Upload
nhung-tran
View
115
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ......................................................................3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT...................................................................................4
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................5
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM...7
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU........................................................7
1.2 ĐẶC ĐIỂM NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM........................................8
1.2.1 Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản...................................................................8
1.2.2 Lĩnh vực khai thác thuỷ sản...................................................................11
1.2.3 Lĩnh vực chế biến thuỷ sản....................................................................12
1.3 VỊ TRÍ, VAI TRÒ NGÀNH THỦY SẢN TRONG NỀN KINH TẾ........15
1.4 CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỐNG TỚI XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM.................................................................................................................. 18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM..............23
2.1 TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM...............................23
2.1.1 Giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủy sản....................................23
2.1.2 Tình hình xuất khẩu theo cơ cấu các mặt hàng thủy sản.......................26
2.2 TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VÀO CÁC THỊ TRƯỜNG LỚN............................................................................................................................39
2.3 CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM.....................41
2.3.1 Xuất khẩu trực tiếp................................................................................41
2.3.2 Xuất khẩu gián tiếp................................................................................42
2.4 NHẬN XÉT.................................................................................................44
2.4.1 Thành tựu...............................................................................................44
2.4.2 Hạn chế..................................................................................................46
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM................................................................................................................................53
SVTH: Trần Thị Nhung 1
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
3.1 CƠ HỘI, THÁCH THỨC CỦA XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM. 53
3.1.1. Cơ hội...................................................................................................53
3.1.2. Thách thức............................................................................................57
3.2 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM...........62
3.3 GIẢI PHÁP...................................................................................................64
3.3.1 Từ phía nhà nước...................................................................................64
3.3.2 Từ phía các Hiệp hội..............................................................................66
3.3.3 Từ phía doanh nghiệp............................................................................67
KẾT LUẬN............................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................73
SVTH: Trần Thị Nhung 2
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
Bảng 1.1: Kim ngạch xuất khẩu 10 mặt hàng chủ yếu của Việt Nam năm 2014 và so sánh với năm 2013.............................................................................................17
Bảng 2.1: Hiện trạng xuất khẩu thủy sản 8 tháng đầu năm 2015 (Triệu USD)......25
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam theo mặt hàng................27
Bảng 2.3: Nhập khẩu tôm của Mỹ Q1/2014-2015..................................................36
Bảng 3.1: Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang 11 nước thành viên TPP................54
Biểu đồ 2.1: Giá trị xuất khẩu thủy sản qua các năm (tỷ USD) 24
Biểu đồ 2.2: Xuất khẩu thủy sản Việt Nam QI/2011-2015....................................24
Biểu đồ 2.3: Giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2014 và 2015 (triệu USD).............................................................................................................26
Biểu đồ 2.4: Xuất khẩu cá tra Việt Nam 2011-2016..............................................28
Biểu đồ 2.5: Xuất khẩu cá tra sang Mỹ theo tháng 2014-2015..............................29
Biểu đồ 2.6: Thị trường xuất khẩu cá ngừ tính theo giá trị....................................30
Biểu đồ 2.7: Giá trị xuất khẩu cá ngừ 2010-2015 (tỷ USD)...................................31
Biểu đồ 2.8: Xuất khẩu Cá Ngừ Việt Nam tính đến tháng 9/2015.........................32
Biểu đồ 2.9: Lượng và kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam 2014-2015.........35
Biểu đồ 2.10: Thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam 2015................................39
Biểu đồ 2.11: Giá trị xuất khẩu thủy sản sang các nước năm 2013-2015..............40
Biểu đồ 2.12: Tỷ trọng đóng góp của 10 DNXK thủy sản lớn nhất năm 2014 (%)................................................................................................................................41
SVTH: Trần Thị Nhung 3
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Nội dung
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ATVSTP An toàn vệ sinh thực phẩm
DNXK Doanh nghiệp sản xuất
DOC Bộ thương mại Mỹ
EU Liên minh Châu Âu
GDP Tổng thu nhập quốc nội
HACCP Hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn
NN&PTNT Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
USD Đơn vị tiền tệ đôla Mĩ
VASEP Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam
WTO Tổ chức thương mại thế giới
XK Xuất khẩu
SVTH: Trần Thị Nhung 4
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
LỜI MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sau khi đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, kinh tế đất nước đã có
những bước phát triển vượt bậc. Cùng với chiến lược kinh tế hội nhập và phát
triển do Nhà nước đặt ra, thương mại quốc tế trở thành một bộ phận quan trọng có
vai trò quyết định đến sự phát triển của quốc gia. Vì vậy việc đẩy mạng giao lưu
thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu hàng hoá dịch vụ nói riêng là mục tiêu
phát triển kinh tế hàng đầu của nước ta.
Xuất nhập khẩu là một trong những ngành mũi nhọn của nước ta trong giao
thương với quốc tế, đem lại lợi nhuận lớn hàng năm. Hiện nay Việt Nam đã mở
rộng được quan hệ với rất nhiều đối tác như Anh, Mỹ, Nhật Bản, EU… Xuất khẩu
là thành công lớn nhất của ngành thủy sản. Xuất khẩu thủy sản còn thúc đẩy sự
phát triển của các lĩnh vực như khai thác như nuôi trồng, chế biến và các dịch vụ
hậu cần khác của ngành. Như vậy xuất khẩu đóng một vai trò tương đối quan
trọng đối với ngành thuỷ sản. Chính vì vai trò quan trọng như vậy, xuất khẩu cần
được chú trọng phát triển, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hóa ở Việt Nam
hiện nay. Trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực hàng đầu của Việt Nam, các
mặt hàng thủy sản có nhiều tiềm năng để phát triển, và thực sự đã đạt được nhiều
thành tựu trong thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế khiến cho
tiềm năng đó chưa được khai thác triệt để.
Ngành thủy sản trong những năm gần đây (2013 - 2014) cũng có những tăng
trưởng rõ rệt. Không chỉ đạt được những con số ấn tượng về kim ngạch xuất khẩu
(gần 8 tỷ giá trị thủy sản xuất khẩu), năm 2014 còn là năm thắng lợi về mở rộng
thị trường xuất khẩu với các doanh nghiệp xuất khẩu. Có thể thấy năm 2014, xuất
khẩu thủy sản đã tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu tăng vọt, nguồn nguyên liệu
SVTH: Trần Thị Nhung 5
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
giảm, giá thủy sản nhập khẩu tăng. Tuy nhiên, năm 2015, xu hướng này lại đảo
ngược, kết thúc quý 3/2015, ngành thủy sản Việt Nam đã không còn hy vọng giữ
vững được kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như tôm và cá tra. Thực
trạng tăng trưởng kém bền vững của ngành đã bắt đầu bộc lộ rõ khi các yếu tố
thuận lợi khách quan không còn nữa.
Vì vậy việc đẩy mạnh xuất nhập khẩu đang là lối đi chính của nước ta hiện nay.
Tuy nhiên việc đảm bảo giữa tăng trưởng và bền vững của ngành thì còn khá
nhiều khó khăn, bất cập. Vì vậy em chọn ngành thủy sản trong đề tài “Xuất khẩu
thủy sản Việt Nam, thực trạng và giải pháp” với hy vọng sẽ phần nào làm rõ
những vấn đề trên.
NỘI DUNG ĐỀ ÁN
Gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu thủy sản Việt Nam
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản Việt Nam
SVTH: Trần Thị Nhung 6
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng
tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động
mua bán trao đổi hàng hoá (bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình)
trong nước. Có hai hình thức xuất khẩu: Xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián
tiếp, những hình thức này sẽ được các doanh nghiệp sử dụng để làm công cụ thâm
nhập thị trường quốc tế. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn
cầu, trong tất cả các nghành, các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ là hàng hoá
hữu hình mà cả hàng hoá vô hình với tỷ trọng ngày càng lớn.
Xuất khẩu hàng hoá có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán
cân thanh toán, tăng thu ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu
kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân. Đối với những
nước có trình độ kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng là tài
nguyên thiên nhiên và lao động, còn những yếu tố thiếu hụt như vốn, thị trường và
khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu thực chất là giải pháp mở của
nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với
tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng
trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách với nước giàu.
Xuất khẩu là hoạt động mũi nhọn của quốc gia, giúp thúc đẩy phát triển quan
hệ đối ngoại với nhiều nước, giúp chuyển giao vốn và công nghệ vào trong quốc
gia, phát triển trình độ sản xuất cả doanh nghiệp và lao động, tạo ra việc làm, kinh
nghiệm… và còn nhiều lợi ích khác. Đất nước muốn phát triển phải mở rộng ngoại
SVTH: Trần Thị Nhung 7
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
thương, giao dịch xuyên biên giới. Công cụ để thực hiện điều đó chính là xuất
nhập khẩu.
1.2 ĐẶC ĐIỂM NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM
Việt Nam có vùng đặc quyền kinh tế trên biển rộng hơn 1 triệu km2 với đường
bờ biển dài hơn 3.200 km, 112 cửa sông rạch và 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên
nhiều sông ngòi, đầm phá, đảm bảo cho nguồn tài nguyên thuỷ hải sản rất phong
phú. Trong vùng biển độc quyền kinh tế, tổng trữ lượng thuỷ sản biển được đánh
giá khoảng 4 triệu tấn, trong đó lượng thuỷ sản ở tầng nổi chiếm 62,7% và tầng
đáy chiếm 37,3% đảm bảo cho khả năng khai thác 1.4 đến 1.6 triệu tấn thuỷ sản
các loại hàng năm trong đó có nhiều loại hải sản quý có giá trị kinh tế cao như:
tôm hùm, cá ngừ, sò huyết… Việt Nam cũng có vùng mặt nước nội địa lớn rộng
hơn 1,4 triệu ha, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản dồi dào, khoảng 1,5 triệu tấn mỗi
năm. Khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm và một số vùng có khí hậu ôn đới. Tài nguyên
khí hậu đã giúp cho ngành thuỷ sản phát triển một cách thuận lợi. Chủng loại sinh
vật đa dạng và phong phú với khoảng 510 loài cá trong đó có nhiều loài có giá trị
kinh tế cao. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi giúp Việt Nam có nhiều
thế mạnh nổi trội để phát triển ngành công nghiệp thủy sản. Từ lâu Việt Nam đã
trở thành quốc gia sản xuất và xuất khẩu thủy sản hàng đầu khu vực, cùng với
Indonesia và Thái Lan. Xuất khẩu thủy sản trở thành một trong những lĩnh vực
quan trọng của nền kinh tế.
1.2.1 Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản
Nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Theo điều tra sơ bộ
của ngành thuỷ sản, riêng cá nước ngọt có 544 loài, cá nước lợ, nước mặn cũng có
186 loài. Trong đó nhiều loại đặc sản có giá trị xuất khẩu cao, được ưa chuộng
trên thị trường quốc tế. Phương thức nuôi trồng cũng rất đa dạng tạo cho sản phẩm
thêm phong phú. Nuôi trồng thuỷ sản thời gian qua phát triển với tốc độ khá
SVTH: Trần Thị Nhung 8
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
nhanh, thu được hiệu quả kinh tế – xã hội đáng kể, từng bước góp phần thay đổi
cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn và góp phần giải quyết việc làm,
tăng thu nhập và xoá đói, giảm nghèo. Theo kết quả thống kê ở các tỉnh/thành phố,
năm 2010, cả nước có trên 1 triệu ha mặt nước nuôi trồng thủy sản, bình quân giai
đoạn 2001-2010, tăng 4,2%/năm. Trong đó, vùng đồng bằng sông Cửu Long
chiếm nhiều nhất với 70,19% tổng diện tích, tiếp đến là vùng đồng bằng sông
Hồng 11,64%. Năm 2012, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản của cả nước đạt
1.200.000 ha với tốc độ tăng bình quân 4,3%/năm giai đoạn 2001 - 2012.
- Nuôi thuỷ sản nước ngọt
Nuôi cá ao hồ nhỏ: Là một nghề có tính truyền thống gắn với nhà nông, từ
phong trào ao cá Bác Hồ đến phong trào VAC. Xu hướng diện tích ao đang bị thu
hẹp do nhu cầu phát triển xây dựng nhà ở. Đối tượng cá nuôi khá ổn định: trắm,
chép, trôi, mè, trê lai, rô phi... nguồn giống sinh sản hoàn toàn chủ động. Năng
suất cá nuôi đạt bình quân trên 3 tấn/ha. Nghề nuôi thuỷ sản ao hồ nhỏ đã phát
triển mạnh. Đặc biệt, tôm càng xanh là một mũi nhọn để xuất khẩu và tiêu thụ
trong nước, nhất là ở các thành phố, trung tâm dịch vụ góp phần điều chỉnh cơ cấu
canh tác ở các vùng ruộng trũng,tăng thu nhập và giá trị xuất khẩu. Vấn đề khó
khăn là sự phụ thuộc của năng suất vào điều kiện thời tiết, khí hậu cộng với vấn đề
trình độ của người nuôi chưa được giải quyết thích hợp đã dẫn đến sự không ổn
định của sản lượng nuôi. Các giống đã đưa vào nuôi là: lươn, ếch, ba ba, cá sấu...
Tuy nhiên, do thiếu quy hoạch, không chủ động nguồn giống, thị trường không ổn
định... đã hạn chế khả năng phát triển.
Nuôi cá mặt nước lớn: Đối tượng nuôi thả chủ yếu là cá mè, ngoài ra còn thả
ghép cá trôi, cá rô phi... Do khó khăn trong khâu bảo vệ và giá cá mè thấp nên
lượng cá thả vào hồ nuôi có xu hướng giảm. Hình thức nuôi chủ yếu hiện nay là
lồng bè kết hợp khai thác cá trên sông, trên hồ. Hình thức này đã tận dụng được
diện tích mặt nước, tạo ra việc làm tăng thu nhập, góp phần ổn định đời sống của
SVTH: Trần Thị Nhung 9
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
những người sống trên sông, ven hồ. ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung, đối tượng
nuôi chủ yếu là trắm cỏ, qui mô lồng nuôi khoảng 12–24 m3, năng suất 400–600
kg/lồng. ở các tỉnh phía Nam, đối tượng nuôi chủ yếu là cá ba sa, cá lóc, cá bống
tượng, cá he. Quy mô lồng, bè nuôi lớn, trung bình khoảng 100 – 150 m3 / bè,
năng suất bình quân 15 – 20 tấn / bè.
Nuôi cá ruộng trũng: Tổng diện tích ruộng trũng có thể đưa vào nuôi cá theo
mô hình cá - lúa khoảng 580.000 ha. Năm 1998, diện tích nuôi cá khoảng 154.200
ha. Năng suất và hiệu quả nuôi cá ruộng trũng khá lớn. Đây là một hướng cho việc
chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn.
Nuôi tôm nước lợ: Nuôi thuỷ sản nước lợ được phát triển rất mạnh thời kỳ qua,
đã có bước chuyển từ sản xuất nhỏ tự túc sang sản xuất hàng hoá, mang lại giá trị
ngoại tệ cao cho nền kinh tế quốc dân và thu nhập đáng kể cho người lao động.
Những năm gần đây tôm được nuôi ở khắp các tỉnh ven biển trong cả nước, nhất là
tôm sú, tôm he, tôm bạc thẻ, tôm nương, tôm rảo, song chủ yếu là tôm sú. Tôm
được nuôi trong ao đầm theo mô hình khép kín, nuôi trong ruộng và nuôi trong
rừng ngập mặn. Nhìn chung, khu vực miền Nam thuận lợi nhất cho viêc nuôi tôm.
Nghề nuôi tôm ở khu vực này phát triển mạnh, chủ yếu dựa vào việc đánh bắt các
giống tôm tự nhiên. Diện tích nuôi tôm ước tính có tới 200 nghìn ha, trong đó 25
% là nuôi kết hợp với trồng (tôm–lúa, tôm–dừa, tôm–sản xuất muối, tôm-đước).
- Nghề nuôi trồng thuỷ sản nước mặn
Nghề nuôi biển có tiềm năng phát triển tốt. Đến nay nghề nuôi trai lấy ngọc,
nuôi cá lồng, nuôi tôm hùm, nuôi thả nhuyễn thể hai mảnh vỏ, nuôi trồng rong sụn
có nhiều triển vọng tốt. Tuy nhiên do khó khăn về vốn, hạn chế về công nghệ,
chưa chủ động được nguồn giống nuôi nên nghề nuôi biển thời gian qua còn bị lệ
thuộc vào tự nhiên, chưa phát triển mạnh.
