản chỉ đạo của ngành, nhưng vẫn
còn một số hạn chế nhất định trong thực tế như sau:
- Giáo viên còn mất nhiều thời gian để chuẩn bị, nghiên cứu các thiết bị
thí nghiệm cho một tiết dạy.
- Một số thiết bị sử dụng quá lâu nên đã bị hỏng, một số thì không chính
xác vịêc chuẩn bị và làm thí nghiệm cũng gặp khó khăn.
- Trình độ học sinh không đồng đều, việc lĩnh hội kiến thức của những
học sinh yếu từ các lớp dưới khó so sánh với các học sinh khác, nhưng thời gian
của tiếy dạy không cho phép giáo viên hướng dẫn lại chi tiết những kiến thức từ
lớp dưới được.
2. Về phía học sinh
- Đây là môn học mới đối với học sinh lớp 6 có làm thí nghiệm.
- Một số học sinh chưa có ý thức cao trong học tập,trong việc tự học, . . .
Sắp xếp chưa hợp lí thời gian học bài, nhất là thời gian học ở nhà.
- Kiến thức cá nhân của một số học sinh chưa được liên tục, chưa vững
vàng nên khi giáo viên gọi phát biểu hay làm bài tập thì các em còn rất lúng túng
khi xử lí thông tin, lập luận thiếu căn cứ.
- Một số học sinh còn thói quen học thuộc lòng phần ghi nhớ nên các em
chưa khắc sâu được kiến thức dẫn đến khả năng vận dụng vào thực tế chưa cao.
3 . Cơ sở vật chất – thiết bị giáo dục:
Thiết bị giáo dục là một yếu tố quan trọng của hệ thống dạy học. Nhằm
đáp ứng mục tiêu bài dạy một cách có hiệu quả trong giai đoạn đổi mới phương
pháp giảng dạy hiện nay. Nhưng thực tế thì một số thiết bị của trường đã bị hỏng
do sử dụng quá lâu, một số thì chưa đảm bảo chất lượng.
Ví dụ: Khi nước sôi nhưng nhiệt kế không chỉ đúng 1000C
* Có thể nói, từ những cơ sở thực tế đó cũng là những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tình trạng dạy và học bộ môn Vật lí 6 chưa mang lại hiệu quả cao
III. CÁC GIẢI PHÁP
Để nâng cao chất lượng bộ môn Vật lí 6. Bản thân đã thực hiện các biện
pháp sau:
- Nghiên cứu kỹ chương trình giảng dạy: Dựa trên sách giáo khoa, sách
giáo viên, tài liệu giảm tải, tài liệu chuẩn kiến thức . . .
- Xây dựng phương pháp giảng dạy đạt hiệu quả.
- Soạn giáo án phù hợp cho mỗi tiết dạy.
- Nâng cao biện pháp kiểm tra, đánh giá học sinh.
Nhưng thực tế khi đã áp dụng các biện pháp nêu trên nhưng tôi nhận thấy
khi học môn vật lí học sinh vẫn còn cảm giác mệt mõi, nhàm chán do không có
dụng cụ làm thí nghiệm hoặc làm thí nghiệm không đạt được kết quả như mong
muốn. Từ đó học sinh khó tự mình rút ra được kết luận cho một hiện tượng nào
đó, những trường hợp này học sinh trông chờ vào sự hướng dẫn của giáo viên để
rút ra kết luận. Học sinh chấp nhận tiếp thu kiến thức một cách gƣợng gạo,
không thuyết phục.
Trước tình hình nêu trên, nhằm gây hứng thú cho học sinh lớp 6 yêu thích
học tập môn vật lí tôi tập trung vào hai biện pháp sau đây:
Biện pháp 1: Làm đồ dùng dạy học:
* Trong quá trình giảng dạy thầy trò chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn
trong việc truyền đạt và tiếp thu kiến thức ở chương nhiêt học, vật lí 6 như sau:
- Ở chương II: “Nhiệt học” không có thiết bị nào dùng để giúp cho học
sinh thấy được “sự bay hơi” và thí nghiệm về “sự ngưng tụ” thì chưa hấp dẫn
cho học sinh.
- Từ những khó khăn trên tôi nghĩ: Cần phải tạo ra một thiết bị giúp giáo
viên dễ dàng truyền đạt kiến thức còn học sinh thì hứng thú học tâp, dễ dàng tiếp
thu và khắc sâu được kiến thức.
a) Cấu tạo:Gồm ba phần chính:
* Phần thí nghiệm sự bay hơi gồm:
- Đèn cồn cải tiến.
- Bình đun cho nước bay hơi.
- Ống dẫn hơi.
* Phần thí nghiệm sự ngưng tụ gồm:
- Ống đồng hình xoắn ốc dùng để toả nhiệt.
- Bình làm lạnh giúp hơi nước ngưng tụ.
* Giá đỡ.
b) Phạm vi sử dụng:
Bộ dụng cụ này chủ yếu dùng để dạy bài 26, 27 vật lí 6 (Sự bay hơi và sự
ngưng tụ) và một số bài khác ở phần nhiệt học cụ thể như sau:
* Để dạy bài 26: Sự bay hới và sự ngưng tụ (mục I)
- Bài này trong sách giáo khoa không có thí nghiệm nào cho học sinh
quan sát mà chỉ dựa vào những kinh nghiệm trong cuộc sống để hình thành kiến
thức về sự bay hơi, dạy như thế theo tôi học sinh tiếp thu kiến thức một cách quá
trừu tượng, khó khắc sâu được kiến thức.
- Để dạy bài này với bộ dụng cụ của tôi chỉ cần dùng đèn cồn cải tiến và
bình đun nước chỉ khoảng vài phút là học sinh quan sát được sự bay hơi. Từ đó
học sinh dễ dàng rút ra được kết luận “Sự chuyển từ thể lỏng sang thể hơi gọi là
sự bay hơi”.
* Để dạy bài 27: Sự bay hơi và sự ngưng tụ (mục II)
- Bài này trong sách giáo khoa cho học sinh làm thí nghiệm đối chứng và
phải làm rất nhiều việc, trả lời nhiều câu hỏi mới kết luận được dự đoán đúng
hay sai.
- Để dạy bài này với bộ dụng cụ của tôi thì nên dùng đèn cồn cải tiến và
bình đun nước vài phút học sinh quan sát lại sự bay hơi. Sau đó giáo viên nối
ống dẫn hơi sang bình làm lạnh, ngay sau đó học sinh quan sát được sự ngưng tụ
và học sinh dễ dàng rút ra được kết luận “Sự chuyển từ thể hơi sang thể lỏng gọi
là sự ngưng tụ”.
* Để dạy bài 28, 29 vật lí 6 “Sự sôi”: Bộ dụng cụ này giúp giáo viên và
học sinh rút ngắn thời gian làm thí nghiệm, bộ giá đỡ vững chắc giúp giáo viên
và học sinh yên tâm hơn so với giá đỡ hiện có của nhà trường.
* Bộ dụng cụ này còn là cơ sở giúp học sinh học các bài học, môn học có
liên quan khác như: Ở môn hoá học về điều chế nước tinh khiết (hoá học 8, điều
chế rượu êtylic (hoá học 9)
* Ưu điểm nổi bật của bộ thí thí nghiệm này là giáo viên hướng dẫn cho
học sinh quan sát được cả hai hiện tượng bay hơi và ngưng tục xảy ra liên tục
và khắc sâu được: Bay hơi và ngưng tụ là hai quá trình trái ngược nhau.
Biện pháp 2: Giúp học sinh làm thí nghiệm có hiệu quả cao:
Đối với môn vật lí: Việc tiến hành thí nghiệm, dựa vào kết quả thí nghiệm
để rút ra một kết luận, một hiện tượng vật lí hay dùng thí nghiệm để kiểm tra
kết quả dự đoán. Từ đó giúp học sinh khắc sâu được kiến thức là một điều rấy
quan trọng.
Theo kinh nghiệm của bản thân tôi, để giúp học sinh lớp 6 hoàn thành
tốt được các thí nghiệm thì giáo viên và học sinh cần đảm bảo được các yêu cầu
cơ bản sau:
* Đối với Giáo viên:
- Giáo viên nên nghiên cứu kỹ về dụng cụ thí nghiệm và các bước tiến
hành khi dạy một bài cụ thể(có thể thực hiện trước một vài lần để kiểm tra độ
chính xác và đề phòng những tình huống có thể xảy ra)
- Định hướng công việc và mục tiêu thực hiện
Ví dụ: Khi làm thí nghiệm (hình 8.1) ở bài 8 “ Trọng lực – Đơn vị lực”
Học sinh cần phải:
- Nắm được công việc là: Treo lò xo vào giá đỡ, móc quả nặng vào
lò xo, xác định độ dài của lò xo trước và sau khi móc quả nặng.
- Rút ra được kết luận: Lò xo có tác dụng lực vào quả nặng, lực đó có
phương thẳng đứng, chiều từ dưới lên trên. Quả nặng vẫn đứng yên chứng tỏ
có một lực khác kéo quả nặng theo chiều ngược lại và mạnh bằng lực kéo của
lò xo.
- Đối với một số thiết bị dụng cụ ngành cung cấp còn thiếu, chất lượng
chưa cao hoặc đã bị hư hao, giáo viên cần phải có sự sáng tạo để tìm và thay
thế bằng một dụng cụ thí nghiệm khác. Nhưng về mặt tính chất thì không thay
đổi, thực hiện dễ dàng hơn, về hiệu quả thì tương đương hoặc cao hơn so với
các dụng cụ đã sử dụng.
Ví dụ: Khi dạy bài 20 “Sự nở vì nhiệt của chất khí”. Nếu các ống
thuỷ tinh không đủ cho học sinh các nhóm làm thí nghiệm hoặc các nút thun
không đủ chặt. Trường hợp này Giáo viên cỏ thể thay cả ống thuỷ tinh và nút
thun bằng một cái bong bóng cao su trùm lên miệng bình thuỷ tinh, bong bóng
sẽ nở ra hay co lại ( một ít ) khi nhiệt độ của chất khí bên trong bình thay đổi,
hiện tượng này giúp học sinh dễ dàng rút ra được kết luận của bài học.
- Phải giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm và các thành viên trong nhóm,
đồng thời đưa ra thời gian cụ thể cho từng thí nghiệm.
-. Giáo viên theo dõi, uốn nắn, sữa sai cho học sinh, đồng thời phải có
sự linh hoạt trong thí nghiệm để kết quả thí nghiệm diễn ra nhanh hơn, chính
xác hơn.
* Đối với học sinh:
- Xác định được nội dung công việc cần làm của nhóm
- Chú ý quan sát thí nghiệm, từ đó rút ra kết luận cho bài học
- Nghiêm túc, trung thực khi đọc kết quả thí nghiệm. Có ý thức phối hợp
trong hoạt động nhóm.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC
Qua một năm thực nghiệm, tôi thấy rằng: Khi có được dụng cụ để làm
thí nghiệm và biết cách làm thí nghiệm học sinh rất hứng thú, say mê môn học
vật lí, từ đó học sinh tiếp thu kiến thức nhanh hơn, khắc sâu kiến thức hơn vì các
em được tụ tay mình làm thí nghiệm và rút ra được kết luận.
Từ sự hứng thú, say mê học tập của học sinh là cơ sở, là động lực giúp
cho chất lượng học sinh được nâng lên một cách rõ rệt được thể hiện như sau
Những kết quả mà học sinh đạt được trong cách làm này cũng là cơ sở, là
nền tảng cho học sinh học tập môn vật lí ở các lớp học và cấp học sau này.
V. KẾT LUẬN
Tôi nhận thấy việc tự làm đồ dùng và hướng dẫn HS sử dụng thiết bị thí
nghiệm có một số hiệu quả sau
- Giúp học sinh có được dụng cụ để học tập.
- Giúp học sinh làm được các thí nghiệm có hiệu quả cao.
- Hình thành kỹ năng quan sát thí nghiệm để rút ra kết luận, kiểm tra một
dư đoán nào đó bằng thí nghiệm kiểm tra.
- Có được sự hứng thú đối với môn học.
- Có ý thức vận dụng kiến thức học được vào thực tế.
- Có tinh thần phối hợp cao trong hoạt động nhóm.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của tôi, dù đã
hết sức cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi. Nhưng đó chỉ là kinh nghiệm của
bản thân, chắc chắn trong cac đồng nghiệp sẽ còn nhiều kinh nghiệm quí báu
hơn nữa. Rất mong quí đồng nghiệp đóng góp thêm ý kiến.
Tôi xin chân thành biết ơn.
THAM LUẬN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƢỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN VẬT LÍ
PHẦN ĐỊNH LUẬT JUN-LENXƠ Ở TRƢỜNG THCS MỸ TÖ
Mai Thị Nuôi
Giáo viên trƣờng THCS Mỹ Tú
I. THỰC TRẠNG
Bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục. Bồi dưỡng học sinh giỏi cũng là một công việc khó khăn và
lâu dài, đòi hỏi nhiều công sức của thầy và trò. Trong những năm gần đây, qua
các kỳ thi học sinh giỏi vòng huyện, vòng tỉnh nhà trường cũng đã đạt được
những thành công nhất định góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà
trường. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Vật lí ở trường THCS Mỹ Tú
trong những năm qua có những thuận lợi và khó khăn như sau:
1. Thuận lợi:
- Được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát và kịp thời của lãnh đạo nhà trường.
Trường có những kế hoạch cụ thể, lâu dài trong công việc bồi dưỡng học sinh giỏi
- Trường có cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ tương đối đầy đủ giúp
cho việc dạy và học đạt kết quả tốt.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm
trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm liền.
2. Khó khăn
- Giáo viên và học sinh có ít thời gian cho việc ôn tập bồi dưỡng vì đa số
giáo viên phải bảo đảm chất lượng đại trà, vừa phải làm công tác kiêm nhiệm do
đó cường độ làm việc quá tải và việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi cũng có phần bị hạn chế. Học sinh học chương trình chính khóa còn phải
học ngoại khóa những môn khác, nên các em đầu tư ít thời gian cho việc học bồi
dưỡng học sinh giỏi, do đó kết quả thường không cao.
- Giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn chương trình dạy, theo kinh
nghiệm của bản thân, theo chủ quan, tự nghiên cứu, tự sưu tầm tài liệu. Đặc biệt
nội dung bồi dưỡng phần bài tập dạng Định luật Jun-lenxơ còn khó khăn do thời
lượng chỉ có 2 tiết trong phân phối chương trình, bài tập trong sách giáo khoa
còn khá ít, chỉ có 3 bài nên giáo viên phải sưu tầm thêm những bài tập trong
sách tham khảo để bồi dưỡng tiếp cho học sinh khá giỏi, đặc biệt là những học
sinh tham gia các kì thi HS giỏi các cấp hàng năm do huyện, tỉnh tổ chức.
- Phương pháp học của học sinh còn chưa phù hợp. Khi giáo viên cho bài
tập dạng Định luật Jun-lenxơ học sinh đọc đề xong thì tiến hành giải ngay, mà ít
phân tích hiện tượng vật lý bên trong bài toán. Do đó, khi tóm tắt đề các em
còn lúng túng mà dạng định luật Jun-Lenxơ, đòi hỏi các em hiểu được hiện
tượng vật lý, vật nào thu nhiệt, vật nào tỏa nhiệt trong quá trình trao đổi nhiệt.
III. GIẢI PHÁP
1. Xây dựng kế hoạch bồi dƣỡng học sinh giỏi
Giáo viên được phân công bồi dưỡng học sinh phải dựa vào kế hoạch và
thời gian thi học sinh giỏi của Phòng giáo dục và Sở giáo dục để tự lập một kế
hoạch thời gian và soạn nội dung chương trình bồi dưỡng từng phần cho phù
hợp với đối tượng học sinh được chọn bồi dưỡng học sinh giỏi môn Vật lí.
2. Phƣơng pháp bồi dƣỡng học sinh phần định luật Jun- Lenxơ
a) Yêu cầu học sinh nắm rõ định luật Jun- Lenxơ trƣớc khi giải các
bài tập dạng này.
Định luật: Nhiệt lượng tỏa ra ở dây dẫn khi có dòng điện chạy qua tỉ lệ
thuận với bình phương cường độ dòng điện, với điện trở của dây dẫn và thời
gian dòng điện chạy qua.
2. .Q I R t
Trong đó
I: là cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn (A)
R: là điện trở của dây dẫn ( )
t: là thời gian dòng điện chạy qua dây dẫn(s)
Q: là nhiệt lượng tỏa ra trên dây dẫn (J)
Nếu đo Q bằng ( calo ) thì hệ thức của định Jun- Len Xơ là . 2
0 , 2 4 . . .Q I R t
b) Hƣớng dẫn giải bài tập
Bài tập dạng định luật Jun- Lenxơ thuộc dạng bài tập dạng định tính thì
việc giải các bài tập này là giải một chuỗi các câu hỏi định tính. Mà những câu
hỏi này đòi hỏi học sinh phải dựa vào việc vận dụng định luật Vật lý. Khi giải
các bài tập định luật Jun - Lenxơ cần phân tích ra 3 giai đoạn:
- Phân tích điều kiện câu hỏi.- Phân tích hiện tượng Vật lý mô tả trong
câu hỏi, trên cơ sở đó liên hệ với định luật Vật lý Jun- Lenxơ, phương trình cân
bằng nhiệt lớp 8.
- Tổng hợp các điều kiện đã cho và kiến thức tương ứng để giải.