- Hệ thống sản xuất giống
SVTH: Trần Thị Nhung 10
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Hệ thống sản xuất giống thuỷ sản nước ngọt: Các loài cá nước ngọt truyền
thống hầu hết đã được sản xuất nhân tạo trong thời gian qua. Vấn đề cung cấp
giống cho nuôi trồng các đối tượng này tương đối ổn định. Số cơ sở sản xuất cá
giống nhân tạo trên toàn quốc hiện nay khoảng 354 cơ sở, hàng năm có khả năng
sản xuất khoảng trên 4 tỷ cá giống cung cấp kịp thời vụ cho nhu cầu nuôi trên cả
nước. Tuy nhiên, giá cá giống nhất là các loại đặc sản còn cao, chưa đảm bảo chất
lượng giống đúng yêu cầu và chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Hệ thống sản xuất giống tôm: Giống tôm về cơ bản đã cho đẻ thành công ở cả
3 miền Bắc, Trung, Nam, nhưng sản lượng còn thấp. Vấn đề nuôi vỗ tôm bố mẹ
thành thục chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng dẫn đến tình
trạng khan hiếm nguồn tôm bố mẹ trên cả nước, đặc biệt là vào vụ sản xuất chính.
Đến nay trên toàn quốc đã có 2.125 trại sản xuất và ươm tôm giống, hàng năm sản
xuất được khoảng 5 tỷ tôm P15, bước đầu đã đáp ứng một phần nhu cầu tôm giống
cho nhân dân.
Hạn chế chủ yếu trong sản xuất giống là sự phân bố không đồng đều của các
trại giống theo khu vực địa lý đã dẫn đến tình trạng phải vận chuyển con giống đi
xa, vừa làm tăng thêm giá thành vừa làm giảm chất lượng con giống, chưa có sự
phù hợp trong sản xuất giống theo mùa đối với các loài nuôi phổ biến nhất và
thiếu các công nghệ hoàn chỉnh để sản xuất giống sạch bệnh.
- Tình hình sản xuất thức ăn
Theo thống kê hiện nay trên toàn quốc có khoảng 24 cơ sở sản xuất thức ăn
nhân tạo với tổng công suất 47.640 tấn / năm, sản lượng thức ăn đạt được chưa
đáp ứng nhu cầu cả và số lượng lẫn chất lượng. Giá thành cao do chi phí đầu vào
chưa hợp lý ảnh hưởng đến sức tiêu thụ. Với một số mô hình nuôi bán thâm canh
(nuôi tôm) và thâm canh (nuôi cá lồng) thì thức ăn được nhập từ nước ngoài và
phải chi trả một lượng ngoại tệ tương đối lớn.
SVTH: Trần Thị Nhung 11
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
1.2.2 Lĩnh vực khai thác thuỷ sản
- Khai thác hải sản: là việc khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên trên biển va vùng
nước lợ. Nhìn chung, nghề khai thác hải sản của nước ta là nghề cá nhỏ, hoạt động
ven bờ là chủ yếu. Do có sự phát triển về số lượng tàu thuyền, công cụ và kinh
nghiệm khai thác mà tổng sản lượng hải sản khai thác trong 10 năm gần đây tăng
liên tục (khoảng 6,6%/năm). Riêng trong giai đoạn 1991-1995 tăng với tốc độ
7,5%/năm ; giai đoạn 1996 – 2000 tăng bình quân 5,9 % / năm. Cơ cấu sản phẩm
khai thác có nhiều thay đổi: ngư dân đã chú trọng khai thác các sản phẩm có giá trị
thương mại cao như tôm, mực, cá mập, cá song, cá hồng, góp phần tăng kim
nghạch xuất khẩu.
Do sự tăng trưởng quá lớn của việc khai thác nên trữ lượng ở vùng biển ven bờ
đã có dấu hiệu bị đe dọa, một số loài hải sản có giá trị kinh tế cao đã bị khai thác
quá mức. Vì vậy ngành thủy sản Việt Nam chủ trương cơ cấu lại nghề khai thác để
giảm áp lực đối với nguồn lợi trong vùng biển này, bằng cách phát triển khai thác
các nguồn lợi còn chưa bị khai thác ở vùng xa bờ, đồng thời chuyển một bộ phận
ngư dân sang lĩnh vực hoạt đông kinh tế khác như nuôi trồng, kinh doanh, cung
ứng dịch vụ hậu cần nghề cá, tham gia hoạt động phục vụ du lịch, giải trí...
- Khai thác thủy sản nội địa: là hoạt động khai thác nguồn lợi thủy sản trong các
sông hồ, đầm, phá và các vùng nước ngọt tự nhiên khác. Tổng sản lượng thủy sản
khai thác nội địa hằng năm dao động từ 200 đến 250 nghìn tấn. Đây là nguồn cung
cấp thực phẩm tại chỗ quan trọng cho dân cư, đồng thời cũng có nhiều sản phẩm
quý.
Lao động khai thác: Hiện nay lực lượng lao động khai thác còn khá dư thừa kể
cả lực lượng lao động kỹ thuật và lực lượng lao động đến tuổi được bổ sung hàng
năm. Nhìn chung lực lượng lao động thành thạo nghề nhưng trình độ văn hoá thấp
gây ảnh hưởng nhiều đến việc khai thác.
SVTH: Trần Thị Nhung 12
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
1.2.3 Lĩnh vực chế biến thuỷ sản
Chế biến thuỷ sản là khâu rất quan trọng trong quá trình sản xuất, kinh doanh
thuỷ sản bao gồm nuôi trồng – khai thác – chế biến và tiêu thụ. Những hoạt động
chế biến trong 15 năm qua được đánh giá là có hiệu quả, nó đã góp phần tạo nên
sự khởi sắc của ngành thuỷ sản.
Nguyên liệu thuỷ sản được cung cấp từ 2 nguồn chính là khai thác hải sản và
nuôi trồng thuỷ sản. Nguồn hải sản là chủ yếu trong cơ cấu nguyên liệu trong
những năm qua, chiếm 70 % tổng sản lượng thuỷ sản thu gom được ở Việt Nam,
trung bình 10 năm từ 1985 – 1995, sản lượng khai thác hàng năm là khoảng
700.000 tấn. Trong đó 40% sản lượng là cá đáy, 60 % là cá nổi, sản lượng khai
thác phía Bắc chiếm 4,2 %, miền Trung 39,4 % và miền Nam 56,4 %. Giai đoạn
1985 –1995 tốc độ tăng bình quân là 4,1 % / năm, riêng giai đoạn 1991 – 1995 là
6,8%/năm. Sau năm 1995, do nghề cá xa bờ được đầu tư mạnh hơn nên sản lượng
khai thác hải sản tăng rất mạnh, vượt mức một triệu tấn (1.078.000 tấn) vào năm
1997, tăng 15,8 % so với năm 1996, năm 1998 đạt 1.137.809 tấn tăng 12,2 % so
với năm 1997, năm 1999 đạt 1.230.000 tấn tăng 8,6 % so với năm 1998.
Nguồn nguyên liệu nuôi trồng từ khai thác nội đồng là khoảng 300.000 –
400.000 tấn / năm, nếu tính bình quân 10 năm từ 1985 – 1995 thì tốc độ tăng
trưởng là 6,4%/năm. Tuy nhiên cũng giống như khai thác hải sản, sản lượng nuôi
trồng thuỷ sản những năm gần đây cũng tăng mạnh, năm 1997 đạt 509.000 tấn,
tăng 19,7 % so với năm 1996 và vượt mức 500.000 tấn (537.870 tấn) vào năm
1998.
Do tổng sản lượng thuỷ sản tăng mạnh và công nghệ chế biến, thói quen tiêu
dùng cũng có nhiều thay đổi nên lượng nguyên liệu được đưa vào chế biến ngày
càng nhiều. Năm 1991 chỉ có khoảng 130.000 tấn nguyên liệu được đưa vào chế
biến xuất khẩu chiếm khoảng 15 % và khoảng xấp xỉ 30 % lượng nguyên liệu
được đưa vào chế biến cho tiêu dùng nội địa còn lại dùng dưới dạng tươi sống thì
SVTH: Trần Thị Nhung 13
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
đến năm 1998 đã có khoảng 400.000 tấn nguyên liệu được đưa vào chế biến xuất
khẩu, chiếm khoảng 24,3% tổng sản lượng thuỷ sản và khoảng 41 % nguyên liệu
được chế biến cho tiêu dùng nội địa và như vậy chỉ còn khoảng 35 % nguyên liệu
được dùng dưới dạng tươi sống.
Nguyên liệu hải sản được đánh bắt từ nhiều loại tàu và ngư cụ khác nhau do đó
sản phẩm đánh bắt được cũng có những đặc tính khác nhau. Đối với các tàu đi dài
ngày, sản phẩm đánh bắt thường được bảo quản bằng đá, cá tạp thì ướp muối, rất ít
phương tiện có hầm bảo quản. Các loại tàu nhỏ thường đi về trong ngày nên
nguyên liệu hầu như không qua xử lý bảo quản.
Nguyên liệu hải sản thường bị xuống cấp chất lượng do phương tiện và đầu tư
cho khâu bảo quản còn quá ít, quá thô sơ. Sau khi hải sản được đánh bắt thông qua
142 bến, cảng cá chưa được xây dựng hoàn chỉnh do đó về mùa nóng các loại hải
sản thường bị xuống cấp nhanh chóng, giá trị thất thoát sau thu hoạch lớn (khoảng
30%).
Các loại nguyên liệu từ nuôi trồng nước ngọt, lợ do gần nơi tiêu thụ hoặc là chủ
động khai thác nên được đưa trực tiếp ra thị trường hoặc vào thẳng các nhà máy
chế biến, hầu như không qua xử lý bảo quản, chúng thường đảm bảo độ tươi, chất
lượng tốt.
Nghiên cứu công nghệ sau thu hoạch đã được tiến hành song tác động của nó
không là bao, một phần do sản phẩm thị trường còn chấp nhận hay do những lý do
kinh tế, tài chính, kỹ thuật mà bản thân ngư dân chưa thể áp dụng được. Khi phân
phối lưu thông nguyên liệu phải trải qua nhiều khâu trung gian nên chất lượng
cũng bị giảm sút.
Các mặt hàng chế biến thuỷ sản:
Các mặt hàng đông lạnh (HĐL): Trong giai đoạn 1985 – 1995, các mặt hàng
này có tốc độ gia tăng trung bình 25,77 % / năm, giai đoạn 1990 – 1995, lượng
HĐL tăng mạnh (31,78 %), giai đoạn 1996 - 1998 lượng HĐL vẫn tiếp tục tăng
SVTH: Trần Thị Nhung 14
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
mạnh (trên 20%). Trong các sản phẩm thuỷ sản đông lạnh thì tôm đông lạnh vẫn
chiếm vị trí độc tôn, thời kỳ 1990 – 1995 chiếm khoảng 56 %, năm 1997 chiếm 46
% và 1998 là 52,5 %. Mực và các mặt hàng cá đông lạnh cũng có tốc độ tăng
trưởng rất mạnh. Các loại đông lạnh khác chủ yếu là các loại ghẹ, ốc, cua, sò,
điệp... có tốc độ tăng trưởng rất nhanh cùng với sự tăng trưởng của các mặt hàng
có giá trị gia tăng. Xu hướng tăng của sản phẩm nay còn rất lớn.
Mặt hàng tươi sống: gần đây cũng rất phát triển, chủ yếu dùng cho xuất khẩu,
bao gồm các loại cua, cá, tôm còn sống hoặc còn tươi như cá ngừ đại dương.
Mặt hàng khô: Dạng sản phẩm này được sản xuất khá phổ biến vì đơn giản về
thiết bị, công nghệ, các loại sản phẩm chính là mực khô, cá khô, tôm khô, rông câu
khô, các loại khô tẩm gia vị.
Các mặt hàng khác: Bên cạnh các mặt hàng trên còn có các mặt hàng đồ hộp,
bột cá gia súc, các sản phẩm lên men và các sản phẩm dùng cho xuất khẩu như
vây, bong, cước cá hay dùng cho nội địa như ngọc trai, arga, dầu gan cá...
1.3 VỊ TRÍ, VAI TRÒ NGÀNH THỦY SẢN TRONG NỀN KINH TẾ
Đối với nền kinh tế quốc dân
- Nghề nuôi trồng thủy sản từ tự cung tự cấp đã đáp ứng được nhu cầu cho
tiêu dùng trong và ngoài nước, đáng kể là sản lượng tôm nuôi phục vụ xuất khẩu
của nước ta đứng vào khoảng thứ 5 trên thế giới; thủy sản xuất khẩu cũng đã được
xác định là đối tượng chủ yếu để phát triển nuôi trồng.
- Công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu mà chủ yếu là công nghiệp đông
lạnh thủy sản, với 164 cơ sở với tổng công suất là 760 tấn/ngày đã đóng vai trò to
lớn hàng đầu về công nghiệp chế biến thực phẩm trong cả nước và thu hút nguyên
liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
- Sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ, trước hết phải kể đến kỹ
thuật sinh sản nhân tạo để tạo nguồn tôm giống vào cuối những năm 80, cung cấp
SVTH: Trần Thị Nhung 15
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
hơn 1 tỷ tôm giống các cỡ. Trong công nghiệp đánh cá, dần dần tạo ra các công
nghệ để chuyển dịch cơ cấu nghề khai thác theo hướng hiệu quả cao, du nhập nghề
mới từ nước ngoài để có thể vươn ra khai thác xa bờ.
- Hoạt động hợp tác quốc tế trên cả ba mặt: thị trường xuất khẩu, nguồn vốn
nước ngoài và chuyển giao công nghệ đều đạt những kết quả khích lệ. Từ cơ chế
“Lấy phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai thác
và nuôi trồng” qua các thời kỳ, Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa đến nay,
sản phẩm thủy sản nước ta đã có mặt tại hơn 50 nước và vùng lãnh thổ với một số
sản phẩm bắt đầu có uy tín trên các thị trường quan trọng. Trao đổi quốc tế trên
lĩnh vực công nghệ đã góp phần để có kết quả vừa nêu.
Vai trò của trong việc tạo công ăn việc làm
Công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đảm bảo việc làm thường xuyên
cho khoảng 3,5 triệu lao động, đặc biệt là từ năm 2011, số lao động thủy sản là
3,53 triệu người. Khoảng 4 triệu người sống trong các hộ gia đình làm nghề đánh
bắt và nuôi trồng thủy sản. Như vậy, khoảng 7,5 triệu người chiếm 8,3% dân số
sống phụ thuộc vào ngành thủy sản như một nguồn sinh sống.
Tổng số lao động có thu nhập từ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng như từ
các ngành và các hoạt động hỗ trợ thủy sản ước tính lên tới 8 triệu người. Ngoài
ra, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản còn đảm bảo việc làm không thường xuyên và
thu nhập phụ cho hơn 20 triệu người. Số dân số dựa vào nghề cá đã tăng lên
khoảng 8,5 triệu người vào năm 2010 và 11 triệu người vào năm 2012. Hơn nữa,
thu nhập trực tiếp của những người lao động thường xuyên trong nghề cá và nuôi
trồng thủy sản dự tính tăng trung bình 16%/năm.
Đối với hoạt động xuất khẩu
GDP ngành thủy sản đóng góp tương đối yếu trong GDP toàn quốc tuy nhiên
ngành đã có sự bù đắp lại bởi sự đóng góp mạnh mẽ vào kim ngạch xuất khẩu cả
nước. Đóng vai trò là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam,
SVTH: Trần Thị Nhung 16
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
kim ngạch xuất khẩu thủy sản đã không ngừng tăng lên trong một số năm qua,
đóng góp một phần không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Từ năm
2009 đến 2014, kim ngạch xuất khẩu thủy sản luôn chiếm tỷ trọng trên dưới 10%
so với tổng giá trị xuất khẩu, đặc biệt năm 2014, tỷ trọng này là 31,1%.