Ví dụ 1( Bài tập 2/SGK VL9 trang 48)
Một ấm điện có ghi 220 V- 1000 W được sử dụng với hiệu điện thế 220 V
để đun sôi 2 nước từ nhiệt độ ban đầu 0
2 0 C .Hiệu suất của ấm là 90% trong
đó nhiệt lượng cung cấp để đun sôi nước được coi là có ích.
a.Tính nhiệt lượng cần cung cấp để đun sôi lượng nước trên, biết nhiệt dung
riêng của nước là 4200 J/kg.K
b. Tính nhiệt lượng mà ấm điện đã tỏa ra khi đó.
c. Tính thời gian đun sôi lượng nước trên.
Bƣớc 1: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề.
Bƣớc 2: Hướng dẫn học sinh phân tích hiện tượng Vật lý bên trong bài toán.
Trong bài toán trên, có 2 vật trao đổi nhiệt với nhau là ấm điện và
nước.Trong đó ấm điện biến đổi điện năng thành nhiệt năng cung cấp cho nước
là vật tỏa nhiệt, còn nước nhận nhiệt lượng từ ấm điện để tăng nhiệt độ là vật thu
nhiệt. Để tính nhiệt lượng mà ấm cung cấp để đun nước sôi thì ta phải sử dụng
công thức tính nhiệt lượng đã học ở lớp 8, đó là:
. .Q m c t
Sau đó, chúng ta sử dụng công thức tính hiệu suất đã được học ở bài 13. Điện
năng-Công của dòng điện đó là:
.1 0 0 %i
tp
QH
Q
để tính nhiệt lượng toàn phần mà ấm tỏa ra.
Để tính thời gian đun sôi nước thì học sinh gặp khó khăn là phải hiểu
được vấn đề: lượng điện năng mà ấm điện tiêu thụ để đun sôi nước chính bằng
nhiệt lượng toàn phần mà ấm tỏa ra ( theo định luật bảo toàn năng lượng). Hiểu
được vấn đề bên trong bài toán này thì HS mới sử dụng được công thức:
để tính thời gian đun sôi nước dễ dàng hơn.
Từ phần hướng dẫn học sinh phân tích hiện tượng Vật lý bên trong bài
toán đó, học sinh sẽ hiểu rõ bản chất của vấn đề, từ đó vận dụng các bước khi
giải bài tập vật lý mà giải bài tập hoàn chỉnh.
Tóm tắt
Ví dụ 2: Trích BT3/trang 68-PP Giải bài tập Vật lý 9 NXB tổng hợp TPHCM)
Một bếp điện khi hoạt động bình thường có điện trở 80R và cường độ dòng
điện qua bếp khi đó là 2,5A.
a.Tính nhiệt lượng mà bếp tỏa ra trong 1 giây(công suất tỏa nhiệt của bếp)
b.Dùng bếp trên để đun sôi 1,5 lít nước có nhiệt độ ban đầu là 0
2 5 C thì thời
gian đun sôi nước là 20 phút.Coi rằng nhiệt lượng cần thiết để đun sôi nước có
ích, tính hiệu suất của bếp, cho nhiệt dung riêng của nước là là 4200J/Kg.K
. ttp
A P Q
0 0
12 2 0 , 1 0 0 0 , 2 0 , 1 0 0 , 9 0 % ,
C 4 2 0 0 J / k g . K
. ? , b . Q ? , c . t ?
a m
i
U V P W t C t C H
a Q
a.Nhiệt lƣợng cần cung cấp để đun sôi nƣớc từ nhiệt độ 0
2 0 C là
1. . . .( ) 2 .4 2 0 0 .(1 0 0 2 0 ) 6 7 2 .0 0 0
iQ m c t m C t t J
b. Nhiệt lƣợng mà ấm tỏa ra khi đó:
6 7 2 .0 0 0.1 0 0 % Q .1 0 0 % .1 0 0 % 7 4 6 7 0 0
9 0 %
i i
tp
tp
Q QH J
Q H
c. Thời gian đun sôi nƣớc: 7 4 6 .7 0 0
. t 7 4 6 , 71 0 0 0
tp
tp
QA P Q t s
P
Bƣớc 1: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đề
Bƣớc 2: Phân tích bài toán
Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích hiện tượng Vật lý bên trong bài
toán.Để tính được nhiệt lượng mà bếp tỏa ra trong 1 giây chúng ta sử dụng định
luật Jun- Lenxơ. Cái khó ở đây chính là phải hiểu nhiệt lượng này cũng là công
suất tỏa nhiệt của bếp.
Để tính hiệu suất của bếp thì cần tính nhiệt lượng cần thiết đun sôi nước
(chúng ta dùng công thức tính nhiệt lượng đã học lớp 8) và nhiệt lượng do bếp
tỏa ra trong thời gian 20 phút. Sau đó thế vào công thức tính hiệu suất để tính
hiệu suất của bếp.Ở đây xảy ra quá trình trao đổi nhiệt giữa 2 vật.Trong đó nước
thu nhiệt để sôi và bếp điện biến đổi điện năng thành nhiệt năng cung cấp cho
nước sôi đóng vai trò là vật tỏa nhiệt. Hiệu suất của bếp chính là tỉ số giữa nhiệt
lượng cung cấp cho nước sôi và nhiệt lượng do bếp tỏa ra trong 20 phút.
Bƣớc 3: Mời HS vận dụng các công thức để giải
* Tóm tắt
0 0
1
1
2
8 0 , I 2 , 5 A , t 2 5 , 1 0 0
a . Q ? 1 , . m 1, 5 1, 5 k g
2 0 p h 1 2 0 0 s , 4 2 0 0 / .
?
R C t C
s b
C J K g K
H
* Nhiệt lượng mà bếp tỏa ra trong 1 giây:
2 2
1. . 2 , 5 .8 0 .1 5 0 0Q I R J
* Nhiệt lượng cần thiết để đun sôi 1,5 lít nước:
1 1
. . . .( )
1, 5 .4 2 0 0 .(1 0 0 2 5 )
4 7 2 5 0 0
n n n nQ m C t m C t t
J
Nhiệt lượng do bếp tỏa ra trong 20 phút:
2 2
. 5 0 0 .1 2 0 0 6 0 0 0 0 0Q A P J
Hiệu suất của bếp:
1
2
4 7 2 5 0 01 0 0 % 1 0 0 % 7 8 , 7 5 %
6 0 0 .0 0 0
QH x x
Q
c) Để góp phần vào đổi mới PPDH, tăng thêm hứng thú học tập cho HS
với môn Vật lý thì ngoài những bài tập trong SGK, giáo viên cần sưu tầm thêm
những sách tham khảo, nâng cao, lựa chọn những bài tập có chủ đề phù hợp với
định luật Jun- Len xơ để bổ sung kịp thời cho học sinh, đặc biệt là góp phần bồi
dưỡng học sinh tham gia các kì thi học sinh giỏi các cấp hàng năm do huyện,
tỉnh tổ chức.
IV. KẾT LUẬN
Bồi dưỡng học sinh giỏi là một quá trình lâu dài cần phải bồi dưỡng hứng
thú và tính tích cực, độc lập nghiên cứu của học sinh.
- Cần phát hiện sớm các em học sinh giỏi và bồi dưỡng sớm, tốt nhất từ
lớp 6 để có thể đạt kết quả cao.
- Cách tốt nhất bồi dưỡng hứng thú cho học sinh là hướng dẫn dìu dắt cho
các em đạt được những thành công từ thấp lên cao. Nhiều học sinh lúc đầu chưa
bộc lộ rõ năng khiếu nhưng sau quá trình được dìu dắt đã trưởng thành rất vững
chắc và đạt thành tích cao.
- Học sinh phải nhận thức đúng về tầm quan trọng của học tập.
- Học sinh phải yêu thích môn học, say mê trong học tập và ham học hỏi.
- Học sinh phải cần cù tích luỹ và chăm chỉ rèn luyện, ngoài đọc sách giáo
khoa, học sinh cần đọc thêm sách tham khảo và tài liệu khác.
Tôi nghĩ rằng Người thầy giáo có vai trò quyết định nhất đối với kết
quả HSG, các em HS có vai trò quyết định trực tiếp đối với kết quả của
mình; Kết quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có đạt hay không, điều đó
còn phụ thuộc rất lớn ở các em học HS. Việc dưỡng học sinh giỏi giống như
chúng ta ươm một mầm non. Nếu chúng ta biết rào, biết thường xuyên chăm
sóc, vun xới thì mầm non sẽ xanh tốt, phát triển.
Trên đây là kinh nghiệm và giải pháp về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
của tổ khoa học Tự nhiên. Rất mong được sự đóng góp của các đồng chí. Cuối
cùng, xin kính chúc các vị đại biểu khách quý, các đồng chí mạnh khỏe, hạnh
phúc. Chúc hội thảo thành công tốt đẹp./.
THAM LUẬN
GIÖP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN VẬT LÍ CẤP THCS
Sơn Thái An
GV trường THCS Thạnh Thới An, huyện Trần Đề
I. Đặt vấn đề
Vật lí là một môn khoa học chính xác mà đa số các khái niệm, định luật
vật lí đều được diễn đạt bằng những công thức toán học và đồ thị. Đặt biệt là
việc biến đổi những công thức toán học, đọc thông tin thu thập từ đồ thị đó trong
khi giải bài tập hoặc trả lời câu hỏi có thể dẫn đến dự đoán được diễn biến của
hiện tượng vật lí. Trong khi đó vốn kiến thức, năng lực học Toán của mỗi học
sinh lại khác nhau dẫn đến việc học giải bài tập môn Vật lí gặp nhiều trở ngại
khó khăn khó vượt qua nhất là đối với các em học sinh trung bình - yếu.
Xuất phát từ mối quan hệ mang tính đặc thù giữa hai môn học Toán -Vật
lí và từ những khó khăn của từng đối tượng học sinh nêu trên đòi hỏi người dạy
cần có một cách dạy phù hợp nhằm giúp học sinh học tốt hơn và kích thích sự
hứng thú của học sinh đối với việc học và giải bài tập của môn học .
II. Một số phƣơng pháp bồi dƣỡng và cải thiện năng lực học Vật lí
cho học sinh THCS
1. Dùng phƣơng pháp luận ba đoạn để hƣớng dẫn học sinh cách diễn
đạt vấn đề cần giải quyết bằng ngôn ngữ vật lí.
Nhiều khi ngôn ngữ dùng trong đời sống không giống như ngôn ngữ dùng
trong các định luật vật lí, quy tắc vật lí. Nếu không chuyển được sang ngôn ngữ vật lí
thì không thể nào áp dụng được vào những định luật hoặc quy tắc vật lí đã biết.
Ví dụ: Giải thích vì sao ngồi trên xe đang chạy hãm phanh đột ngột,
người lại ngã về trước? (vật lí 8).
Mới nghe học sinh không thấy có định luật vật lí nào nói đến "xe đang
chạy" "ngã" và "hãm phanh đột ngột". Giáo viên mới hướng dẫn học sinh
phân tích kỹ ý nghĩa các cụm từ này giúp học sinh dễ nhận ra dấu hiệu quen
thuộc của quán tính: "xe đang chạy - nghĩa là người đang chuyển động cùng với
xe, hãm phanh đột ngột - nghĩa là xe dừng lại đột ngột, người ngã về trước -
nghĩa là người tiếp tục chuyển động về trước so với xe". Hiểu rõ theo ngôn ngữ
vật lí như vậy thì học sinh sẽ giải thích được hiện tượng theo ba đoạn như: Xe có
lực hãm làm cho nó giảm vận tốc đột ngột và dừng lại, còn người thì đang
chuyển động không bị lực nào tác dụng nên tiếp tục chuyển động thẳng đều vì
quán tính và bị chúi về phía trước xe, do đó người ngã về phía trước.
2. Dùng phƣơng pháp giả định kết hợp với luận ba đoạn giúp học
sinh trả lời câu hỏi bài tập khó.
Phương pháp giả định trong giải bài tập vật lí giúp cho học sinh đỡ lúng
túng , mơ hồ trong xây dựng lập luận đối với một số câu hỏi bài tập có độ khó .
Ví dụ: Một sợi dây sắt dài l1 = 120m, có tiết diện S1 = 0,2mm2 và có điện
trở R1= 240. Hỏi một sợi dây sắt khác dài l2 = 30m, có tiết diện S2 = 1mm2 thì
có điện trở là bao nhiêu?
* Giáo viên có thể hƣớng dẫn theo hình thức giả định sau:
? Giả sử dây sắt thứ nhất chỉ dài 30m, và có tiết diện 0,2mm2 thì điện trở
bằng bao nhiêu? Vì sao?
(Trả lời: Nếu dây dẫn thứ nhất chỉ dài 30m =4
1l
, tiết diện S1= 0,2mm2
sẽ có điện
trở 604
1R
R . Vì điện trở dây dẫn tỉ lệ thuận với chiều dài).
? Nếu vậy dây sắt thứ hai dài 30m và có tiết diện S2 = 1mm2 sẽ có điện trở
bằng bao nhiêu? Vì sao?
(Trả lời: Nếu dây dài 30m có S2 =1mm2 = 5S1 sẽ có điện trở là: 12
52
RR . Vì
điện trở tỉ lệ nghịch với tiết diện)
* HS có kiến thức toán khá có thể thực hiện theo cách:
Ta có: ;.
1
1
1
S
lR
2
2
2.
S
lR . Lập tỉ số, từ đó suy ra: 20
2,0
1.
30
120.
1
2
2
1
2
1
S
S
l
l
R
R
Vậy 1220
1
2
RR .
3. Hƣớng dẫn học sinh đọc hiểu, khai thác thông tin từ đồ thị và dùng
đồ thị để tìm kết quả bài toán.
* Thực trạng: Trong phần lớn học sinh THCS (đặc biệt là học sinh Khá -
Tb - Yếu ) rất sợ những bài toán, bài tập có liên quan đến vẽ, đọc và tìm thông
tin từ đồ thị; mà môn Vật lí thì việc dùng đồ thị để minh chứng nghiệm, minh
chứng sự phụ thuộc của đại lượng vật lí này theo một đại lượng vật lí khác hoặc
tìm lời giải - kết quả bài toán thông qua đồ thị như là một phần bắt buộc để hiểu
rõ, hiểu sâu hơn vấn đề. Do đó giáo viên cần có phương pháp hướng dẫn hợp lí
để các em học tốt và bồi dưỡng nâng cao có chiều sâu cho các em khá - giỏi.
Ví dụ 1: Xét bài toán sau
Trên đồ thị biểu diễn nhiệt lượng tỏa ra trên một dây điện trở có giá trị R
= 10 theo thời gian. Hãy cho biết:
a) Cường độ dòng điện chạy qua điện trở
b) Công suất tỏa nhiệt của dây điện trở.
c) Nhiệt lượng tỏa ra trên điện trở trong thời gian 15 giây
a) GV hƣớng dẫn HS đọc hiểu và khai thác thông tin từ đồ thị.
? Đồ thị biểu diễn mối quan hệ gì ? Định luật hoặc công thức nào biểu
diễn mối quan hệ đó ? ( Sự tỏa nhiệt trên dây dẫn theo thời gian; Áp dụng công
thức định luật Jun -Lenxơ : Q = I2.R.t)
? Từ số liệu trên đồ thị, cho ta biết điều gì? (Khi t = 10s thì nhiệt lượng Q
tỏa ra trên R là 400J, khi t = 20s thì nhiệt lượng tỏa ra trên R là 800J)
? Ta tìm lời giải - kết quả bài toán như thế nào?
(Tìm cường độ dòng điện từ công thức Q =I2Rt; tìm P = I
2.R; tìm Q =
P.t hoặc Q = I2Rt)
Bài giải:
a) Cường độ dòng điện chạy qua dây điện trở
Từ công thức Q = I2.R.t I
2 = AI
tR
Q244
10.10
400
.
(Hoặc I2 = AI
tR
Q244
20.10
800
. )
b) Công suất tỏa nhiệt của dây điện trở.
P = I2.R = 4.10 = 40 W
c) Nhiệt lượng tỏa ra ở dây trong 15 giây.
Q’ = I
2.R.t = 4.10.15 = 600 (J)
800
400
10 20
Q(J)
0
t(s)
Ví dụ 2:
? Đồ thị trên cho biết điều gì?
(Trả lời: sự phụ thuộc của cường độ dòng điện vào hiệu điện thế đối với
hai dây điện trở (1) và (2).)
? Thông tin trên đồ thị cho biết điều gì ? ta có thể tìm được đại lượng nào
từ đồ thị đã cho?
(Trả lời: dây (1) khi U = 12V thì I = 4A; dây (2) khi U = 24V thì I = 4A.
Từ đồ thị ta có thể tính được R1 và R2).
? Mắc nối tiếp hai dây, bằng cách nào tìm được cường độ dòng điện khi U
= 18V từ các thông tin đã cho trên đồ thị?
(Trả lời: tìm Rtđ = R1 + R2 khi hai dây mắc nối tiếp, áp dụng định luật Ôm
để tìm cường độ dòng điện).
Bài giải:
Từ đồ thị ta có: ;34
12
1
1
1
I
UR 6
4
24
2
2
2
I
UR
Điện trở tương đương khi hai dây mắc nối tiếp: Rtđ = R1 + R2 = 9
Cường độ dòng điện qua mạch là: I1 = I2 = Im = AR
U
td
29
18
* GV có thể hƣớng dẫn phân tích theo hƣớng khác nhƣ sau:
? Từ số liệu trên đồ thị, nếu mắc nối tiếp hai điện trở vào mạch thì hiệu
điện thế trong mạch sẽ có giá trị bằng bao nhiêu để cường độ dòng điện I không
đổi?