Bảng 1.1: Kim ngạch xuất khẩu 10 mặt hàng chủ yếu của Việt Nam năm 2014 và so sánh với năm 2013
Hàng hóa chủ yếu Kim ngạch (Tỷ USD)
So với cùng kỳ năm 2013
Kim ngạch +/-
(Tỷ USD)Tốc độ +/-
(%)
TỔNG GIÁ TRỊ 150,19 18,15 13,7
Trong đó: Doanh nghiệp FDI 94,4 13,06 16,7
Điện thoại và các loại linh kiện 24,08 2,36 11,1
Hàng dệt, may 20,95 4,23 16,8
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 11,66 1 7,9
Giày dép các loại 10,34 3,11 23,1
Hàng thủy sản 7,84 1,14 17,1
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 7,31 1,99 21,4
Dầu thô 7,23 -0.007 -0.1
Gỗ và sản phẩm gỗ 6,21 0,78 11,1
Phương tiện vận tải và phụ tùng 5,48 0,64 10,4
Cà phê 3,56 1,09 30,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê
SVTH: Trần Thị Nhung 17
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Trong năm 2014, xuất khẩu thủy sản của nước ta đạt 7,84 tỷ USD, tăng hơn
17% so với năm trước, đứng thứ năm trong kim ngạch xuất khẩu 10 mặt hàng chủ
lực nước ta. Đóng góp nhiều nhất là mặt hàng tôm với kim ngạch xuất khẩu trên 4
tỷ USD, tăng 25% so với năm 2013.
Với kim ngạch xuất khẩu đạt gần 8 tỷ USD, 2014 là năm ngành thủy sản nước
ta có tốc độ tăng trưởng cao nhất và liên tiếp trong vòng 3 năm trở lại đây. Không
chỉ đạt được những con số ấn tượng về kim ngạch xuất khẩu, mà 2014 còn là năm
thắng lợi về mở rộng thị trường xuất khẩu với các doanh nghiệp xuất khẩu.
1.4 CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỐNG TỚI XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Yếu tố kinh tế
Kinh tế là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc xuất khẩu hàng
hoá của mỗi quốc gia, trong đó có thuỷ sản. Các nhân tố chủ yếu là: tốc độ tăng
trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và vấn đề lạm phát. Kinh tế của đất nước
ảnh hưởng đến thu nhập của người dân, khi thu nhập người dân giảm xuống thì
nhu cầu của người dân về các sản phẩn thuỷ sản nhập khẩu cũng sẽ giảm xuống,
do đó việc xuất khẩu sang các thị trường đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn, có khi là
không xuất khẩu được. Khi một thị trường nào đó bị rơi vào tình trạng bị khủng
hoảng thì việc xuất khẩu sang thị trường đó là rất khó khăn vì khi đó người dân sẽ
không muốn tiêu thụ những hàng hoá có giá trị cao, thậm chí là trung bình, do đó
giá trị xuất khẩu thu về sẽ không được cao, thậm chí còn bị lỗ. Đối với các doanh
nghiệp khi xuất khẩu cũng cần phải chú ý đến yếu tố này vì nó sẽ ảnh hưởng đến
doanh thu của chính doanh nghiệp đó.
Tỷ lệ lạm phát, mức độ thất nghiệp ở thị trường nước nhập khẩu cũng tác động
đến cả mặt sản xuất và tiêu dùng. Khi tỷ lệ lạm phát cao nó sẽ tác động xấu đến
tiêu dùng, lượng cầu giảm, làm cho lượng hàng tiêu thụ giảm, không khuyến khích
sản xuất và đầu tư giảm.
SVTH: Trần Thị Nhung 18
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Chất lượng hoạt động của ngành ngân hàng không chỉ tác động đến kinh doanh
của bản thân ngành mà còn tác động nhiều mặt đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, tác động đến công tác kiểm tra, kiểm soát, giám sát của nhà
nước. Khi lãi suất thay đổi, điều này ảnh hưởng đến huy động và sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp; chi tiêu, tiết kiệm của người dân, ảnh hưởng đến lượng
cầu của người tiêu dùng từ đó doanh nghiệp cũng phải chịu tác động lớn.
Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa giá đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Tỷ
giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng thực hiện chiến
lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu trong hoạt động xuất khẩu. Do vậy doanh
nghiệp cần quan tâm đến yếu tố tỷ giá vì nó liên quan đến thu đổi ngoại tệ sang
nội tệ, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp cũng như của
ngành thủy sản.
Do sản phẩm của ngành thủy sản Việt Nam hướng tới việc xuất khẩu là chủ
yếu, với hơn 90% hợp đồng hiện nay thanh toán bằng đồng USD nên những biến
động của tỷ giá có ảnh hưởng lớn tới hoạt động của ngành. Đây là loại ngoại tệ có
giá trị tương đối ổn định, ít rủi ro hơn so với đồng ngoại tệ khác. Tuy nhiên sự
biến động đồng tiền này những năm gần đây cũng đang ít nhiều ảnh hưởng đến
sức cạnh tranh của DN Việt Nam trên thị trường Mỹ. Còn các doanh nghiệp xuất
khẩu sang EU, Nhật Bản, Trung Quốc… tuy cũng thanh toán bằng USD, nhưng do
các đồng nội tệ ở những nước này đang mất giá so với đồng USD, nên nhu cầu
chưa tăng cao và khách hàng tiếp tục đòi giảm giá nhập khẩu.
Yếu tố tự nhiên
Các nhân tố tự nhiên bao gồm nguồn lực tài nguyên thiên nhiên có thể khai
thác, các điều kiện về địa lý như địa hình, đất đai, thời tiết, khí hậu,… ở trong
nước cũng như ở từng khu vực. Thời tiết, khí hậu có tác động lớn đến việc chế
biến và xuất khẩu thủy sản. Địa hình và sự phát triển cơ sở hạ tầng tác động đến
việc lựa chọn địa điểm của mọi doanh nghiệp, khí hậu, độ ẩm sẽ ảnh hưởng đến
SVTH: Trần Thị Nhung 19
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
việc bảo quản, nguyên vật liệu, thành phẩm và điều kiện sản xuất của doanh
nghiệp.
Yếu tố tự nhiên của quốc gia nhập khẩu cũng có những ảnh hưởng nhất định.
Thị trường của một quốc gia, khu vực khác nhau có những yêu cầu khác nhau, đòi
hỏi sản phẩm đưa vào phải thích hợp. Chẳng hạn như sản phẩm nào đó sử dụng tốt
ở các nước có khí hậu ôn đới có thể ở khí hậu nhiệt đới lại bị hỏng, hoặc đòi hỏi
phải để ở nhiệt độ lạnh hoặc bôi dầu mỡ bảo quản. Những sản phẩm dễ hỏng do sự
tác động của khí hậu nóng ẩm thì lại yêu, bảo quản cao hơn khi xâm nhập vào thị
trường có nhiệt độ cao, độ ẩm lớn.
Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3260 km, diện tích vùng nội thuỷ và lãnh
hải rộng hơn 226.00 km2, có diện tích vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1.000.000
km2, trong vùng biển Việt Nam có trên 400 hòn đảo lớn nhỏ, là nơi có thể cung
cấp các dịch vụ hậu cần cơ bản, trung chuyển sản phẩm khai thác, đánh bắt, đồng
thời làm nơi neo đậu cho tàu thuyền trong những chuyến ra khơi. Khí hậu nhiệt
đới gió mùa ẩm và một số vùng có khí hậu ôn đới. Tài nguyên khí hậu đã giúp cho
ngành thuỷ sản phát triển một cách thuận lợi. Chủng loại sinh vật đa dạng và
phong phú với khoảng 510 loài cá trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao.
Tuy nhiên bên cạnh những điều kiện thuận lợi cũng có những khó khăn do điều
kiện địa hình và thuỷ vực phức tạp, hàng năm có nhiều mưa bão, lũ, vào mùa khô
lại hay vị hạn hán và gây khó khăn và cả những thổn thất to lớn cho ngành thuỷ
sản. Những năm gần đây, sự thay đổi khí hậu có tác động đến các hệ sinh thái biển
và nguồn lợi cá biển vì vậy làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của cộng đồng
ngư dân khu vực ven biển. Tại Việt Nam, hiện chưa có các nghiên cứu đầy đủ về
tác động của biến đổi khí hậu đối với khai thác hải sản. Tuy nhiên, với những nguy
cơ và thách thức đang tiềm ẩn đối với lĩnh vực khai thác thuỷ sản, các ảnh hưởng
tiềm tàng của biến đổi khí hậu có thể sẽ rất lớn.
Yếu tố chính trị – pháp luật
SVTH: Trần Thị Nhung 20
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Ngoài các yếu tố đã nêu trên, thị trường quốc tế còn chịu sự tác động bởi chính
trị và pháp luật. Thể hiện ở những ưu đãi và cản trở của Chính phủ nước nhập
khẩu đối với các nhà cung ứng khi xâm nhập vào thị trường quốc gia này. Điều
này sẽ giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện dễ xâm nhập vào thị trường hơn,
đồng thời có điều kiện mở rộng thị trường của mình. Có thể đó là những qui chế
hàng rào thuế quan, về bảo hộ, hạn ngạch... Nếu mối quan hệ chính trị giữa nước
nhập khẩu và xuất khẩu là bất ổn thì xâm nhập và mở rộng thị trường sẽ là rất khó
khăn cho nhà xuất khẩu.
Với việc tham gia vào các FTA và TPP sẽ tạo ra cơ hội không nhỏ cho thủy
sản Việt Nam về thuế quan. Hiệp định FTA Việt Nam – Hàn Quốc được ký kết
giúp nâng khả năng cạnh tranh của Việt Nam với Trung Quốc, Thái lan và
Ecuador (đang phải chịu thuế 20%). Hàn Quốc cam kết cấp hạn ngạch thuế quan
10.000 tấn tôm cho Việt Nam trong năm đầu tiên và đạt 15.000 tấn sau 5 năm với
thuế suất NK 0%.
Với Nhật Bản trong TPP, tất cả các sản phẩm tôm tươi/đông lạnh sẽ có thuế
0% (trước: 1-10%) ngay khi Hiệp định có hiệu lực; tôm chế biến bị loại trừ khỏi
danh mục giảm thuế trong VJEPA. Với Hoa kỳ trong TPP, các sản phẩm tôm
tươi/đông lạnh đã có thuế MFN 0%, sản phẩm tôm chế biến có lộ trình 5 năm đưa
thuế về 0%. Như vậy khi TPP khi có hiệu lực thì tôm Việt Nam có lợi thế cạnh
tranh hơn so với 6 nước cạnh tranh chính là Agentina, Ecuado, Ấn Độ, Thái Lan,
Phillipines và Indonesia vì không tham gia TPP.
Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, biện pháp tự vệ, các điều kiện kỹ
thuật, vệ sinh dịch tễ…là những loại rào cản đã và đang được các nước nhập khẩu
sử dụng khá phổ biến. Một khi những rào cản này được dựng lên, hoạt động xuất
khẩu có thể bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng: những mức thuế bổ sung có thể làm
triệt tiêu khả năng cạnh tranh, chi phí tuân thủ cao khiến giá bán hàng tăng, những
SVTH: Trần Thị Nhung 21
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
hạn ngạch khắt khe, thậm chí là những lệnh cấm nhập khẩu có thể dẫn tới nguy cơ
mất hẳn một thị trường nào đó.
Do lợi thế sản xuất theo quy mô lớn, chi phí nhân công rẻ nên các sản phẩm
của ngành thủy sản Việt Nam có giá thành khá cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, chính lợi thế này lại gây ra một rủi ro khá lớn cho ngành thủy sản Việt
Nam là rủi ro pháp lý. Không ít lần hiệp hội thủy sản của các quốc gia nhập khẩu
sản phẩm của chúng ta kiện các doanh nghiệp Việt Nam về việc bán phá giá.
Yếu tố văn hóa
Văn hóa xã hội ảnh hưởng một cách chậm chạp hơn song cũng rất sâu sắc đến
hoạt động quản trị và kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các vấn đề về phong tục
tập quán, lối sống, trình độ dân trí, tôn giáo, tín ngưỡng,… có ảnh hưởng sâu sắc
đến cơ cấu của cầu trên thị trường. Khi xét các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường,
đặc biệt là thị trường quốc tế thì không thể bỏ qua yếu tố văn hoá. Chính yếu tố
văn hoá đó đã làm cho khách hàng ở mỗi quốc gia phản ứng khác nhau với cùng
một loaị sản phẩm. Tác động của yếu tố văn hoá đến thị trường thực sự là một vấn
đề rộng, phức tạp, tuỳ cách quan niệm văn hoá theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp
nhưng có một điều, yếu tố văn hoá được hình thành trên điều kiện tự nhiên, lịch sử
dân tôc, tôn giáo... Do đó, thị trường của cùng các loại sản phẩm vào các quốc gia
có nền văn hoá khác nhau thì sẽ khác nhau. Một ví dụ đơn giản về ảnh hưởng của
các yếu tố văn hoá tới thị trường quốc tế là việc giới thiệu và bán váy ngắn ở các
quốc gia theo đạo hồi là điều không tưởng.
Khoa học - công nghệ
Trong phạm vi môi trường kinh tế quốc dân, yếu tố kỹ thuật – công nghệ đóng
vai trò ngày càng quan trọng, mang tính chất quyết định đối với khả năng cạnh
tranh, và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Cơ sở vật chất trong doanh
nghiệp nói chung doanh nghiệp thủy sản nói riêng bao gồm dây chuyền máy móc,
thiết bị, nhà xưởng, kho bãi,... cần được trang bị tiện nghi, đầy đủ và sử dụng
SVTH: Trần Thị Nhung 22
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
những dây truyền công nghệ hiện đại, tiên tiến sẽ góp phần không nho trong việc
nâng ca khả năng sản xuất cũng như xuất khẩu của ngành thủy sản.
Những năm qua, khoa học công nghệ trong chế biến và bảo quản thủy sản ở
nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần nâng cao giá trị gia tăng
cho ngành thủy sản. Số lượng các nhà máy xây dựng mới trong ngành ngày càng
tăng (nhất là nhà máy chế biến cá), đồng thời năng lực sản xuất và chế biến của
các nhà máy hiện có không ngừng được nâng lên về quy mô và công nghệ. Nhiều
trang thiết bị, máy móc hiện đại, có năng suất cao, đảm bảo chất lượng, đáp ứng
các yêu cầu về ATVSTP đã được đưa vào sử dụng như: hệ thống làm đá vảy, đá
khô, đá lỏng, dây chuyền chế biến liên hoàn,...
SVTH: Trần Thị Nhung 23
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
2.1 TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Trong nhiều năm qua, mặt hàng thủy sản luôn là một trong những mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam ra thị trường thế giới. Hoạt động xuất khẩu thủy
sản bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước và có tốc độ tăng trưởng ấn tượng
trong nhiều năm trở lại đây. Năm 2007 Việt Nam đã đứng thứ 7 trong top 10 nước
xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới và luôn giữ vị trí số 5 liên tục trong nhiều năm
gần đây. Việt Nam được coi là nước có tốc độ tăng trưởng thủy sản nhanh nhất,
sản lượng xuất khẩu thủy sản không ngừng tăng giai đoạn 2011-2015.
2.1.1 Giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủy sản
Mặc dù năm 2015, tình hình sản xuất, xuất khẩu thủy sản gặp nhiều khó khăn,
tuy nhiên nếu tính chung giai đoạn 2011-2015, ngành thủy sản vẫn giữ được tốc
độ tăng trưởng, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch 5 năm của cả giai đoạn.
Cụ thể, tổng sản lượng thủy sản giai đoạn 2011-2015 đạt mức tăng trung bình
3,8%/năm, cao hơn 9,3% so với kế hoạch. Trong số đó, sản lượng khai thác thủy
sản tăng trung bình 4,7% năm, sản lượng nuôi trồng tăng trung bình 3%/năm. Kim
ngạch xuất khẩu thủy sản tăng trung bình 2,4%/năm.
Trong năm 2013, mọi lĩnh vực của ngành thủy sản như khai thác, nuôi trồng,
chế biến, xuất khẩu đều nổi trội hơn năm 2012. Trong đó, xuất khẩu tăng vượt trội,
đạt trên 6,7 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 10,7%. Con số này lại tiếp
tục tăng lên 7,84 tỷ USD năm 2014, tăng hơn 17%. Tuy nhiên, năm 2015 kim
ngạch xuất khẩu thủy sản chỉ đạt 6,72 tỷ USD, giảm 14,3% so với năm 2014 và
giảm 10,4% so với mục tiêu đặt ra của năm 2015.