(Um = U1 + U2 = 36V)
? Nếu hiệu điện thế trong mạch giảm còn 18V (giảm 2 lần) thì cường độ
dòng điện trong mạch bằng bao nhiêu? Tại sao? (cường độ dòng điện giảm đi 2
lần vì hiệu điện thế đã giảm đi 2 lần)
Bài giải:
Khi mắc nối tiếp hai dây vào mạch thì hiệu điện thế trong mạch là:
Hình vẽ bên là đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của
cường độ dòng điện vào hiệu điện thế khi làm thí
nghiệm với hai điện trở khác nhau; trong đó: (1) là đồ
thị được vẽ khi dùng điện trở thứ nhất và (2) là đồ thị
khi dùng điện trở thứ hai.
Nếu mắc hai điện trở này nối tiếp nhau và duy
trì hai đầu mạch một hiệu điện thế không đổi U = 18V
thì cường độ dòng điện qua mạch là bao nhiêu?
0 12 24
4
I(A)
U(V)
(1)
(2)
Um = U1 + U2 = 12 + 24 = 36V
Khi hiệu điện thế trong mạch giảm còn 18V (giảm 2 lần) thì cường độ
dòng điện trong mạch cũng giảm đi 2 lần: I1 = I2 = Im = AI
22 .
b) Hƣớng dẫn HS tìm kết quả bài toán hoặc kiểm tra kết quả thông
qua vẽ đồ thị.
Ví dụ: Một người đi xe đạp có vận tốc 12km/h và một người đi xe máy có
vận tốc 20 km/h khởi hành đồng thời ở địa điểm A và đi ngược chiều nhau. Sau
15 phút, người đi xe máy dừng lại nghỉ 30 phút rồi quay lại đuổi theo xe đạp.
a. Hỏi sau bao lâu kể từ lúc khởi hành hai xe gặp nhau?
b. Vị trí gặp nhau cách A bao nhiêu km?
* GV hƣớng dẫn HS tìm kết quả bằng phƣơng pháp đại số nhƣ sau:
- Đọc kĩ đề và viết tóm tắt đề toán:
v1 = 12km/h; v2 = 20km/h; t1 = 15ph = h4
1; t2 = 30ph = h
2
1.
Tìm t =?, sBA = ?
- Vẽ sơ đồ chuyển động của hai xe.
- Từ sơ đồ, hướng dẫn tìm:
+ Quãng đường xe máy đi trong 15 phút đầu: s2 = v2t1 = 5km
+ Quãng đường người đi xe đạp đi được từ lúc khởi hành đến thời điểm
xe máy bắt đầu đuổi theo:
s1 = v1t1 + v1t2 = v1(t1 + t2) = 9km.
+ Khoảng cách hai xe ở thời điểm xe máy bắt đầu đuổi theo xe đạp:
s3 = s1 + s2 = 14km.
+ Thời gian kể từ lúc xe máy đuổi theo xe đạp tới lúc gặp phải thỏa mãn
điều kiện:
v2t3 = s3 + v1t3 suy ra t3 = 1,75h.
+ Vậy thời gian kể từ lúc khởi hành tới lúc hai xe gặp nhau là:
t = t1 + t2 + t3 = 2,5h.
+ Vị trí gặp nhau cách A là: sBA = v1t = 30km .
* Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm kết quả bằng đồ thị như sau:
Tìm quãng đường của từng loại chuyển động sau mỗi 15ph = h4
1; 30ph
= h2
1 ;1h; 1,25h; 1,5h; 1,75h; 2h; 2,25h; 2,5h; … - Xác định tọa độ các điểm
s2; t1= 15ph
v2 = 20km/h; v1 =12km/h
sA = ?
s1
A
t = 30ph 2 xe gặp
s3
B C
ứng với từng cặp giá trị (t,s) tương ứng trên đồ thị cho từng chuyển động. Từ đó
vẽ đồ thị chuyển động của xe đạp và xe máy trên cùng đồ thị.
- Từ giao điểm của hai đồ thị kẻ các đường vuông góc đến trục tung (trục
chỉ quãng đường) và trục hoành (trục chỉ thời gian trong chuyển động).
- Xác định được thời điểm gặp nhau và điểm gặp nhau thông qua cặp
giá trị (t,s) là giao điểm của hai đồ thị của xe đạp và xe máy.
t (h) 0.25 0.5 0.75 1 1.25 1.5 1.75 2 2.25 2.5
Xe đạp
s1= v1.t (km) 3 6 9 12 15 18 21 24 27 30
Xe máy
s2= v2.t (km)
5 5 5 0 5 10 15 20 25 30
Tại C cách A 5km
theo chiều dương
Đồ thị chuyển động của 2 xe
5
3
12
24
30
A
s (km)
Xe đạp
Xe máy
t (s) 0
4
1
2
1
4
3
1 1,5 2 2,5
9
* GV cũng có thể dùng đồ thị trên để minh chứng cho kết quả vừa tìm được ở
cách giải bằng phương pháp đại số nêu trên.
* Chú ý: Khi vẽ đồ thị cần xác định chính xác các điểm, khi đó mới thu
được kết quả đúng theo yêu cầu đề.
4. Xây dựng cho học sinh có phƣơng pháp giải bài tập vật lí và phong
cách làm việc khoa học.
a. Thực trạng: Việc rèn luyện cho học sinh biết cách giải bài tập vật lí
một cách khoa học đảm bảo đi đến kết quả một cách chính xác là một việc rất
cần thiết, nó không những giúp học sinh nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện
kĩ năng suy luận lôgic, làm việc một cách khoa học, có kế hoạch .
Bài tập vật lí rất đa dạng, mỗi bài tập có cái hay, cái giáo dục và rèn kĩ
năng riêng biệt cho nên phương pháp giải cũng rất phong phú.
b. Giải pháp: Có thể hướng dẫn học sinh giải bài tập theo các bước chung
như sau:
Bƣớc 1: Tìm hiểu đầu bài
Là bước chuyển đổi ngôn ngữ và vẽ hình minh họa. Bước này giúp học
sinh xác định đâu là ẩn số, đâu là dữ kiện; vẽ hình minh họa giúp học sinh nhận
biết diễn biến của hiện tượng, mối liên hệ giữa các đại lượng.
Bƣớc 2: Phân tích hiện tƣợng:
Bước này trước hết là giúp học sinh nhận biết những dữ kiện đã cho ở đầu
bài có liên quan đến những khái niệm nào, hiện tượng nào, quy tắc nào, định
luật nào trong vật lí. Xác định các giai đoạn diễn tiến của hiện tượng nêu ra ở
đầu bài, mỗi giai đoạn bị chi phối bởi những đặc tính nào? Cần phải cho học
sinh hình dung rõ toàn bộ diễn biến của hiện tượng và các định luật trước khi
xây dựng bài giải cụ thể. Có như vậy học sinh mới hiểu rõ bản chất của hiện
tượng , tránh sự mò mẫm, máy móc áp dụng công thức.
Bƣớc 3: Xây dựng lập luận (trình bày lời giải)
Thực chất của bước này là tìm quan hệ giữa ẩn số phải tìm với các dữ
kiện đã cho. Có 2 hướng xây dựng là:
+ Thiết lập luận ba đoạn ( dành cho các câu hỏi bài tập định tính)
+ Tìm các biểu thức, các mối liên hệ giữa ẩn số với các giữ kiện đã cho.
Bƣớc 4: Biện luận kết quả và trả lời bài toán.
Trong bước này giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích kết quả cuối cùng
để loại bỏ đi những kết quả không phù hợp với điều kiện đầu bài tập hoặc không
phù hợp với thực tế. Việc biện luận này cũng là một cách kiểm tra sự đúng đắn
của quá trình lập luận. Đôi khi nhờ sự biện luận này mà học sinh phát hiện ra
những sai lầm trong khi lập luận từ sự vô lý của kế quả thu được.
Dựa vào đồ thị ta dễ dàng tìm đƣợc thời gian gặp nhau là 2,5h,
điểm gặp nhau cách A là 30km.
Việc giải bài tập vật lí một cách khoa học, đảm bảo đi đến kết quả chính
xác đều phải trải qua bước 1 và
Ví dụ : Xét bài toán sau
Ba người đi xe đạp xuất phát từ A về B. Người thứ nhất đi với vận tốc v1
= 8km/h. Sau đó 15 phút người thứ hai xuất phát với vận tốc v2 =12km/h. Người
thứ ba đi sau người thứ hai 30 phút. Sau khi gặp người thứ nhất, người thứ ba đi
thêm 30 phút nữa thì sẽ ở cách đều người thứ nhất và thứ hai. Tính vận tốc
người thứ ba?