SVTH: Trần Thị Nhung 24
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
2010 2011 2012 2013 2014 2015
5.026.11 6.09
6.697.84
6.72
Biểu đồ 2.1: Giá trị xuất khẩu thủy sản qua các năm (tỷ USD)
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Tính đến giữa tháng 3/2015, tổng xuất khẩu thủy sản của cả nước đạt 1,061 tỷ
USD, giảm 22% so với cùng kỳ năm 2014. Tổng xuất khẩu thủy sản quý I năm
2015 đạt khoảng 1,27 tỷ USD, giảm 23% so với Quý I/2014.
Biểu đồ 2.2: Xuất khẩu thủy sản Việt Nam QI/2011-2015
Nguồn: VASEP
SVTH: Trần Thị Nhung 25
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
So với giá trị và mức tăng trưởng xuất khẩu thủy sản cùng thời điểm của 5 năm
(2011 – 2015) thì quý I/2015 sụt giảm mạnh nhất. Giá trị xuất khẩu cũng chỉ tương
đương với quý I/2013 và thấp hơn so với cùng kỳ 2012.
Theo xu hướng của các năm, xuất khẩu thủy sản quý I thường thấp hơn so với
quý IV năm trước và thấp nhất trong năm vì nhu cầu thường tăng từ cuối quý II và
tăng dần vào cuối năm, đáp ứng đơn đặt hàng trước các dịp Lễ Giáng sinh và Năm
mới. Năm 2014 diễn biến xuất khẩu ngược lại khi thị trường tăng đột biến vào đầu
năm, nhà nhập khẩu gom hàng dự trữ vì sợ thiếu nguồn cung, nhất là với mặt hàng
tôm. Cùng với các yếu tố khác, năm 2015 được dự báo có thể xuất khẩu thủy sản
sẽ quay về quỹ đạo thông thường của các năm: giảm đầu năm và tăng dần từ giữa
năm đến hết quý III, chững lại trong quý IV.
Tuy nhiên, quý III/2015, xuất khẩu thủy sản tiếp tục có mức tăng trưởng âm
16,5% so với cùng kỳ năm 2014. Tính chung 9 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản
cả nước đạt 4,8 tỷ USD, giảm 16,4% so với cùng kỳ. Tổng kim ngạch xuất khẩu
thủy sản tháng 10 đạt khoảng 604 triệu USD, giảm 12% so với cùng kỳ. Các mặt
hàng chủ lực như tôm, cá tra, cá ngừ, bạch tuộc đều có mức giảm lần lượt là 33%,
30%, 11% và 28%. Tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam 10 tháng đầu
năm 2015 ước đạt 5,45 tỷ USD, giảm gần 18% so với cùng kỳ năm 2014. Trong
đó, xuất khẩu tôm đạt khoảng 2,4 tỷ USD, giảm 28%, cá tra 1,3 tỷ USD, giảm
12%, cá ngừ 383 triệu USD, giảm 6%, mực bạch tuộc giảm 13% đạt 345 triệu
USD. Chỉ có các mặt hàng cá biển khác tăng gần 4% đạt 863 triệu USD.
Bảng 2.2: Hiện trạng xuất khẩu thủy sản 8 tháng đầu năm 2015 (Triệu USD)
Hạng mục
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
Tổng
2014583,59
457,71
611,56
661,52
661,86
572,04
717,86
751,35
5.017
SVTH: Trần Thị Nhung 26
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
2015507,09
347,30
510,23
532,13
566,76
506,50
560,00
600,00
4.130
Tăng trưởng
-13,11
-24,12
-16,57
-19,56
-14,37
-11,46
-21,99
-20,14
-17,69
Nguồn: Thống kê của Tổng cục Hải Quan và VASEP qua các năm
8 tháng đầu năm
Tháng 8
0 1000 2000 3000 4000 5000 6000
20142015
Biểu đồ 2.3: Giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2014 và 2015 (triệu USD)
Nguồn: Thống kê của Tổng cục Hải Quan và VASEP qua các năm
2.1.2 Tình hình xuất khẩu theo cơ cấu các mặt hàng thủy sản
Việt Nam hiện đang thuộc top 6 nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, khối
lượng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam ra các thị trường tăng khá mạnh qua mỗi
năm. Cùng với sự gia tăng về khối lượng là sự đa dạng về chủng loại mặt hàng,
các sản phẩm mặt hàng thủy sản của Việt Nam ngày càng phong phú đem lại
nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Những năm gần đây, các sản phẩm như
Tôm, cá Tra, cá Ngừ, hàng khô, Mực, Bạch Tuộc, Nhuyễn thể… đã tạo được chỗ
SVTH: Trần Thị Nhung 27
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
đứng trên thị trường các nước và chiếm tỉ trọng lớn nhất trong kim ngạch xuất
khẩu thủy sản.
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam theo mặt hàng
(đơn vị: tỷ USD)
Mặt hàngNăm 2013 Năm 2014 Năm 2015
Trị giá % Trị giá % Trị giá %
Tôm 3 46 4,1 50,2 3 44
Cá tra 1,76 26 1,76 22 1,6 24
Cá ngừ 0,53 7,9 0,48 6,1 0,46 7
Mặt hàng khác 1,4 20,1 1,5 21,7 1,66 25
Tổng 6,69 100 7,84 100 6,72 100
Nguồn: Tổng cục hải quan, Vasep, báo chí qua các năm
a. Mặt hàng cá tra
So với năm 2013, xuất khẩu cá tra năm 2014 đạt gần 1,77 tỷ USD, tăng nhẹ
0,4%. Mặc dù giảm mạnh, nhưng EU vẫn là thị trường chủ lực nhập khẩu cá tra
của Việt Nam. Năm 2014, xuất khẩu cá tra sang EU đạt 344,3 triệu USD, giảm
10,7% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 19,47% tỷ trọng. Xuất khẩu cá tra vào thị
trường Mỹ cũng giảm 11,5%, đạt 336,8 triệu USD, nhưng Mỹ vẫn là thị trường
quan trọng đứng thứ hai của cá tra Việt Nam. Tiếp đến là xuất khẩu vào ASEAN
SVTH: Trần Thị Nhung 28
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
và Bra-xin với giá trị tương ứng đạt 136,6 triệu USD (tăng 9,4%) và 113,2 triệu
USD (tăng 0,9%). Năm 2015, giá trị xuất khẩu cá tra ước đạt gần 1,6 tỷ USD,
giảm 10% so với cùng kỳ năm 2014.
Sản phẩm cá tra vẫn luôn được khách hàng ưa chuộng nhờ ưu thế vị ngon, dễ
chế biến và giá cả phù hợp. Thế nhưng trở ngại, thách thức luôn phải đối diện là
việc áp thuế chống bán phá giá tại thị trường Mỹ dai dẳng trong 20 năm qua cùng
với các rào cản thương mại, rào cản kỹ thuật bằng các qui định tiêu chuẩn khắt khe
ở một số nước. Trong khi đó sản phẩm cá tra còn phải cạnh tranh với một số mặt
hàng thủy sản (cá cùng loại có tính thay thế khác) cộng thêm tác động bất lợi là
tình hình biến động tỉ giá đồng euro và USD tại thị trường nhập khẩu các nước EU
và Mỹ khiến cá tra xuất khẩu giảm.
2011 2012 2013 2014 2015 2016(dự kiến)
1.8 1.74 1.76 1.761.6 1.5
Giá trị (tỷ USD)
Biểu đồ 2.4: Xuất khẩu cá tra Việt Nam 2011-2016
Nguồn: thuysanvietnam.com
Từ năm 2013 đến nay, ngành cá tra tiềm ẩn nhiều rủi ro do hạn chế về kỹ thuật
chăn nuôi, chế biến cũng như khâu tiêu thụ. Chi phí sản xuất trong nước cao dẫn
đến sản phẩm xuất khẩu kém cạnh tranh. Sản lượng cá tra cả năm 2013 ước tính
đạt 1,17 triệu tấn, giảm 6% so với năm 2012 là 1,28 triệu tấn. Năm 2014 và 2015
sản lượng cá tra cũng chỉ đạt mức 1,1 triệu tấn.
SVTH: Trần Thị Nhung 29
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Tính đến hết tháng 12-2015, nhu cầu nhập khẩu cá tra chưa có dấu hiệu tích cực
hơn ở các thị trường nhập khẩu lớn là: Mỹ, EU, ASEAN, Mexico. Điều này có thể
ảnh hưởng đến hoạt động chế biến, kinh doanh và xuất khẩu của doanh nghiệp
trong những tháng đầu năm 2016. Nhu cầu không cao khiến nhà máy không thể
tăng hơn công suất chế biến. Đây cũng là một lý do lớn ảnh hưởng đến giá cá tra
nguyên liệu giảm.
Tại hầu hết các thị trường lớn, xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn, nhu cầu tiêu
thụ và nhập khẩu chậm, giá bán không tăng, yêu cầu về chất lượng, an toàn thực
phẩm khắt khe hơn. Mỹ và EU là hai thị trường xuất khẩu lớn nhất nhưng giá trị
xuất khẩu giảm liên tiếp ngay từ đầu năm 2015.
Chưa bao giờ nghề cá tra lâm vào cảnh khó khăn như hiện nay khi trong 8 thị
trường nhập khẩu chính của cá tra Việt Nam thì có tới 6 thị trường giảm nhập
khẩu mạnh như EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Arập Xêút, Ai Cập… do tình hình kinh
tế khó khăn, người tiêu dùng giảm chi tiêu. Cụ thể năm 2015, Mỹ (giảm 6,3%);
EU (giảm 17,2%); ASEAN (giảm 0,8%); Mexico (giảm 16,8%); Brazil (giảm
36,8%) và Colombia (giảm 16,5%). Chỉ có giá trị xuất khẩu sang Anh (tăng
13,9%); Trung Quốc – Hongkong (tăng 42,7%) và Ảrập Xê út (tăng 4,2%) so với
cùng kỳ năm trước.
SVTH: Trần Thị Nhung 30
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Biểu đồ 2.5: Xuất khẩu cá tra sang Mỹ theo tháng 2014-2015
Nguồn: VASEP
Khó khăn về thị trường xuất khẩu, giá thành sản xuất cao càng tăng áp lực lên
giá thành cá tra nguyên liệu trong nước. Tính đến tháng 12-2015, giá cá tra nguyên
liệu tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long dù tăng nhẹ khoảng 400 đồng/kg so
với tháng trước nhưng vẫn khá trầm lắng. Tại Cần Thơ, giá thu mua cá tra nguyên
liệu trong size 600-800g/con hiện giữ ở mức 19.500-20.000 đồng/kg (trả chậm);
Tại Đồng Tháp giá cá trong size là 19.300-20.000 đồng/kg (trả chậm); tại An
Giang là 17.500-19.000 đ/kg. Với mức giá này, sau khi trừ các khoản chi phí đầu
tư, nông dân nuôi cá tra đang lỗ khoảng 2.000-3.000 đồng/kg cá nguyên liệu sản
xuất ra. Đây là mức thấp nhất trong năm trong 3 năm, dự báo trong năm 2016, khó
khăn xuất khẩu tại hầu hết các thị trường xuất khẩu lớn và thị trường tiềm năng sẽ
tác động trở lại khiến giá cá tra sẽ giảm thấp hoặc bất ổn hơn so với năm 2015.
Hiện cá tra Việt Nam đang chịu sự cạnh tranh mạnh của sản phẩm cá rô phi
Trung Quốc tại thị trường Mexico. Các DN thủy sản Trung Quốc đang có nhiều
chiến dịch quảng bá, xúc tiến thương mại khá tốt tại thị trường tiêu thụ thủy sản
SVTH: Trần Thị Nhung 31
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
lớn tại Bắc Mỹ này. Để khắc phục những khó khăn trên, ngành sản xuất cá tra Việt
Nam cần tích cực, chủ động tìm kiếm và mở rộng thị trường mới.
b. Mặt hàng cá ngừ
Cá ngừ Việt Nam đã xuất khẩu sang hơn 100 thị trường trong đó 10 thị trường
chính chiếm hơn 85% tổng giá trị xuất khẩu, bao gồm: Mỹ, Nhật Bản, EU,
ASEAN, Tây Ban Nha, Israel, Canada…
Mỹ37%
EU28%
Nhật5%
ASEAN7%
Israel4%
Canada2%
Khác17%
Biểu đồ 2.6: Thị trường xuất khẩu cá ngừ tính theo giá trị
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Thống kê của VASEP cho biết, sau khi đạt mức tăng trưởng ấn tượng 58,4% và
chiếm tới gần 8% tổng kim ngach xuất khẩu thủy sản của các nước trong năm
2012, ngành cá ngừ liên tục suy giảm trong 3 năm 2013-2015.
Mặc dù có sự tiến bộ là áp dụng công nghệ đánh bắt và bảo quản theo phương
pháp của Nhật Bản giúp tăng giá trị cá ngừ đại dương của Việt Nam tại một số
phiên đấu giá ở thị trường nước này, nhưng trên thực tế xuất khẩu cá ngừ của Việt
Nam trong năm qua vẫn gặp khá nhiều khó khăn. Ngành cá ngừ Việt Nam liên tiếp
sụt giảm về xuất khẩu trong những năm gần đây: Năm 2012, giá trị xuất khẩu cá
SVTH: Trần Thị Nhung 32
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
ngừ là 567,5 triệu USD; năm 2013 còn 527 triệu USD; năm 2014 xuống còn 484
triệu USD. Xuất khẩu sang các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ, Nhật Bản và
ASEAN đều rất ảm đạm. Xuất khẩu cá ngừ của cả nước năm 2015 đạt gần 455
triệu USD, giảm 6% so với cùng kỳ năm 2014.
2010 2011 2012 2013 2014 20150
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.29
0.38
0.570.52 0.48
0.46
Biểu đồ 2.7: Giá trị xuất khẩu cá ngừ 2010-2015 (tỷ USD)
Nguồn: Tổng cục Thống kê qua các năm
Từ năm 2013, do thời tiết không thuận lợi, nhiều mưa bão, thêm vào đó chi phí
cho chuyến biển cao do xăng dầu tăng giá nên hoạt động khai thác thuỷ sản ở các
vùng biển xa của ngư dân gặp nhiều khó khăn. Chất lượng cá sau thu hoạch lại
không đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu dưới dạng hàng có giá trị cao nên giá bán cá ngừ
đại dương giảm mạnh khiến nhiều tàu bị lỗ vốn. Sản lượng khai thác cá ngừ đại
dương năm 2013 giảm, chỉ đạt 13 nghìn tấn, giảm 15% so với năm 2012. Năm
2014 và 2015 vẫn không có dấu hiệu khả quan khi giá trị xuất khẩu cá ngừ vẫn
liên tục giảm. Sản phẩm cá ngừ chế biến của Việt Nam tiếp tục tăng tỷ trọng trong
tổng giá trị xuất khẩu, trong khi các sản phẩm cá ngừ tươi, sống và đông lạnh có
giá trị cao lại giảm tỷ trọng.
SVTH: Trần Thị Nhung 33
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Biểu đồ 2.8: Xuất khẩu Cá Ngừ Việt Nam tính đến tháng 9/2015
Nguồn: VASEP
Đáng chú ý là sự tăng trưởng xuất khẩu cá ngừ sang Nga. Nếu như năm 2014,
Nga còn là thị trường nhỏ đối với xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam thì sang đến
năm 2015, Nga đã trở thành thị trường nhập khẩu lớn thứ 8.
Tổng giá trị xuất khẩu cá ngừ sang Mỹ trong cả năm 2015 của Việt Nam đạt
hơn 190 triệu USD, tăng 8,5% so với năm 2014. Mỹ tiếp tục là thị trường xuất
khẩu cá ngừ lớn nhất của Việt Nam. Hiện Mỹ đang nhập khẩu nhiều các sản phẩm
philê/thăn cá ngừ đông lạnh của Việt Nam hơn so trước. Tổng giá trị xuất khẩu các
mặt hàng này sang đây cả năm 2015 đạt hơn 101,7 triệu USD, tăng gần 51% so
với cùng kỳ năm 2014. Ngoài ra xuất khẩu các mặt hàng cá ngừ chế biến khác
sang Mỹ trong năm 2015 cũng tăng mạnh, gần 58%, các mặt hàng khác đều giảm.
3 tháng cuối năm 2015, xuất khẩu cá ngừ sang EU vẫn tiếp tục giảm. Do đó, tổng
giá trị xuất khẩu sang đây trong cả năm 2015 giảm 28%, đạt gần 97,4 triệu USD.
Trong 3 thị trường nhập khẩu lớn nhất trong khối EU, chỉ có Tây Ban Nha tăng
nhập khẩu các sản phẩm cá ngừ của Việt Nam. Tổng giá trị xuất khẩu cá ngừ của
Việt Nam sang Tây Ban Nha trong quý 4/2015 đạt hơn 4,9 triệu USD, tăng hơn
SVTH: Trần Thị Nhung 34
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
164% so với cùng kỳ 2014. Năm 2015, xuất khẩu cá ngừ tươi, sống và đông lạnh
của Việt Nam sang các nước EU tăng đột biết, gần 223%, đạt hơn 13,7 triệu USD.
Trong khi đó, xuất khẩu các mặt hàng cá ngừ chế biến và philê/thăn cá ngừ đều
giảm.
Cuối năm 2015, xuất khẩu cá ngừ sang Nhật Bản phục hồi. Tuy nhiên, lượng
tăng này không đủ bù đắp cho những tháng đầu năm, nên tổng giá trị xuất khẩu cá
ngừ của Việt Nam sang Nhật Bản cả năm 2015 ước đạt hơn 20,4 triệu USD, giảm
9,5% so với năm 2014. Năm 2015, xuất khẩu cá ngừ chế biến của Việt Nam sang
thị trường Nhật Bản vẫn tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm 2014, tăng gần 16%.
Trong khi đó, xuất khẩu các mặt hàng tươi, sống và đông lạnh giảm.
Trước đó, các chuyên gia cũng dự đoán xuất khẩu các ngừ của Việt Nam sẽ khó
khởi sắc trong nửa đầu năm 2015 do sức tiêu thụ từ thị trường thế giới vẫn chưa có
dấu hiệu phục hồi, trong khi áp lực về thuế đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
của Việt Nam vẫn còn rất cao, đặc biệt là tại các thị trường xuất khẩu lớn như
Nhật Bản, Mỹ và EU.
Nguồn cung nguyên liệu cá ngừ không ổn định là lý do chính khiến xuất khẩu
mặt hàng này giảm sút. Việt Nam hiện vẫn đang phải nhập khẩu 50% nguyên liệu
cá ngừ thô cho chế biến với mức thuế nhập khẩu từ 10-24%. Chính điều này đã
khiến các doanh nghiệp xuất khẩu các ngừ của Việt Nam gặp khó khăn khi cạnh
tranh trên thị trường quốc tế.
Hơn thế nữa, các rào cản thương mại cùng với sự cạnh tranh khốc liệt từ các
quốc gia khác hiện cũng đang xuất khẩu cá ngừ cũng khiến các doanh nghiệp chế
biến trong nước lo ngại.
Các thị trường nhập khẩu lớn đều yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản
phải chứng minh nguồn gốc xuất xứ như: Vùng biển khai thác hay tàu khai thác
cũng như thắt chặt việc quản lý về vệ sinh và an toàn thực phẩm. Điều này cũng
đặt ra những thách thức không nhỏ cho cho doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ của
SVTH: Trần Thị Nhung 35
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam hiện vẫn chưa xây dựng được một kế hoạch
phát triển bền vững cho ngành cá ngừ, do vậy, nguồn cung cấp và chất lượng của
cá ngừ trong nước vẫn chưa ổn định. Kèm theo đó, các thiết bị đánh bắt và bảo
quản cá ngừ của ngư dân vẫn còn rất lạc hậu.
c. Về mặt hàng tôm đông lạnh
Năm 2013 kết thúc với kết quả xuất khẩu thủy sản vượt xa mục tiêu 6,5 tỷ USD.
Thành tích trên 6,7 tỷ USD có sự đóng góp lớn của ngành tôm với doanh số trên 3
tỷ USD, chiếm 46% tổng xuất khẩu. Năm 2014 có giá trị xuất khẩu tôm cao nhất
từ trước tới nay khoảng 4,1 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2013.
Tôm là mặt hàng có mức tăng trưởng cao nhất trong nhóm các mặt hàng thủy
sản xuất khẩu chính của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng mạnh của mặt hàng tôm đã
góp phần quan trọng để duy trì nhịp độ tăng trưởng khá trong xuất khẩu của toàn
ngành thủy sản, trong khi vẫn còn một số mặt hàng xuất khẩu quan trọng khác vẫn
có xu hướng giảm. Tôm chân trắng tiếp tục vượt xa tôm sú với giá trị xuất khẩu
đạt gần gấp đôi.
Có thể thấy năm 2013-2014, mặt hàng tôm đông lạnh xuất khẩu thật sự gây ấn
tượng, khi kim ngạch có sự tăng đột biến về giá trị vì trúng giá và gần như không
có đối thủ cạnh tranh. Những năm này, hội chứng tôm chết sớm (EMS) xuất hiện
đồng loạt tại các nước nuôi tôm, khiến nguồn tôm nguyên liệu cung cấp cho thị
trường giảm trong khi nhu cầu không giảm. Việt Nam lại là nước có kinh nghiệm
trong việc thả nuôi tại một số vùng dịch, việc áp dụng những mô hình nuôi hạn
chế sử dụng hóa chất nên nhiều người đã nuôi thành công, hơn nữa giá tôm tăng
rất cao do nguồn cung cấp tôm hàng đầu thế giới là Thái Lan bị dịch bệnh EMS
hoành hành, điều đó khiến tôm Việt Nam được giá, được mùa nên giá trị xuất
khẩu tăng.
Nhưng năm 2015, diễn biến thị trường đã không còn thuận lợi, cùng với những
khó khăn chung của việc xuất khẩu nông thủy sản, mặt hàng tôm gặp sự cạnh
SVTH: Trần Thị Nhung 36
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
tranh gay gắt về thị trường và giá từ các nước. Do sản lượng tôm của các nước sản
xuất đã phục hồi sau đại dịch EMS, trong khi người dân của nước ít bị dịch bệnh
là Việt Nam sau khi được mùa đã mở rộng diện tích nuôi, làm sản lượng tôm cung
cấp trên thị trường tăng mạnh. Vì vậy nguồn cung tôm quay về mức bình thường.
Một khi nguồn cung tôm từ các nước như Ấn Độ, Thái Lan… dồi dào, các nhà
nhập khẩu sẽ đắn đo để làm giá và các doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam
ắt hẳn gặp nhiều khó khăn.
Năm 2015, tôm Việt Nam được xuất khẩu sang 92 thị trường, giảm so với 150
thị trường của năm 2014. Top 10 thị trường chính gồm: Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Canada, Australia, Đài Loan, ASEAN và Thụy Sỹ, chiếm gần
95% tổng giá trị xuất khẩu tôm. Xuất khẩu tôm sang các thị trường chính đồng
loạt giảm mạnh.
Biểu đồ 2.9: Lượng và kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam 2014-2015
Nguồn: AgroMonitor Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Hải quan
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường
Mỹ năm 2015 đạt 657 triệu USD, giảm 38,3% so với năm 2014. Giá thành sản
xuất tôm cao đang là nguyên nhân chính dẫn tới giá xuất khẩu tôm của Việt Nam
cao hơn khoảng 20% so với mặt bằng chung trên thị trường Mỹ. Đồng nội tệ của
SVTH: Trần Thị Nhung 37
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
các đối thủ cạnh tranh với Việt Nam như Ấn Độ, Indonesia, Ecuador, Trung
Quốc… phá giá mạnh 15- 30%, trong khi đồng VND chỉ giảm giá nhẹ. Đây là
những nguyên nhân chính khiến tôm Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ khó cạnh tranh
với các quốc gia nói trên.
Bảng 2.4: Nhập khẩu tôm của Mỹ Q1/2014-2015
Nguồn: tintucnongnghiep.com
Tại Mỹ, tôm Việt Nam chịu sự cạnh tranh mạnh từ Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan,
Ecuado. Giá trị kim ngạch xuất khẩu tôm Việt Nam xếp thứ 4 trong năm 2014, tụt
xuống thứ 5 trong các tháng đầu năm 2015.
Kinh tế thế giới suy thoái, đặc biệt tại các thị trường chính, nhu cầu tiêu thụ
giảm tạo ra vòng xoáy giảm giá cho hầu hết các mặt hàng nông thủy sản, đặc biệt
là các loài thủy sản cao cấp như tôm. Ví dụ với sản phẩm tôm sú cỡ 16/20 của Việt
SVTH: Trần Thị Nhung 38
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Nam vốn được ưa chuộng tại thị trường Mỹ, giá đã giảm 14% từ 11,3 USD hồi
đầu năm xuống còn 9,75 USD/pao trong quý III. Tôm sú vỏ cỡ 21/25 của Việt
Nam giảm gần 30% từ 7,5 USD xuống 5,8 USD/pao, trong khi giá tôm cùng loại
của Ấn Độ cũng giảm từ 6,9 USD xuống mức tương đương 5,85 USD/pao.
Giá tôm của Việt Nam luôn cao hơn so với Indonesia và Ấn Độ. Ví dụ, tại thị
trường New York (Mỹ) vào ngày 17-4-2015, giá tôm loại U-12, xuất xứ từ Việt
Nam có giá 12,2 đô la Mỹ/pound (1 pound bằng 453 gam), trong khi của
Indonesia và Ấn Độ chỉ trên dưới 10,5 đô la Mỹ/pound. Vì vậy các nhà nhập khẩu
đã mua hàng của hai nước này thay vì của Việt Nam như trước đó.
Đồng đô la Mỹ tăng giá so với các loại tiền tệ khác cũng là nguyên nhân khiến
một số nước xuất khẩu lớn đã đồng loạt đẩy mạnh bán hàng vào Mỹ làm nguồn
cung dồi dào, cho nên phía Mỹ “ép” giá nhập khẩu xuống.
Tương tự, những biến động tỷ giá cũng khiến xuất khẩu tôm Việt Nam sang
một số thị trường trọng điểm khác sụt giảm trong quí đầu năm nay. Chẳng hạn kim
ngạch bán sang Hàn Quốc chỉ đạt trên 51 triệu đô la Mỹ, giảm 19,5% so với cùng
kỳ; sang Úc đạt trên 22 triệu đô la Mỹ, giảm 40,7%; sang EU đạt trên 108 triệu đô
la Mỹ, giảm 3,1%...
Biến động tiền tệ, vòng xoáy giảm giá khiến cho sức cạnh tranh của tôm Việt
Nam yếu đi so với các nước đối thủ. Giá tôm Việt Nam cao nhất trên các thị
trường chính do giá thành sản xuất cao hơn so với các nước cạnh tranh.
Ngày 7/9/2015, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) công bố kết quả cuối cùng rà soát
hành chính lần thứ 9 (POR9) thuế chống bán phá giá tôm đông lạnh nhập khẩu từ
Việt Nam giai đoạn 1/2/2013 đến 31/1/2014. Theo đó, mức thuế trung bình 0,91%,
đã giảm so với kết quả sơ bộ 0,93% công bố tháng 3/2015 và giảm mạnh so mức
thuế 6,37% của kỳ xem xét POR8. Đây là tín hiệu đáng mừng với xuất khẩu tôm
Việt Nam, phần nào giúp tháo gỡ gánh nặng về thuế xuất khẩu cho các doanh
nghiệp xuất khẩu tôm.
SVTH: Trần Thị Nhung 39
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Việc xuất sang Nhật Bản và các nước EU cũng bị sụt giảm 19% và 14% do
đồng Yen và đồng EUR giảm giá so với đồng USD, nhà nhập khẩu buộc phải hạ
giá mua hoặc hạn chế mua vào. Xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật Bản trong quí
1-2015 giảm mạnh, chỉ đạt trên 103 triệu đô la Mỹ, giảm 27,6% so với cùng kỳ
năm ngoái. Nhu cầu nhập khẩu tôm của Trung Quốc suy giảm 28% do bất ổn kinh
tế và sự sụp đổ thị trường chứng khoán, tác động đến việc tiêu dùng ở tầng lớp
trung và thượng lưu nước này. Do chậm linh hoạt trong việc điều chỉnh tỷ giá
ngay từ đầu nên giá trung bình tôm Việt Nam cao hơn Indonesia, Thái Lan và Ấn
Độ khoảng 1 - 2USD/kg, làm giảm khả năng cạnh tranh con tôm Việt Nam.
Ngoài 3 thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất là Mỹ, Nhật Bản, EU có thể nói Hàn
Quốc là thị trường mới, đầy tiềm năng. Mặc dù giá thành con tôm Việt Nam cao
hơn các nước nhưng điều này sẽ khắc phục dần và Việt Nam có những ưu thế so
với các nước khác, như: là nước có sản lượng và kích cỡ tôm sú lớn nhất; nuôi đa
dạng từ dạng quảng canh, quảng canh cải tiến, hữu cơ, thâm canh, kể cả siêu thâm
canh… có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường.
Làn sóng FTA và TPP mang lại ưu đãi lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu vì
tập trung mở cửa thị trường hàng hóa bằng việc giảm thuế nhập khẩu tại các thị
trường đối tác. Theo đó, mặt hàng tôm có lợi thế rõ rệt sau khi ký kết các FTA
song phương với Hàn Quốc, EU, Cộng đồng kinh tế Á – Âu và TPP. Thuế nhập
khẩu hầu hết các sản phẩm tôm nguyên liệu được giảm về 0% ngay khi hiệp định
có hiệu lực.
Hơn nữa, ký kết FTA và TPP giúp mở rộng thị trường và tăng khả năng cạnh
tranh cho tôm Việt Nam vì các nước đối thủ của Việt Nam hầu hết chưa ký FTA
với các đối tác này.
Năm 2016, TPP và các FTA sẽ tác động tích cực đến xuất khẩu tôm Việt Nam.
Mặc dù vẫn bị ảnh hưởng xu hướng giảm giá và biến động tiền tệ nhưng xuất khẩu
tôm Việt Nam được dự báo sẽ tăng khoảng 12% đạt khoảng 3,3 tỷ USD.
SVTH: Trần Thị Nhung 40
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
2.2 TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VÀO CÁC THỊ TRƯỜNG LỚN
Ba khối thị trường xuất khẩu thủy sản chính của Việt Nam là EU, Mỹ, Nhật Bản
chiếm khoảng gần 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản hàng năm của Việt Nam.
Năm 2013-2014, sản lượng thủy sản tăng mạnh mẽ. Top 10 thị trường lớn nhất
vẫn là: Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN, Australia, Brazil,
Mexico, Nga. Tuy nhiên, đã có sự thay đổi đáng kể về thứ tự và tỷ trọng.
Mỹ20%
EU18%
Nhật Bản16%
Trung Quốc và
Hồng Kong
9%
Hàn Quốc9%
ASEAN7%
Thị trường khác22%
Biểu đồ 2.10: Thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam 2015
Nguồn: thuysanvietnam.com
Năm 2015, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của cả nước đạt 6,7 tỉ đô la Mỹ, xuất
khẩu tới 164 thị trường, giảm hơn 14% so với cùng kỳ năm 2014. Nguyên nhân là
các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ, Nhật Bản, EU đều giảm. Trong khi đó
ASEAN lại gia tăng nhập khẩu mặt hàng này từ Việt Nam, và xu hướng này được
kỳ vọng sẽ tiếp tục trong năm 2016.
Những thị trường châu Á khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc những
năm trước được kỳ vọng là những thị trường mới, tăng trưởng mạnh thì năm 2015
cũng ghi nhận là khó khăn khi giá trị nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam cũng giảm.
SVTH: Trần Thị Nhung 41
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Tuy nhiên, chỉ có thị trường ASEAN là điểm sáng trong xuất khẩu thủy sản.
Năm 2015, giá trị xuất khẩu thủy sản sang những quốc gia ASEAN đạt gần 500
triệu đô la Mỹ, tăng hơn 10% so với cùng kỳ 2014. Những mặt hàng thủy sản xuất
khẩu chính qua các quốc gia trong khu vực là cá tra, cá ngừ, hải sản.