(trích đề thi HSG tỉnh Sóc Trăng năm học 2010-2011, 2011-2012)
Bƣớc 1: Học sinh đọc kĩ tóm tắt đề toán
Tóm tắt:
Biết : v1 = 8km/h ; v2 = 12km/h tìm : v3= ?
vẽ hình minh họa:
Sau khi vẽ hình minh họa học sinh đã biết được diễn tiến của hiện
tượng, mối liên hệ của chúng tại mỗi thời điểm
Bƣớc 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích diễn tiến của hiện tượng
- Khi người thứ ba xuất phát thì người thứ nhất và thứ hai đã đi được
quãng đường lần lượt là:
s1= km64
3.8 ; s2= km6
2
1.12 . Vậy người thứ nhất và thứ hai đang ở tại cùng
vị trí và cách người thứ ba là 6km.
- Gọi t là thời gian để người thứ ba đuổi kịp người thứ nhất (đến C).
Quãng đường của cả ba người lúc này là:
s1= 6km +8.t
s2 = 6km +12t
s3 = v3.t = 6km + 8t (*)
- Sau 30 phút kế tiếp:
s1 = 6km + 8.t + 8.2
1km =10km + 8.t (đi thêm được 4km)
s2 = 6km +12.t + 12.2
1km =12km +12.t (đi thêm được 6km)
s3 = v3.t + v3.2
1
Và khoảng cách giữa người thứ nhất và thứ hai là: s2 - s1 = 4t + 2km
Theo đề toán thì sau khi gặp người thứ nhất 30phút, người thứ ba ở cách
đều người thứ nhất và thứ hai nghĩa là:
v3.2
1 = 4 +
2
12ss
= 5 + 2t, suy ra v3= 10 + 4t (**)
6km 4km kmt
2
24
2
3v
A C s1 s3 s2
Thay v3 = 10 + 4t vào (*) được (10 + 4t).t = 6 + 8t 4t2 + 2t – 6 = 0.
Đến đây học sinh đã xác định đầy đủ toàn bộ diễn tiến của cả quá trình
mà theo đó chỉ cần tìm được giá trị của ẩn t thì sẽ trả lời được yêu cầu bài
toán.
Bƣớc 3: Học sinh dựa vào bước 2 xây dựng bài giải tương tự và tìm ẩn t
từ phương trình 4t2 + 2t - 6 = 0.
Giải phương tìm được t1 = 1 và t2 = - 1,5
Bƣớc 4: Biện luận chọn kết quả trả lời:
Trong hai giá trị t vừa tìm được ta loại nghiệm t2 = -1,5 vì không hợp lí,
chọn nghiệm t1 =1. Thay vào phương trình (**) tìm được: v3 = 14km/h
Thử lại:
Quãng đường cả 3 người đi được lần lượt là: s1 = 18km; s2= 24km; s3 =
21km.
Việc lập luận nhƣ trên giúp cho học sinh đi đến kết quả chính xác,
tránh đƣợc sự mò mẫm trong giải quyết vấn đề.
Bài giải nhƣ sau:
vẽ hình minh họa:
- Gọi t là thời gian để người thứ ba đuổi kịp người thứ nhất (đến C).
Quãng đường của cả ba người sẽ là:
s1= 6km + 8.t
s2 = 6km +12t
s3 = v3.t = 6km + 8t (*)
- Sau 30 phút kế tiếp:
s1 = 6km + 8.t + 8.2
1km =10km + 8.t
s2 = 6km +12.t + 12.2
1km =12km +12.t
s3 = v3.t + v3.2
1
Và khoảng cách giữa người thứ nhất và thứ hai là: s2 - s1 = 4t + 2km
Theo đề toán thì sau khi gặp người thứ nhất 30 phút, người thứ ba ở cách
đều người thứ nhất và thứ hai nghĩa là:
v3.2
1 = 4 +
2
12ss
= 5 + 2t suy ra v3= 10 + 4t (**)
Thay v3 = 10 + 4t vào (*) được (10 + 4t).t = 6 + 8t 4t2 + 2t - 6 = 0
Giải phương tìm được t1 = 1 (nhận) và t2 = - 1,5 (loại)
Thay t = 1 vào (**) : v3 = 10 + 4.1 = 14 (km/h)
6km 4km km
t
2
24
2
3v
A C s1 s3 s2
Vậy v3 = 14 (km/h)
III. Hiệu quả sau thời gian áp dụng tại đơn vị
- Giúp học sinh hiểu rõ, sâu hơn các vấn đề. Nắm vững chắc kiến thức đã
biết và vận dụng chúng để giải quyết các vấn đề mới nhằm phát hiện ra kiến
thức mới để bổ sung và hoàn thiện thêm kiến thức của mình vươn lên học giỏi
bộ môn.
- Chất lượng học tập bộ môn của học sinh được nâng lên, học sinh có sự
thích thú hơn khi tự trả lời và thực hiện được các bài tập cơ bản và nâng cao.
- Phát triển kĩ năng lập luận, kĩ năng chuyển đổi và áp dụng các công thức
đạt chính xác cao.
- Tỉ lệ học sinh tự lực trả lời câu hỏi và làm bài tập ở nhà tăng lên.
THAM LUẬN
ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN VẬT LÍ
Ở TRƢỜNG THCS
Cao Na Rune
GV trƣờng THCS An Thạnh Đông
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vật lý học là một trong những môn khoa học về tự nhiên, nhiệm vụ chủ
yếu của nó là nghiên cứu các hiện tượng vật lý, tìm nguyên nhân, khám phá ra
các định luật vật lý phục vụ lợi ích của con người.
Vật lý là cơ sở cho nhiều ngành kỹ thuật. Những thành tựu của vật lý và
kỹ thuật phục vụ rất nhiều cho cuộc sống của con người trên mọi mặt.
Vì vậy trong đổi mới phương pháp giáo dục thì phát triển trí tuệ và năng
lực sáng tạo của học sinh có ý nghĩa quan trọng. Để có hiệu quả cao trong giảng
dạy thì người giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, sử dụng những thành
quả của những môn khoa học có liên quan, cần phải tiếp thu những thành tựu
tiên tiến, những kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy theo hướng đổi mới.
II. THỰC TRẠNG
Mặc dù những năm gần đây ngành giáo dục tiến hành triển khai đổi mới
phương pháp dạy học (PPDH). Tuy nhiên vẫn còn tình trạng phổ biến là:
- Một số giáo viên có ý thức đổi mới PPDH nhưng chỉ mang tính đối phó,
một bộ phận giáo viên vẫn còn dạy học theo lối truyền thống, truyền thụ kiến
thức theo lối một chiều.
- Giáo viên lên lớp thiếu sự chuẩn bị phương tiện, đồ dùng dạy học dẫn
đến tình trạng dạy chay, giờ học nhàm chán, thiếu thu hút, không gây được hứng
thú cho học sinh.
- Giáo viên thuyết trình kết hợp với đàm thoại chưa đưa học sinh vào tình
huống có vấn đề. Giáo viên chỉ sợ học sinh không trả lời được do đó học sinh
nhiều khi chỉ cần trả lời "có" hay "không".
- Học sinh được luyện tập ở mức tối thiểu và chủ yếu là vận dụng tri thức
một cách máy móc đơn giản.
III. GIẢI PHÁP
Qua những năm giảng dạy ở trường THCS và từ những thực trạng nêu
trên bản thân đã đưa ra một số định hướng đổi mới PPDH môn Vật lí như sau:
1. Nắm bắt đƣợc mục tiêu của mỗi bài học (lƣợng hoá kiến thức)
Mục tiêu: Là căn cứ để đánh giá chất lượng của học sinh và hiệu quả bài
dạy của giáo viên. Học sinh phải nắm được cái gì sau bài học. Mục tiêu cần phải
được lượng hoá. Có 3 nhóm mục tiêu:
a. Mục tiêu kiến thức:
Yêu cầu học sinh phải lĩnh hội các khái niệm Vật lý cơ sở để có thể mô tả
đúng các hiện tượng và quá trình Vật lý cần nghiên cứu và giải thích một số hiện
tượng và quá trình Vật lý đơn giản. Tuy chưa thể định nghĩa chính xác khái
niệm đó, nhưng cũng cần phải giúp học sinh nhận biết được những dấu hiệu cơ
bản có thể quan sát, cảm nhận được các khái niệm đó. Sau đó học sinh vận dụng
cho quen trong ngôn ngữ khoa học thay cho ngôn ngữ thông thường ban đầu.
Thí dụ khái niệm ảnh ảo: Thông thường học sinh chỉ biết cái ảnh cụ thể,
có thể nhìn thấy, sờ thấy như ảnh thẻ học sinh, ảnh in trên báo... ảnh ảo là một
khái niệm khác hẳn, tuy là ảnh ảo nhưng vẫn tồn tại thật, vẫn xác định được vị
trí, độ lớn. Học sinh phân biệt được ảnh ảo ảnh thật.
Chú trọng việc xây dựng kiến thức xuất phát từ những hiểu biết, những
kinh nghiệm đã có của học sinh rồi sửa đổi, bổ sung phát triển thành kiến thức
khoa học. Tránh việc đưa ra ngay những khái niệm trừu tượng xa lạ với học
sinh, diễn đạt bằng những câu, chữ khó hiểu. Thông thường một định luật Vật lý
có hai phần: Phần định tính và định lượng. Tùy từng định luật giáo viên có thể
đưa cả hai phần hay không? Ví dụ:
- Biên độ giao động của vật giao động càng lớn thì âm phát ra càng to.