Theo báo cáo của VASEP, năm 2015, xuất khẩu cá ngừ sang ASEAN tiếp tục
phục hồi và thị trường này chiếm vị trí thứ 3 trong top 10 thị trường nhập khẩu cá
ngừ của Việt Nam. Một mặt hàng thủy sản khác xuất khẩu sang ASEAN là chả cá
và surimi. Năm 2015, giá trị mang về từ xuất khẩu chả cá, surimi vào ASEAN đạt
hơn 78 triệu đô la Mỹ, tăng gần 18% so với năm 2014.
Hoa Kỳ EU Nhật Bản Hàn Quốc0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
1.81.518
1.1821.11
0.512
1.7
1.49
1.19
0.663
1.32
1.175
1
0.6
2013 2014 2015
Biểu đồ 2.11: Giá trị xuất khẩu thủy sản sang các nước năm 2013-2015
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan, báo chí
SVTH: Trần Thị Nhung 42
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
2.3 CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
2.3.1 Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu mà trong đó Công ty kinh doanh
quốc tế trực tiếp bán sản phẩm ra thị trường nước ngoài thông qua các bộ phận
xuất khẩu của mình. Trong lĩnh vực thủy sản: 10 doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản
lớn nhất năm 2014 đóng góp 27,15% giá trị xuất khẩu của toàn ngành, tăng 19%
so với năm 2013 (10 doanh nghiệp lớn nhất đóng góp 22,77% giá trị xuất khẩu).
Đồng thời, xét theo từng doanh nghiệp tỷ lệ đóng góp mỗi doanh nghiệp trong Top
10 doanh nghiệp xuất khẩu lớn nhất năm 2014 cũng lớn hơn mức đóng góp năm
2013.
Biểu đồ 2.12: Tỷ trọng đóng góp của 10 DNXK thủy sản lớn nhất năm 2014 (%)
Nguồn: cafef.vn
SVTH: Trần Thị Nhung 43
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Xuất khẩu trực tiếp thường đòi hỏi chi phí cao và nguồn nhân lực lớn để phát
triển thị trường. Công ty xuất khẩu cũng phải chịu rủi ro cao, vốn đầu tư lớn, tốc
độ chu chuyển vốn chậm. Tuy nhiên hình thức này sẽ mang đến cho công ty
những lợi ích quan trọng như: có thể kiểm soát được sản phẩm, giá cả, hệ thống
phân phối ở thị trường nước ngoài, có thể bắt được sự thay đổi của nhu cầu thị
hiếu người tin dùng, các yếu tố môi trương để đưa các hoạt động xuất khẩu của
công ty thích ứng với thị trường nước ngoài. Chính vì thế mà nỗ lực bán hàng và
xuất khẩu của công ty đạt kết quả tốt hơn. Hình thức này chỉ phù hợp áp dụng với
những công ty lớn, đủ yếu tố về nguồn lực như nhân sự, tài chính và quy mô xuất
khẩu lớn.
2.3.2 Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp xuất khẩu không
trực tiếp đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu mà phải ủy
thác cho bên trung gian tiến hành xuất khẩu hộ. Trung gian này có thể là công ty
quản lý xuất khẩu, ủy thác xuất khẩu, nhà môi giới xuất khẩu, hãng buôn xuất
khẩu... Hình thức này được áp dụng khi công ty chưa có đủ thông tin cần thiết về
thị trường nước ngoài, như nhu cầu và cung cầu cụ thể, tập quán và thị hiếu của
người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh; hoặc công ty lần đầu tiếp cận, thâm nhập thị
trường; hoặc quy mô nhỏ; các nguông lực công ty có hạn, chưa thể dàn trải các
hoạt động ở nước ngoài; cạnh tranh gay gắt, thị trường quá phức tạp, rủi ro cao;
rào cản thương mại từ phía Nhà nước.
Xuất khẩu gián tiếp đem đến cho sản phẩm của công ty cơ hội thâm nhập thị
trường nước ngoài mà không phải tự mình đối mặt với những rủi ro rắc rối như
xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên vì phát sinh những khoản phí trung gian nên lợi
nhuận của doanh nghiệp cũng giảm đi. Mặt khác không biết được nhu cầu của thị
SVTH: Trần Thị Nhung 44
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
trường nước ngoài biến động như thế nào cũng như tâm lý và thị hiếu khách hàng
để cải tiến sản phẩm cho phù hợp.
Các DN XK thủy sản Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, lẻ nên hình thức
xuất khẩu chủ yếu là xuất khẩu qua trung gian (nhà nhập khẩu) ở các nước. Quá
trình này khiến giá đội lên cao, sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam bị ảnh
hưởng nhiều. Một số thông tin cho biết: “Độ chênh giữa giá xuất khẩu và giá bán
tại siêu thị, cửa hàng bán lẻ cho người tiêu dùng ở nước nhập khẩu có thể đến 10
lần”.
Hạn chế của các nhà xuất khẩu Việt Nam là việc “nội địa hóa” sản phẩm chưa
tốt đối với các thị trường, phải nhờ cậy các siêu thị, các nhà phân phối ở các nước.
Thống kê cho thấy có đến 70% sản lượng xuất khẩu chủ lực ở dạng sơ chế (đông
lạnh). “Cứ 2,8 kg nguyên liệu cho ra 1 kg sản phẩm, 1 kg cá fillet xuất khẩu thu
được 2,8 USD thì chi phí nguyên liệu đã 2,52 USD, còn lại 28 cent chênh lệch bao
gồm tất cả chi phí sản xuất và lợi nhuận”.
Ngành thủy sản Việt Nam chắc chắn cần một cuộc cách mạng lớn trong việc
xuất khẩu các sản phẩm được chế biến tinh, nếu muốn tăng giá trị lợi nhuận xuất
khẩu. Con số cho thấy cơ cấu sản phẩm hàng thủy sản xuất khẩu công nghệ cao
của Việt Nam mới chiếm 8,2%; trong khi sản phẩm công nghệ cao của Indonesia
18%; Philippines 33%; Thái Lan 49%, Malaysia 67%. Đây sẽ là bài toán cho
ngành thủy sản Việt Nam thời gian tới.
Các DNXK thủy sản Việt Nam cần từng bước phát triển hình thức xuất khẩu
trực tiếp cho các hệ thống phân phối, trung tâm thương mại lớn, siêu thị, thay thế
việc xuất khẩu qua trung gian (nhà nhập khẩu) nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
Trước mắt, tại các thị trường lớn (Mỹ, EU, Nhật Bản), thông qua các đại diện
thương mại của Việt Nam ký kết hợp đồng với các tổ chức cung ứng thực phẩm
cho các trung tâm phân phối, siêu thị của các thị trường này, từng bước xây dựng
mạng lưới phân phối thủy sản Việt Nam. Xây dựng và thực hiện các chương trình
SVTH: Trần Thị Nhung 45
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
xúc tiến thương mại phù hợp với các chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu,
theo hướng tăng cường sự tham gia của các hiệp hội và doanh nghiệp.
2.4 NHẬN XÉT
2.4.1 Thành tựu
Trong gần 20 năm qua xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã có những bước tiến
vượt bậc. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản từ mức thấp 550 triệu năm 1995 đã có
những bước tăng trưởng mạnh mẽ qua từng năm với mức tăng trưởng bình quân
15,6%/năm. Quá trình tăng trưởng này đã đưa Việt Nam trở thành một trong 5
nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, giữ vai trò chủ đạo cung cấp nguồn
thủy sản toàn cầu. Trong khối ASEAN, Việt nam đã ngang ngửa với Indonesia,
chỉ đứng sau Thái Lan về xuất khẩu thuỷ sản. Đây được coi là thành tích xuất sắc
của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và đã được quốc tế và bạn bè đánh giá cao.
Trong nhiều năm qua, ngành nuôi trồng và chế biến thủy sản xuất khẩu của Việt
Nam phát triển rất năng động và không ngừng phát triển và đã trở thành một
ngành kinh tế mũi nhọn, ngành sản xuất hàng hóa lớn, đi đầu trong hội nhập kinh
tế quốc tế. Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thủy sản ở khắp
mọi miền đất nước cả về nuôi biển, nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt. Với giá trị gia
tăng cao, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam chiếm 6-7% giá trị kim
ngạch xuất khẩu toàn quốc (đứng thứ 5 sau điện tử, may mặc, dầu thô và da-giày).
Bắt đầu từ năm 2000, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có sự tăng trưởng đột
phá nhờ phát triển mạnh ngành nuôi trồng, đặc biệt là nuôi cá tra và tôm nước lợ
(tôm sú và tôm chân trắng). Sau 13 năm, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng kỷ lục
gấp hơn 5 lần từ mức gần 1,5 tỷ USD năm 2000 lên 7,84 tỷ USD năm 2014.
Về diện tích nuôi trồng thủy sản, cho đến nay diện tích nuôi trồng thủy sản của
cả nước đã tăng lên đáng kể vảo khoảng 1,4 triệu ha. Nơi có diện tích lớn nhất là
SVTH: Trần Thị Nhung 46
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Đồng Bằng sông Cửu Long với tổng diện tích khoảng 70,19% cả nước. Đứng thứ
2 là khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng và thứ 3 là miền Đông Nam Bộ.
Trong khai thác thủy sản, các mô hình liên kết sản xuất trên biển được hình
thành trên nguyên tắc cùng nghề, cùng ngư trường, hài hòa lợi ích, đã thu hút được
sự tham gia của các ngư dân, giúp các tàu cá giảm chi phí hoạt động, tăng năng
suất khai thác, hỗ trợ, bảo vệ khi có khó khăn và tham gia bảo vệ an ninh chủ
quyền biển đảo Tổ quốc.
Sau các vụ kiện chống bán phá giá cá tra và tôm ở Mỹ, hoạt động xúc tiến
thương mại, mở rộng thị trường thủy sản Việt Nam đã đi vào thời kỳ mới với
những chuyển biến sâu sắc cả về phương pháp lẫn cường lực, với hơn 150 thị
trường nhập khẩu hiện nay của thủy sản Việt Nam chính là kết quả đền đáp cho
những nỗ lực đó.
Việc mở ra những thị trường mới mang nhiều ý nghĩa. Một mặt, tạo đầu ra mới
cho sản phẩm, góp phần tăng nhanh giá trị xuất khẩu, tiêu thụ nhiều hơn nguyên
liệu, thúc đẩy khai thác và nuôi trồng thủy sản phát triển, tăng thu nhập cho ngư
dân. Thị trường mới đồng nghĩa với nhu cầu tiêu thụ mới, giúp đa dạng hóa mặt
hàng, sử dụng tối ưu nguyên liệu chế biến. Điều này có thể thấy rõ khi xuất hiện
các thị trường Nga, Ai Cập... với những yêu sản phẩm khác với châu Âu hay Mỹ.
Đầu ra mới tạo không gian thông thoáng hơn cho DN lựa chọn phương án kinh
doanh, giảm áp lực cạnh tranh nội bộ. Nhiều doanh nghiệp đã xuất khẩu sang các
thị trường các chủng loại mặt hàng với mức giá khác nhau nên có khả năng linh
hoạt điều chỉnh chiến lược kinh doanh khi có biến động về nguyên liệu, khả năng
đáp ứng của doanh nghiệp, sức mua của khách hàng, tỷ giá hối đoái...
Một số doanh nghiệp đầu ngành đã tạo được nguồn cung ổn định, quy trình sản
xuất khép kín, tạo được uy tín với đối tác nước ngoài. Cụ thể như doanh nghiệp
Minh Phú (MPC) luôn đứng đầu trong danh sách các doanh nghiệp xuất khẩu thủy
sản của cả nước và là doanh nghiệp xuất khẩu tôm lớn nhất Việt Nam. Quy trình
SVTH: Trần Thị Nhung 47
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
sản xuất của MPC đang dần được khép kín từ khâu sản xuất giống nuôi ban đầu
đến xuất khẩu các sản phẩm đầu ra. Là doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam được
cấp chứng nhận GLOBAL GAP giúp các sản phẩm của MPC tiếp cận tối đa thị
trường EU.
Thành tựu của ngành thủy sản còn được thể hiện bằng kết quả xuất khẩu tăng
nhanh về cả giá trị và sản lượng. 3 thị trường chính là EU, Mỹ và Nhật Bản chiếm
trên 60% tỷ trọng. Thủy sản Việt Nam đã được xuất khẩu sang 165 thị trường, với
612 nhà máy chế biến quy mô công nghiệp đạt quy chuẩn ATTP, trong đó 461 nhà
máy đạt điều kiện xuất khẩu sang Liên minh châu Âu (EU) (chiếm hơn 75%). Khu
vực ĐBSCL đã hình thành một số công ty quy mô lớn như Tập đoàn TS Minh
Phú, Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn, công ty Cổ phần Hùng Vương…
Tích cực tập trung vốn, ngân sách ưu đãi để đóng mới sửa chữa tàu đánh cá và
xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và chế biến đồng thời tăng cường các
trang thiết bị viễn thông dùng cho nghề cá. Hiện nay, toàn ngành đã có 71500 tầu
thuyền các loại. Tính đa dạng của các sản phẩm chế biến ngày càng rõ nét trong
sản xuất, chế biến và xuất khẩu. Hàng năm, tạo thêm hàng trăm việc làm mới với
đủ các trình độ tham gia các hoạt động đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và các dịch
vụ phục vụ sản xuất, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản.
Thực hiện chương trình xây dựng Nông thôn mới, nâng cao thu nhập, cải thiện
điều kiện sống của cư dân nông thôn, năm 2015, ngành thủy sản đã lồng ghép hoạt
động thuộc Chương trình GAP xây dựng 2 mô hình nuôi trồng thủy sản áp dụng
VietGAP gắn liền với Chương trình Nông thôn mới tại Đồng Tháp và Cần Thơ.
Hiện nay, Tổng cục Thủy sản đã phối hợp với siêu thị tại Cần Thơ để thúc đẩy
việc thu mua sản phẩm từ 2 mô hình này.
SVTH: Trần Thị Nhung 48
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
2.4.2 Hạn chế
a. Những hạn chế
Mặc dù đạt được những kết quả khả quan nhưng ngành thuỷ sản vẫn còn có
những hạn chế nhất định. Nếu không có các tác động thay đổi, sẽ ảnh hưởng đến
tốc độ tăng trưởng bền vững của ngành xuất khẩu thủy sản trong tương lai.
Các doanh nghiệp mang tính mũi nhọn, có khả năng vươn ra chiếm lĩnh thị
trường khu vực và thế giới chưa nhiều; chưa chú trọng đúng mức việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Cơ cấu hàng xuất khẩu nông sản còn nghèo
nàn, chủ yếu vẫn là tôm đông lạnh, chưa khai thác tốt các nguồn nguyên liệu sẵn
có như: Cá, mực, nhuyễn thể, cua, ghẹ... để đa dạng các mặt hàng chế biến xuất
khẩu, phòng ngừa biến động về giá, thị trường và nuôi tôm gặp rủi ro.
Nguồn nguyên liệu chế biến không ổn định: Là nước xuất khẩu thủy sản lớn thứ
4 thế giới nhưng các doanh nghiệp chế biến thủy sản trong nước lại thường xuyên
đối mặt với tình trạng thiếu nguyên liệu sản xuất, đặc biệt là thủy sản khai thác và
tôm nguyên liệu, trong khi nguồn cung cầu nguyên liệu cá tra luôn không ổn định.
Theo điều tra mới đây của VASEP, gần 90% số doanh nghiệp làm hàng hải sản trả
lời phiếu điều tra cho biết, họ đang có nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu hải sản cho
chế biến xuất khẩu, và số doanh nghiệp chế biến tôm có nhu cầu nhập khẩu tôm
chân trắng và tôm sú là tương đương nhau. Hầu hết doanh nghiệp đều có ý kiến
cho rằng mức thuế nhập khẩu nguyên liệu thủy sản hiện tại là cao và đề xuất giảm
xuống 0% nhằm giảm bớt những khó khăn, tạo nguồn nguyên liệu dồi dào để
doanh nghiệp chủ động tăng cường đẩy mạnh chế biến xuất khẩu, phấn đấu hoàn
thành mục tiêu Chính phủ giao là xuất khẩu thủy sản đạt 11 tỷ vào năm 2020.
Nhiều rào cản (về vi sinh, thuốc bảo vệ thực vật, các hóa chất và kháng sinh
cấm...) được dựng lên ở các nước nhập khẩu để bảo vệ hàng hóa trong nước của
họ; cùng với các rủi ro về tranh chấp thương mại (bán phá giá); do chưa chủ động
SVTH: Trần Thị Nhung 49
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
được nguồn nguyên liệu đầu vào, nên các doanh nghiệp thường gặp rủi ro liên
quan tới đảm bảo chất lượng nguồn nguyên liệu; việc mở cửa thị trường trong
nước chưa được tiến hành song song với việc thiết lập hàng rào kỹ thuật để bảo vệ
hàng hóa sản xuất trong nước có hiệu quả.
Sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ yếu được đầu tư theo chiều rộng thay vì chiều
sâu. Hiện nay ngành chế biến thủy sản Việt Nam đang chạy đua với việc sản xuất
với khối lượng ngày càng nhiều hơn để gia tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy
sản, điều này chứng tỏ các doanh nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam đang tập
chung phát triển theo chiều rộng (cả về số lượng nhà máy chế biến lẫn công suất),
chưa chú trọng đến công tác quy phát triển theo chiều sâu (đầu tư có trọng điểm
các nhà máy chế biến thủy sản với công nghệ cao chế biến các mặt hàng giá trị gia
tăng) để tăng hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên thủy sản trong nước lên theo
hướng tăng giá trị sản xuất trên cùng một đơn vị nguyên liệu chế biến (tức là sản
phẩm sản xuất ít hơn nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu mang lại nhiều hơn).
Mặc dù là nước xuất khẩu thủy sản nhiều năm nhưng các mặt hàng thủy sản
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn còn khá đơn điệu, chủ yếu là cá, tôm, nhuyễn
thể, các loại thủy sản đông lạnh và thủy sản khô.
Mặt khác giá xuất khẩu thủy sản của Việt Nam luôn cao hơn so với Thái Lan
hay Ấn Độ nguyên nhân là do giá thành sản xuất thủy sản Việt Nam cao hơn so
với các quốc gia này. Giá thành sản xuất một con tôm giống của Việt Nam hiện
nay cao gấp gần 2 lần so với Ấn Độ. Chi phí cho thức ăn trong chăn nuôi tôm của
Việt Nam cũng cao hơn bình quân 40%. Trong khi đó, do nhiều yếu tố môi trường
và dịch bệnh, tỷ lệ tôm nuôi thành công của Việt Nam hiện vẫn thấp, chỉ khoảng
33% - 40%, trong khi Indonesia hay Ấn Độ tỷ lệ nuôi thành công lên tới 70%.
Những yếu tố này khiến giá thành tôm nguyên liệu của Việt Nam luôn cao hơn đối
thủ từ 1- 3 USD/kg...
SVTH: Trần Thị Nhung 50
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Việc triển khai thực hiện Chương trình hệ thống quản lý chất lượng GMP,
SSOP, HACCP cho các cơ sở thu mua, chế biến thủy sản còn bất cập. Do công tác
kiểm tra ngăn chặn tạp chất chưa thường xuyên, nên các doanh nghiệp chưa thực
hiện nghiêm túc; việc bơm chích tạp chất vào tôm nguyên liệu vẫn còn xảy ra ở
một vài nơi với thủ đoạn ngày càng tinh vi, nên rất khó phát hiện.
Không chỉ con giống, việc chậm xây dựng mô hình chuỗi chăn nuôi - chế biến
cũng đang là lực cản đối với ngành thủy sản nói chung và mặt hàng tôm (mặt hàng
thủy sản xuất khẩu chủ lực) nói riêng. Thủy sản Việt Nam phải thay đổi mô hình
nuôi trồng và chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm mới hy vọng đánh bại các
đối thủ khác. Việc thực hiện các mô hình liên kết ngang, dọc trong chuỗi sản xuất,
chế biến và tiêu thụ thủy sản còn nhiều bất cập: Trong liên kết dọc vấn đề bảo
hiểm trong sản xuất còn bỏ ngỏ, chưa kiểm soát được các yếu tố đầu vào, đầu ra;
chưa quan tâm đến xây dựng thương hiệu sản phẩm; chưa chú trọng đến việc bảo
vệ môi trường, mối quan hệ giữa người sản xuất và doanh nghiệp còn lỏng lẻo...
Trong liên kết ngang thì ý thức cộng đồng còn hạn chế, chưa phù hợp với xu thế
phát triển của nghề nuôi trồng, đánh bắt hải sản; các hình thức tổ chức sản xuất
trong nuôi trồng, khai thác hải sản chậm đổi mới; hoạt động kém hiệu quả.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu và chưa đồng bộ, chất lượng thấp,
năng lực phòng chống, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng còn nhiều
bất cập.
Quy mô doanh nghiệp nhỏ, sản xuất manh mún và không có nguồn cung ổn
định ảnh hưởng đến uy tín của thủy sản Việt Nam trên các thị trường. Việc một số
nhà máy mới ra đời không có khách hàng ổn định ban đầu, hoạt động dưới công
suất dẫn đến việc phải nhận gia công cho các công ty thuần túy thương mại, thậm
chí không được tham gia kiểm soát chất lượng sản phẩm, để cho các công ty
thương mại thao túng, chế biến thủy sản kém chất lượng, chào giá thấp để dễ bán,
dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh uy tín của thủy sản Việt Nam.
SVTH: Trần Thị Nhung 51
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Cạnh tranh với Indonesia, Thái Lan Ấn Độ, Trung Quốc..., những quốc gia này
hầu hết có trình độ kỹ thuật và quản lý tốt hơn Việt Nam, lại cùng có chung các thị
trường tiêu thụ thủy sản lớn, sản phẩm của ho thường có ưu thế cạnh tranh hơn
chúng ta cả về giá trị lẫn sản lượng xuất khẩu.
b. Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan
Trong năm 2015, ngành thủy sản nước nhà phát triển trong bối cảnh nền kinh tế
thế giới tăng trưởng nhẹ, giá dầu thế giới giảm, nhu cầu tiêu dùng nói chung và với
sản phẩm thủy sản nói riêng đã tăng trở lại nhưng còn ở mức thấp. Các nước sản
xuất tôm đã khôi phục lại sản xuất sau giai đoạn bị dịch bệnh, tạo sức cạnh tranh
quyết liệt với sản phẩm tôm Việt Nam; mức thuế chống bán phá giá đối với cá tra
tại thị trường Hoa Kỳ chưa có dấu hiệu thay đổi theo hướng tích cực hơn, yêu cầu
về giới hạn hàm lượng các chất cấm ở một số thị trường ngày càng khắt khe, do
vậy, giá trị xuất khẩu thủy sản sụt giảm.
Bên cạnh đó, những điều kiện bất thuận về thời tiết do nhiệt độ cao, nước biển
xâm nhập sâu làm độ mặn tăng, mưa dông trên diện rộng một số tháng trong năm
làm cho tôm nuôi giảm sức đề kháng, dễ nhiễm các mầm bệnh; giá thủy sản
nguyên liệu giảm trong khi vật nuôi cho nuôi trồng tăng, ngư dân tiếp tục bị cản
trở trên các ngư trường khai thác truyền thống là những yếu tố ảnh hưởng không
thuận lợi cho sản xuất thủy sản.
Cùng với đó, sự cộng hưởng của chính sách hạn chế nhập khẩu, đẩy mạnh xuất
khẩu được duy trì đã gây khó cho ngành thủy sản. Tuy nhiên điều mà doanh
nghiệp thủy sản Việt Nam đặc biệt cần chú ý chính là, sự phát triển trở lại của nền
kinh tế Hoa Kỳ trở thành lực hút mạnh đối với các nhà xuất khẩu khác. Ví dụ như:
Thái Lan, Ấn Độ… đang đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản vào thị trường này.
SVTH: Trần Thị Nhung 52
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Ngành thủy sản phải đối mặt với những biến động của thị trường thế giới liên
quan đến tỉ giá ngoại tệ, giá nhập khẩu, rào cản thuế quan cũng như những áp lực
về quy định trong nước và khó khăn về tài chính của doanh nghiệp. Trong năm
2014, xuất khẩu thủy sản tăng mạnh trong 8 tháng đầu năm (từ 14%-57%) nhưng
bắt đầu tăng chậm lại từ tháng 9, thậm chí giảm gần 5% trong tháng 12, do áp lực
từ thuế chống bán phá giá tôm giai đoạn POR8 và thuế chống bán phá giá cá tra
POR10 đã ảnh hưởng đến xuất khẩu 2 mặt hàng này từ cuối năm 2013 đến nay.
Sự tăng giá mạnh của đồng USD so với một loạt ngoại tệ khác khiến khách
hàng hạn chế nhập khẩu hoặc tìm cách giảm giá mua. Xuất khẩu thủy sản sang EU
giảm 10%, sang Nhật Bản giảm 14,5%. Đồng USD tăng cao so với tiền tệ của các
nước khác, ảnh hưởng gián tiếp tới lợi nhuận cho xuất khẩu.
Tại thị trường EU, xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như tôm, cá tra, cá ngừ, mực
và bạch tuộc đều giảm mạnh ở mức hai con số. Nguyên nhân do kinh tế suy giảm,
nhu cầu tiêu thụ giảm, đồng euro mất giá so với USD khiến giá giảm, nhập khẩu
hạn chế.
Áp lực giảm giá mạnh của đồng euro, yen và nhân dân tệ so với đồng USD đã
tác động tới lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, khi mức linh
hoạt tỷ giá USD/VND điều chỉnh thấp trong khi tỷ giá của các nước xuất khẩu
cạnh tranh được linh hoạt hơn. Trung Quốc phá giá đồng NDT khiến doanh nghiệp
gặp khó khi xuất khẩu sang thị trường này: bị ép giá, bị chịu thiệt kép về tỉ giá do
phải đổi sang USD để kê khai thuế hải quan cửa khẩu, sau đó tiếp tục bán để lấy
VNĐ.
Nhiều doanh nghiệp trong ngành còn gặp khó về nguồn vốn, thị trường tiêu thụ,
rào cản thị trường, áp lực cạnh tranh khiến tình hình tài chính đi xuống. Do sức ép
trả nợ ngân hàng, nhiều doanh nghiệp trong năm 2015 buộc phải bán hàng ồ ạt để
quay vòng vốn, đẩy doanh số xuất khẩu tăng cao. Hiện áp lực bán ra để quay vòng
vốn còn căng thẳng cũng là nguyên nhân khiến xuất khẩu thủy sản giảm.
SVTH: Trần Thị Nhung 53
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Nguyên nhân chủ quan
Ngành nuôi trồng thủy sản quá phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ nước ngoài (từ
khâu con giống, thức ăn, thuốc thú y); vì thế, rất khó để kiểm soát giá cả và chất
lượng sản phẩm. Hiện giá thành sản xuất các mặt hàng thủy sản Việt Nam cao hơn
các nước đang xuất khẩu cạnh tranh, chi phí cho thức ăn chăn nuôi cũng cao hơn
các nước khoảng 40%. Chẳng hạn, sản xuất tôm nuôi tại Ấn Độ và Indonesia, giá
thành dao động 2,5USD/kg (tôm 100 con) trong khi Việt Nam từ 3,5-4USD/kg.
Ngành thủy sản cần tập trung và có chương trình, giải pháp đồng bộ để giảm giá
thành sản xuất nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của thủy sản Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
Tình trạng phát triển nuôi trồng thuỷ sản hiện nay thiếu định hướng thị trường,
các chiến lược phát triển thị trường, thiếu quy hoạch và người sản xuất vội vã với
lợi ích trước mắt đã gây lên bệnh dịch tôm làm thiệt hại lớn về kinh tế, môi sinh,
môi trường bị ảnh hưởng nặng nề kéo dài.
Các nhà máy chế biến tăng ồ ạt, có trường hợp không theo quy hoạch phát triển,
tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh trong việc tranh mua, tranh bán nguyên liệu
thủy sản để chế biến. Việc chưa có cơ chế để tạo ra sự liên kết, phối hợp giữa nhà
sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nuôi
các sản phẩm thủy sản chủ lực trong thời gian qua.
Thiếu lao động có trình độ, các chuyên gia cao cấp và các nhà khoa học. Cơ cấu
và chất lượng lao động thuỷ sản tuy có sự đổi mới nhưng cũng chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển của ngành. Sự thiếu đoàn kết trong sản xuất và kinh doanh giữa
các doanh nghiệp, làm ăn theo kiểu chụp giật từ đó ảnh hưởng đến uy tín của
ngành thuỷ sản Việt Nam.
Hoạt động xúc tiến thương mại để giới thiệu, quảng bá sản phẩm thủy sản của
Việt Nam và mở rộng thị trường chưa được chú trọng, hiệu quả thấp. Các doanh
nghiệp trong nước chưa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và sức cạnh tranh kém.
SVTH: Trần Thị Nhung 54
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Việt Nam là nước có nhiều lô hàng xuất khẩu thủy sản bị cảnh báo nhiễm kháng
sinh, chứa mầm bệnh và buộc bị trả về ở tất cả các thị trường. Tính từ năm 2014
đến nay đã có gần 32.000 tấn hàng thủy sản bị trả về.
Mặc dù phải cật lực cạnh tranh với các đối thủ truyền thống và các đối thủ mới
nổi song thủy sản Việt Nam lại bộc lộ hàng loạt điểm yếu như con giống phải nhập
khẩu từ những thị trường đối thủ cạnh tranh, sản xuất và chế biến chưa theo chuỗi,
thiếu chiến lược phát triển dài hạn… Như vậy vấn đề đặt ra cấp bách đặt ra, thủy
sản Việt cần xem lại năng lực cạnh tranh, nếu không sẽ bị đối thủ khác đẩy ra khỏi
Top các nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu. Bởi vì, chỉ mới bắt đầu hội nhập sâu
đã thấy rõ sự đào thải. Khả năng đào thải còn mạnh hơn trong những năm tới nếu
thủy sản Việt Nam không có sự chuyển đổi lớn quy trình và chất lượng.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
3.1 CƠ HỘI, THÁCH THỨC CỦA XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
3.1.1. Cơ hội
Các sản phẩm thủy sản luôn là mục tiêu lớn và quan trọng của mỗi quốc gia
trong chương trình cải thiện chế độ dinh dưỡng cho người dân. Nếu sản xuất chưa
đáp ứng được nhu cầu thì phải nhập khẩu các sản phẩm thủy sản. Mặt khác, sản
lượng khai thác thủy sản luôn phải có giới hạn nhằm bảo tồn nguồn lợi, cho nên
việc gia tăng nuôi thủy sản là con đường tất yếu. Đó là thời cơ cho các nước có
nguồn lợi khai thác, nuôi trồng thủy sản dồi dào như Việt Nam.
Sau 9 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ở nhiều
khía cạnh, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã đạt được mục tiêu là gia tăng kim
ngạch xuất khẩu, nâng cao chất lượng và mở rộng thị trường. Tuy nhiên, ở cột
mốc năm 2015 này, khi Việt Nam sẽ hoàn tất các thủ tục để tham gia Hiệp định
Thương mại tự do với thị trường EU, Hàn Quốc, với Liên minh hải quan Nga -
SVTH: Trần Thị Nhung 55
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Belarus – Kazakhstan (FTA) và Hiệp định Thương mại hợp tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) thì doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam sẽ phải đứng trước
những thách thức, rào cản lớn hơn nữa bên cạnh sự hưởng lợi thế lợi nhất về việc
ưu đãi thuế.
Trong các FTA mà Việt Nam đã và sắp ký kết, thủy sản là một trong những
ngành được hưởng lợi lớn nhất từ các cam kết cắt giảm thuế quan. Nhiều FTA
quan trọng được ký như FTA Việt Nam – Hàn Quốc: giúp nâng khả năng cạnh
tranh của Việt Nam với Trung Quốc, Thái Lan, Ecuador (đang phải chịu thuế
20%). FTA giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á – Âu được ký kết vào
29/5/2015: 90% số dòng thuế và 90% kim ngạch xuất nhập khẩu của các bên sẽ
được mở cửa và tự do hóa. FTA Việt Nam – EU, TPP sắp hoàn tất sẽ mở ra nhiều
cơ hội cho xuất khẩu thủy sản và tôm.