- Hiệu điện thế giữa hai đầu bóng đèn càng lớn (nhỏ) thì dòng điện chạy
qua bóng đèn có cường độ dòng điện càng lớn (nhỏ).
Những hiểu biết về phương pháp nhận thức khoa học cũng được nâng cao
thêm một mức. Cần hướng dẫn học sinh thường xuyên đưa nhiều dự đoán khác
nhau về cùng một hiện tượng và tự lực đề xuất các phương án làm thí nghiệm để
kiểm tra dự đoán. Có thể học sinh chỉ nêu được sơ bộ về phương án, kiểm tra,
giáo viên cần giúp đỡ học sinh phát triển hoàn chỉnh phương án để trở thành khả
thi hoặc thảo luận để chọn phương án tối ưu. Cần hướng dẫn học sinh thực hiện
một số phương pháp suy luận khác như phương pháp tương tự, phương pháp tìm
nguyên nhân của hiện tượng. Những hiểu biết về phương pháp nhận thức đó,
nhằm rèn luyện cho học sinh thói quen mỗi khi rút ra một kết luận không thể
dựa vào cảm tính mà phải có căn cứ thực tế và biết cách suy luận chặt chẽ.
b. Về kỹ năng và khả năng
- Về kỹ năng quan sát:
Bước đầu xây dựng cho học sinh biết quan sát mục đích, có kế hoạch.
Trong một số trường hợp đơn giản học sinh có thể tự vạch ra kế hoạch quan sát
chứ không phải tùy tiện ngẫu nhiên, có khi phải tổ chức cho học sinh trao đổi kỹ
trong nhóm về mục đích kế hoạch quan sát rồi mới thực hiện quan sát.
- Kỹ năng thu thập xử lý thông tin từ quan sát thí nghiệm chú trọng trong
việc ghi chép các thông tin thu thập được, lập thành biểu bảng một cách trung
thực. Việc xử lý thông tin, dữ liệu thu được phải theo những phương pháp xác
định, thực chất phương pháp suy luận là để từ những dữ liệu, số liệu cụ thể rút ra
kết luận chung (quy nạp) hay từ những tính chất quy luật chung suy ra những
biểu hiện cụ thể trong thực tiễn (suy diễn). Chú trọng ngôn ngữ phát triển, ngôn
ngữ Vật lý ở học sinh. Yêu cầu học sinh phải sử dụng những khái niệm mới để
mô tả và giải thích các hiện tượng, các quá trình, rèn luyện kỹ năng diễn đạt rõ
ràng, chính xác ngôn ngữ của vật lý, thông qua việc trình bày các kết quả quan
sát nghiên cứu và trong thảo luận ở nhóm, ở lớp. Tạo điều kiện để học sinh nói
nhiều hơn ở nhóm, ở lớp.
c. Về tình cảm, thái độ
Học sinh bước đầu được làm quen với cách học tập mới, cá nhân độc lập
suy nghĩ làm việc theo nhóm, tranh luận ở lớp. Không khí lớp học sôi nổi, vui
vẻ, thoải mái, hào hứng hơn. Song giáo viên vẫn phải uốn nắn đưa vào nề nếp.
Yêu cầu học sinh trung thực, tỷ mỉ, cẩn thận trong khi làm việc cá nhân.
Khuyến khích học sinh mạnh dạn nêu ý kiến của mình, không dựa dẫm vào bạn.
Có tinh thần cộng tác phối hợp với các bạn trong hoạt động chung của nhóm.
Phân công mỗi người một việc, mỗi lần một người trình bày ý kiến của tổ, biết
nghe ý kiến của bạn, thảo luận một cách dân chủ. Biết kiềm chế mình, trao đổi
trong nhóm đủ nghe không gây ồn ào ảnh hưởng đến toàn lớp.
2. Tổ chức học sinh tự học tập chiếm lĩnh tri thức
Hình thức chủ yếu vẫn là học tập theo lớp, cả lớp cùng nghiên cứu một
vấn đề, đạt đến cùng một kết luận. Riêng bài thực hành khác với trước đây, bây
giờ bao gồm 2 loại:
- Loại thứ nhất: Học sinh thông qua mà hình thành kiến thức mới. Loại
này khác với loại bài nghiên cứu kiến thức mới thông thường dựa trên thí
nghiệm ở chỗ: học sinh phải tiến hành các phép đo đạc định lượng, phải làm báo
cáo kết quả thực hành. Thí dụ như bài 27 "đo hiệu điện thế và cường độ dòng
điện đối với mạch điện song song (Vật lý 7).
- Loại thứ hai: Không nhằm hình thành kiến thức mới, chỉ nhằm rèn luyện
một loạt kỹ năng, loại này giống như các bài thực hành đang có ở THCS hiện
nay. Thí dụ: như bài 6 "Quan sát và vẽ ảnh của một vật tạo bởi gương phẳng
(Vật lý 7).
Học sinh ngày càng phát triển hoàn thiện hơn, hình thức làm việc theo
nhóm, cụ thể là:
+ Phân công nhận và thu dọn, nộp lại dụng cụ thí nghiệm của nhóm.
+ Điều khiển hoạt động của nhóm: Phân công công việc, trao đổi ý kiến,
tập hợp những ý kiến khác nhau, lần lượt cử người đại diện nhóm phát biểu ...
+ Nhắc nhở các thành viên hoàn thành nhiệm vụ cá nhân và nhiệm vụ
chung của nhóm.
+ Sử dụng rộng rãi có hiệu quả hình thức làm việc theo nhóm ở lớp nhằm:
Tạo điều kiện khuyến khích học sinh làm việc tự lực; tạo điều kiện, không khí
thuận lợi để mỗi học sinh phát biểu ý kiến cá nhân, phát huy sáng tạo rèn luyện
ngôn ngữ.
+ Rèn luyện thói quen phân công, hợp tác giúp đỡ nhau trong hoạt động
tập thể, trong cộng đồng: Vừa tự do nêu ý kiến riêng (dù chưa được đầy đủ,
chính xác). Bbiết tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình, vừa biết lắng nghe ý
kiến của bạn. Nhờ có ý kiến của bạn trong nhóm mà sửa lại ý kiến sai của mình
và gợi ý cho mình những suy nghĩ mới.
3. Một số cách đặt câu hỏi (có 6 cách)
a. Câu hỏi (biết)
- Mục tiêu: Kiểm tra trí nhớ của học sinh về các dữ kiện, số liệu, định
nghĩa, tên tuổi, địa điểm ...
- Tác dụng: Giúp học sinh ôn lại những gì đã học.
- Cách đặt câu: Cái gì? bao nhiêu?, hãy định nghĩa?
- Em biết những gì, hãy mô tả, cái nào? bao giờ? khi nào?
b. Câu hỏi "hiểu"
- Mục tiêu: Kiểm tra học sinh cách liên hệ, kết nối các số liệu dữ kiện,
định nghĩa.
- Tác dụng: Cho thấy học sinh có khả năng diễn tả được lời nói nêu được
các yếu tố cơ bản hoặc so sánh các yếu tố cơ bản trong bài học.
- Cách đặt cây hỏi: Tại sao? Hãy liên hệ? Hãy so sánh? Hãy tính?
c. Câu hỏi "vận dụng"
- Mục tiêu: Kiểm tra khả năng áp dụng các dữ kiện, khái niệm, phương
pháp vào hoàn cảnh và điều kiện mới.
- Tác dụng: Cho thấy học sinh có khả năng hiểu được các quy luật, khái
niệm, lựa chọn phương pháp, giải quyết và vận dụng vào thực tiễn.
- Cách đặt câu hỏi: Làm thế nào? Hãy tính sự chênh lệch? hoặc em có thể
giải quyết khó khăn về vấn đề này như thế nào?
d. Câu hỏi "phân tích"
- Mục tiêu: Kiểm tra khả năng phân tích nội dung vấn đề từ đó đi đến kết
luận hoặc tìm ra mối quan hệ hoặc chứng minh vấn đề nào đó.
- Tác dụng: Cho thấy khả năng tìm ra mối quan hệ mới tự diễn giải và đưa
ra kết luận.
- Câu hỏi: Tại sao? Em có nhận xét gì? Hãy chứng minh?
e. Câu hỏi "tổng hợp"
- Mục tiêu: Kiểm tra học sinh có thể đưa ra những dự đoán giải quyết một
vấn đề, hay đưa câu hỏi trả lời có sáng tạo.
- Tác dụng: Thúc đẩy sáng tạo của học sinh. Học sinh tìm ra nhân tố ý
tưởng mới để bổ sung cho nội dung.
- Cách đặt câu hỏi: Em hãy tìm ra cách?
f. Câu hỏi "đánh giá"
- Mục tiêu: Kiểm tra học sinh có thể đóng góp ý kiến hoặc đánh giá ý
tưởng giải pháp.
Tóm lại: Các câu hỏi của giáo viên đưa ra phải có sự lựa chọn, tinh giản
và đảm bảo các yêu cầu sau:
* Phát triển trí tuệ của học sinh
Vừa là điều kiện đảm bảo cho học sinh nắm vững kiến thức, vừa tạo điều
kiện cho học sinh tự mình tiếp tục tự học, nghiên cứu tiến xa hơn nữa và có khả
năng độc lập công tác sau khi rời ghế nhà trường. Vì vậy phải phát triển óc quan
sát và năng lực nhận ra được cái bản chất trong hiện tượng Vật lý.
Trong những dấu hiệu cơ bản của sự phát triển trí tuệ của học sinh là: Khả
năng so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá tách ra được cái
bản chất trong các hiện tượng, trong mỗi tình huống. Và việc chuẩn bị thí
nghiệm, kế hoạch hóa chúng, việc tiến hành các thí nghiệm là nhằm đạt được
mục đích đó.
* Phát triển ngôn ngữ cho học sinh
Tư duy và ngôn ngữ trong sự thống nhất không thể tách rời, do đó sự phát
triển tư duy có liên quan trực tiếp với sự phát triển ngôn ngữ của học sinh.
Việc dạy học vật lý phải thúc đẩy học sinh mô tả, giải thích các đối tượng,
các hiện tượng, các quá trình vật lý và các ứng dụng kỹ thuật dưới hình thức nói
và viết theo một trình tự logic và đúng ngữ pháp. Muốn vậy phải sử dụng cho học
sinh thuật ngữ chuyên môn để mô tả và giải thích các hiện tượng, giải thích rõ các
giai đoạn nối tiếp của thí nghiệm và nội dung của các phương trình Vật lý.
* Phát triển tƣ duy logic, tƣ duy Vật lý và tƣ duy khoa học kỹ thuật
+ Tư duy logic:
Để phát triển tư duy logic cần sử dụng việc đánh giá những quan sát và
thực nghiệm. Việc giải thích những mối liên hệ tương hỗ của những hiện tượng
Vật lý, việc dự đoán những kết quả mong muốn, việc kiểm tra bằng thực nghiệm
những hệ quả tút ra từ các giả thuyết và lý thuyết.
+ Tư duy biện chứng:
Các hiện tượng và quá trình Vật lý cần được khảo sát hoàn toàn phù hợp
với sự phát triển biện chứng của chúng. Điều đó có nghĩa là chúng phải được
phân tích toàn diện, được xem xét trong những mối quan hệ tương hỗ của chúng
trong sự phát triển lịch sử và mâu thuẫn nội tại. Việc dạy học vật lý ngay từ
những bài đầu tiên cũng đòi hỏi việc phát triển tư duy biện chứng.
Ví dụ 1:
Nghiên cứu ma sát cần giải thích cho học sinh rằng: Trong những trường
hợp này ma sát có hại, nhưng những trường hợp khác lại có lợi.
Ví dụ 2:
Định luật Ôm chỉ áp dụng đối với kim loại, không áp dụng được cho chất
bán dẫn.
+ Tư duy Vật lý và tư duy khoa học kỹ thuật:
Tư duy Vật lý: là kỹ năng quan sát các hiện tượng Vật lý, phân tích một
hiện tượng phức tạp thành những bộ phận, thành phần xác lập ở trong chúng,
mối liên hệ và những sự phụ thuộc xác định. Tìm ra mặt định tính, định lượng
của các hiện tượng và các đại lượng Vật lý, đoán trước được các hệ quả từ các lý
thuyết và áp dụng được kiến thức của mình.
Tư duy Khoa học kỹ thuật: bao gồm kỹ năng tìm ra mối liên hệ sâu sắc
giữa một bên là Toán học, Vật lý học và một bên là ứng dụng kỹ thuật khác của
các khoa học đó, biến các tư tưởng khoa học thành sơ đồ, mô hình, kết cấu kỹ
thuật.
* Phát triển năng lực áp dụng các phƣơng pháp nhận thức tổng quát
của khoa học
Vật lý học là môn có nhiều khả năng để làm việc này. Hình thức vận động
Vật lý là hình thức hoạt động đơn giản, phổ biến nhất. Vì thế trong các giờ học
Vật lý với các ví dụ tương đối đơn giản, quen thuộc có thể hấp dẫn học sinh tới
chỗ hiểu và áp dụng các phương pháp nhận thức khoa học.
Làm quen với các phương pháp nhận thức như: Đề xuất, giả thuyết,
phương pháp thực nghiệm, phương pháp toán học, phương pháp tương tự và mô
hình hoá, phương pháp quy nạp, suy diễn.
Như vậy là trong quá trình dạy học Vật lý, việc áp dụng các phương pháp
khoa học khác nhau đã phát triển được các mặt hoạt động trí tuệ chung, không
chỉ trong giới hạn của bản thân Vật lý.
* Phát triển năng lực sáng tạo của học sinh
Cơ sở lý thuyết của phương pháp phát triển khả năng sáng tạo của học
sinh trong quá trình dạy học là sự hiểu biết những quy luật sáng tạo khoa học tự
nhiên. Lê Nin nêu lên "Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng, rồi từ tư
duy trừu tượng trở về thực tiễn đó là con đường biện chứng của nhận thức, chân
lý, nhận thức thực tế khách quan".
Trên cơ sở khái quát hoá những lời phát biểu đó, có thể trình bày những
khía cạnh chính của quá trình sáng tạo khoa học dưới dạng chu trình: Từ khái
quát hoá xây dựng mô hình trừu tượng hệ quả kiểm tra chúng bằng thực
nghiệm.
Ví dụ: Trình bày tài liệu sách giáo khoa về đề tài " Dòng điện trong kim
loại" theo sơ đồ chu trình được khép kín.
Sau này có thể hình dung dòng điện trong kim loại như dòng trôi dạt
những êlectron tự do trong mạng tinh thể dưới tác dụng của điện trường.
Từ giả thuyết đó có thể dẫn đến hệ quả là kết luận lý thuyết về định luật
Ôm cho đoạn mạch. Một trong những hệ quả của định luật đó là đường đặc
trưng vôn - ape của dây dẫn kim loại thẳng. Thí nghiệm thực hành của học sinh
nghiên cứu đặc trưng vôn-ampe của dây kim loại xác nhận kết quả đó.
Sự phân tích công thức định luật Ôm dẫn đến một hệ quả quan trọng: Khi
nung nóng kim loại thì thời gian chuyển động của electron giảm đi, nghĩa là
cường độ dòng điện cũng giảm. Thí nghiệm thực hành nhằm nghiên cứu sự phụ
thuộc của điện trở suất của kim loại vào nhiệt độ xác nhận kết luận đó.
Việc sử dụng đều đặn bài tập sáng tạo về Vật lý không ngừng phát triển ở
học sinh năng lực dự toán trực giác mà còn hình thành ở các em trạng thái tâm
lý quan trọng.
- Tổ chức định hướng hành động chiếm lĩnh tri thức Vật lý của học sinh
theo tiến trình dạy học, giải quyết vấn đề nhằm phát triển năng lực tìm tòi, sáng
tạo của học sinh trong quá trình học tập.
IV. KẾT LUẬN
1. Phấn đấu làm đầy đủ, có chất lượng các thí nghiệm chứng minh trên lớp.
2. Xây dựng một hệ thống câu hỏi logic, chất lượng và phải biết hướng
dẫn học sinh quan sát hiện tượng, phân tích kết quả thí nghiệm, vận dụng các
kiến thức có liên quan... để đi đến tri thức mới, song phải mang tính phát triển trí
tuệ và năng lực sáng tạo của học sinh.
3. Tăng cường luyện tập độc lập của học sinh trên lớp.
4. Sử dụng "phiếu học tập" cho mỗi học sinh.
Để đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu giáo dục đào tạo của đất nước ta, thì
việc đổi mới PPDH nói chung và môn Vật lý nói riêng là không thể thiếu được.
Với những giải pháp đổi mới PPDH môn Vật lý nêu trên, tôi đã mạnh dạn
vận dụng vào trong giảng dạy và đã thu được kết quả: Học sinh ham học và yêu
thích môn Vật lý hơn, số học sinh khá giỏi tăng lên. Các em đã thấy được tầm
quan trọng của môn Vật lý, thấy được những thành tựu của Vật lý và kỹ thuật
phục vụ rất nhiều cho cuộc sống của con người trên mọi mặt.
Trên đây là những quan điểm và suy nghĩ của cá nhân tôi đúc rút từ thực
tế trong việc giảng dạy môn Vật lý. Song không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong được sự góp ý của đồng nghiệp và quý thầy cô dạy môn Vật lý có nhiều
kinh nghiệm./.