Hiện nay 11 nước thành viên tham gia TPP là: Mỹ, Nhật Bản, Canada,
Australia, Singapore, Mexico, Malaysia, Newzealand, Chile, Peru và Brunei đều là
những đối tác chiến lược của thủy sản Việt Nam. 8 tháng đầu năm 2015, tổng giá
trị xuất khẩu thủy sản sang 11 thị trường này đạt gần 1,92 tỷ USD, chiếm 45,4%
tổng giá trị xuất khẩu.
Bảng 3.5: Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang 11 nước thành viên TPP
STT Thị trường 2013 2014 8T/2015
1 Mỹ 1.518.398.5681.744.451.90
9808.192.035
2 Nhật Bản 1.152.444.7911.211.058.56
0660.387.925
3 Canada 185.352.852 268.056.365 124.108.185
4 Australia 206.401.481 239.158.357 114.943.731
5 Singapore 101.816.153 108.903.892 69.330.371
SVTH: Trần Thị Nhung 56
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
6 Mexico 108.268.112 125.171.430 62.247.484
7 Malaysia 63.140.311 70.965.653 50.789.584
8 NewZealand 19.051.247 22.487.223 13.297.906
9 Chile 5.628.955 12.806.448 7.744.522
10 Peru 7.454.965 7.522.953 3.394.957
11 Brunei 1.354.104 1.382.295 955.012
Tổng 11 3.369.311.539 3.811.965.085
1.915.391.714
Tỉ trọng (%) 50,10 48,65 45,41
Nguồn: vasep.com.vn
Các nước thành viên tham gia TPP sẽ được giảm 90% các loại thuế xuất nhập
khẩu hàng hóa và cắt giảm bằng 0% năm 2015. Đây là cơ hội tốt cho các doanh
nghiệp xuất khẩu hải sản, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ sang Nhật
Bản - thị trường đối tác lớn thứ 2 (sau Mỹ) trong 11 nước tham gia TPP bởi trong
nhiều năm trước đây thuế suất của Việt Nam đang cao hơn nhiều so với các nước
trong khu vực ASEAN. Mới đây, theo đúng lộ trình của TPP, Nhật Bản đã bãi bỏ
thuế nhập khẩu đối với sản phẩm cá ngừ và cá hồi và mở cửa cho các doanh
nghiệp xuất khẩu thuộc các nước thành viên tham gia tích cực hơn vào thị trường
này.
Các thị trường xuất khẩu lớn và trọng điểm là Mỹ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc
chiếm tới 64,4% tổng giá trị xuất khẩu năm 2014. Vì thế, sự tham gia của 4 đối tác
kinh tế quan trọng trên vào các hiệp định thương mại sẽ đem lại những lợi ích, cơ
hội lớn cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam.
SVTH: Trần Thị Nhung 57
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Bắt đầu từ năm 2016, với sự hình thành của Cộng đồng ASEAN, một số FTA
thế hệ mới được ký kết hoặc bắt đầu có hiệu lực sẽ có những tác động tích cực đến
ngành thủy sản. Cụ thể, hội nhập sẽ giúp ngành thủy sản gia tăng đầu tư, mở rộng
thị phần, thúc đẩy sản xuất trong nước, tăng hàm lượng chế biến và có nhiều cơ
hội phát triển hơn. Đặc biệt, khi các FTA có hiệu lực thì thủy sản Việt Nam có lợi
thế so sánh hơn hẳn các nước xuất khẩu cạnh tranh như Indonesia, Thái Lan,
Philippines, Ecuador, Argentina và Ấn Độ, do các nước này không có FTA với các
thị trường nhập khẩu thủy sản lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.
Việc ký hiệp định FTA và TPP sẽ là cơ hội cho doanh nghiệp thủy sản Việt
Nam mở rộng thị trường. Doanh nghiệp có thể nhập khẩu nguyên liệu từ các nước
để gia công, chế biến xuất khẩu sang EU và các nước tham gia TPP. Trung Quốc
hiện đang đứng đầu về gia công thủy sản cho các nước, nhưng hiện nay đang có
xu hướng chuyển dịch từ Trung Quốc sang các nước khác có điều kiện sản xuất và
lao động thuận lợi hơn. Vì vậy, đây có thể là cơ hội để các nhà kinh doanh và nhập
khẩu thủy sản từ Mỹ, Nhật Bản, EU lựa chọn Việt Nam để đầu tư.
Ngoài ra, đây sẽ là cơ hội tốt cho thủy sản Việt Nam tăng sức cạnh tranh nhờ sử
dụng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất giá rẻ hơn như vận tải, thức ăn chăn nuôi, nguyên
liệu vật tư, trang thiết bị; là cơ hội tăng cường hợp tác liên doanh để nâng cao chất
lượng sản phẩm, cải tiến chuỗi sản xuất hàng giá trị gia tăng…
Lệnh cấm nhập khẩu của Nga đối với thủy sản EU, Mỹ, Na Uy, Australia và
Nhật Bản là cơ hội tốt cho thủy sản Việt Nam thâm nhập trở lại thị trường này,
nhất là mặt hàng cá tra. Từ đầu tháng 8/2014 đến tháng 9/2014, đã có 26 doanh
nghiệp Việt Nam được phép xuất khẩu vào thị trường Nga, sau khi bị tạm ngừng
xuất khẩu từ 31/1/2014. Nga là thị trường đứng thứ 7 trên thế giới về khối lượng
thủy sản nhập khẩu với trên 1 triệu tấn năm 2013 trị giá trên 3 tỷ USD. 9 tháng
đầu năm 2015, Nga nhập khẩu 440 nghìn tấn thủy sản, trị giá 1,4 tỷ USD, so với
SVTH: Trần Thị Nhung 58
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
cùng kỳ năm ngoái tương đương về khối lượng nhưng tăng 2,5% về giá trị, do
nhập khẩu 2 mặt hàng có giá cao là tôm và mực bạch tuộc tăng mạnh.
Nhà nước đang hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản ở nhiều lĩnh vực:
Sự linh hoạt trong việc điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước sẽ tạo thuận lợi
cho hoạt động xuất khẩu thủy sản trong thời gian tới; đầu tư và nâng cấp các cơ sở
chế biến để trang thiết bị đạt yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm của thế giới;
hướng dẫn doanh nghiệp các quy định quốc tế liên quan đến thương mại hội nhập.
Thứ ba, cung cấp thông tin và định hướng phát triển sản xuất kinh doanh cho các
doanh nghiệp; chỉ đạo sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế và
yêu cầu phát triển bền vững; hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vướng mắc
trong thương mại quốc tế.
Các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản rất năng động, thể hiện qua
các mặt sau: các doanh nghiệp còn tích cực chủ động tham gia các đoàn xúc tiến
thương mại, triển lãm, hội chợ để tiếp cận và mở rộng thị trường; chăm lo đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực; chú ý đổi mới về phương pháp quản lý; luôn cải tiến
công nghệ; thực hiện tốt việc quản lý tài chính; do sớm hội nhập nên các doanh
nghiệp khá năng động trong việc đáp ứng các yêu cầu của thị trường, cả về công
nghệ chế biến cũng như yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và ATVSTP.
Các nhà máy chế biến thủy sản xuát khẩu của Việt Nam hiện có trang thiết bị,
công nghệ hiện đại tầm cỡ thế giới với năng lực chế biến rất cao. Trong số 612 nhà
máy chế biến quy mô công nghiệp đạt quy chuẩn an toàn thực phẩm của ngành, có
tới 461 nhà máy đạt điều kiện xuất khẩu sang EU (chiếm 75%).
Tính chuyên nghiệp của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam ngày càng được nâng cao. Giám đốc cũng như nhân viên kỹ thuật nắm
bắt nhanh nhạy công nghệ mới, nắm bắt thông tin thị trường, nghiên cứu phát triển
sản phẩm mới và đảm bảo ATVSTP.
SVTH: Trần Thị Nhung 59
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản luôn chủ động tham gia các hoạt động
xúc tiến thương mại do Bộ NN&PTNT và VASEP tổ chức, vì vậy đã chủ động
điều tiết và phát triển thị trường, đưa giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản ngày
càng tăng. Họ cũng tích cực nắm bắt các luật lệ quốc tế cũng như các quy định của
các nước thông qua các lớp đào tạo, tập huấn hoặc hội thảo.
Hoạt động khai thác thuận lợi nhờ thời tiết và nhờ việc triển khai Nghị định
67/2014/NĐ-CP (Nghị định 67) về một số chính sách phát triển thủy sản và hỗ trợ
ngư dân sản xuất tại các vùng biển xa. Do vậy, xuất khẩu mực, bạch tuộc, cua ghẹ
và các loại cá biển khác đều tăng trong năm 2015.
3.1.2. Thách thức
Con đường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong quá trình hội nhập còn
nhiều thách thức:
Rào cản kỹ thuật: Với việc tự do hóa thương mại, thủy sản Việt Nam sẽ có lợi
về thuế quan, nhưng sẽ là đối tượng để các thị trường áp dụng các rào cản phi thuế
quan nhằm bảo hộ ngành sản xuất nội địa hoặc hạn chế nhập khẩu. Những rào cản
như thuế CBPG, thuế chống trợ cấp, các quy định kiểm tra hóa chất, kháng sinh…
đang và sẽ được tăng cường áp dụng.
Sự bảo hộ thương mại: Sự cạnh tranh về giá cũng chính là mối nguy đối với
sản phẩm cá thịt trắng hay sản phẩm thủy sản tại một số nước, trong đó có Mỹ. Do
đó, nước nhập khẩu sẽ sử dụng một số rào cản mang tính chất bảo hộ như quy định
về yêu cầu dán nhãn sản phẩm “an toàn cá heo” của tổ chức Ell đối với sản phẩm
cá ngừ tiếp tục là rào cản đối với doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ và thuế chống
bán phá giá đối với sản phẩm tôm, cá tra Việt Nam.
Để được hưởng ưu đãi thương mại, hàng hóa giao dịch trong khu vực FTA
nhìn chung phải đáp ứng các quy tắc về xuất xứ. Quy tắc xuất xứ có ý nghĩa quan
trọng, thường phức tạp, và trong hầu hết các trường hợp là một phần không thể
SVTH: Trần Thị Nhung 60
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
thiếu trong mọi cuộc đàm phán FTA. Về cơ bản, chỉ những sản phẩm đáp ứng các
quy tắc xuất xứ của một FTA mới có thể hưởng các mức thuế suất ưu đãi của FTA
đó. Tùy vào nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu thuộc quốc gia nào mà FTA nào
được áp dụng. Các doanh nghiệp sản phẩm sang những nước khác nhau phải hiểu
rõ và tuân thủ những quy tắc này. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp Việt Nam không
nắm bắt được các ưu đãi của FTA vì tính phức tạp và số lượng lớn quy tắc khiến
các doanh nghiệp ngần ngại. Do vậy, thực tế đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam
mới tận dụng được 30% ưu đãi từ FTA và đang bỏ phí 70% cơ hội. Bên cạnh đó,
với lợi thế về thuế quan, sẽ xảy ra tình trạng các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư
vào Việt Nam để sản xuất và xuất khẩu nhằm tận dụng nguồn lực và ưu đãi thuế
quan tại các thị trường, do đó sẽ ảnh hưởng đến việc quản lý và truy xuất nguồn
gốc sản phẩm.
Ngày càng nhiều chứng nhận tự nguyện (GlobalGAP, ASC, BAP, BRC, IFS,
FOS...), bên cạnh tính thúc đẩy, thì các Chứng nhận cũng khiến không chỉ tăng
cao chi phí sản xuất, giảm niềm tin của người tiêu dùng bởi những thông điệp mâu
thuẫn nhau mà thậm chí còn tạo khoảng cách và hiểu sai giữa những người sản
xuất và các thị trường tiêu thụ chính.
Chịu cạnh tranh mạnh mẽ: Tham gia vào các hiệp định thương mại đồng
nghĩa với việc mở cửa và hội nhập hơn nữa vào tất cả các thị trường. Mặc dù,
chính sách của Nhà nước đã có nhiều thay đổi nhằm tạo cơ hội và điều kiện tối đa
cho doanh nghiệp nhưng việc tái cơ cấu, cải cách thủ tục hành chính cần thời gian.
Ngoài việc phải cạnh tranh khó khăn với các nước có sản xuất và xuất khẩu cùng
sản phẩm, ngành hàng, chi phí sản xuất trong nước ngày càng tăng cao (lương,
điện, nước, bao bì, hóa chất, kiểm nghiệm....), trong khi giá xuất khẩu có xu hướng
không tăng ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của thủy sản Việt Nam. Đây cũng chính
là những rào cản không nhỏ đang giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất
khẩu thủy sản tại các thị trường nhập khẩu lớn. Hiện nay, với những ưu đãi về thuế
nhập khẩu nguyên liệu, một số nước đối thủ cạnh canh như: Trung Quốc hay Thái
SVTH: Trần Thị Nhung 61
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Lan đang hay các nguồn cung lớn khác như: Bangladesh, Indonesia, Ấn Độ…
đang khiến doanh nghiệp thủy sản Việt Nam khó cạnh tranh để giành được thị
phần.
Thách thức về vấn đề lao động: Hiện ngành thủy sản còn thiếu đội ngũ các
nhà quản lý cũng như lao động có trình độ. Bên cạnh đó, thủy sản là ngành cần lực
lượng lao động lớn. Tuy nhiên, vì thực trạng lao động ngành thủy sản không ổn
định, thì các quy định chặt chẽ về lao động từ FTA sẽ tăng thêm thách thức cho
doanh nghiệp chế biến thủy sản. Vấn đề an toàn lao động, tiền lương, giờ làm việc,
vệ sinh lao động, cấm lao động cưỡng bức, cấm lao động trẻ em, cùng cơ chế giám
sát và chế tài đặt ra trong hiệp định này sẽ tạo ra không ít thách thức đối với doanh
nghiệp khi tham gia vào các chuỗi cung ứng doanh nghiệp, vì nếu vi phạm, có thể
bị điều tra, bị kiện và bị phạt. Việc đưa các tiêu chuẩn lao động vào các FTA thế
hệ mới bao hàm các thách thức và cơ hội. Do đó, doanh nghiệp cần phải chủ động
hơn nữa để nâng cao năng lực, để hội nhập tốt hơn.
Nguồn nguyên liệu hiện nay không ổn định do đầu vào sản xuất nguyên liệu
như thức ăn, con giống, hóa chất, kháng sinh đều phụ thuộc phần lớn vào các
nguồn cung nước ngoài, các cơ quan quản lý chưa hoặc không kiểm soát được,
dẫn đến dịch bệnh, chất lượng kém. Chi phí sản xuất cao hơn so với các nước khác
khiến cho giá thành sản phẩm và giá xuất khẩu cao, làm giảm khả năng cạnh tranh.
Chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa vùng sản xuất với chế biến. Thách thức
lớn trên thương trường quốc tế là các doanh nghiệp phải phát triển cả liên kết dọc
từ chăn nuôi, sản xuất đến người tiêu dùng và liên kết ngang giữa các doanh
nghiệp với nhau. Và điều quan trọng là làm sao để tăng được tỷ trọng của chuỗi
giá trị quốc gia trong tổng giá trị quốc tế. Tỉ trọng này hiện nay đang rất thấp.
Dịch bệnh EMS thực sự vẫn là nỗi lo lớn cho người nuôi tôm và doanh
nghiệp: Dù người nuôi tôm và doanh nghiệp đã biết cách phòng tránh dịch bệnh
SVTH: Trần Thị Nhung 62
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
EMS nhưng vẫn chưa thể kiểm soát được. Nhiều hộ nuôi và doanh nghiệp thua lỗ,
phá sản vì dịch bệnh này.
Ngày càng nhiều việc sử dụng truyền thông cạnh tranh không lành mạnh
bằng việc đưa thông tin sai về các sản phẩm thủy sản của Việt Nam ở nước ngoài
(EU, Australia, Ai cập,...)
Kinh tế toàn cầu vẫn chưa thoát khỏi suy thoái, giá thủy sản thế giới đang
giảm trong khi nguồn cung dự báo tăng, nhu cầu từ các thị trường chính giảm:
đồng yên giảm mạnh so với USD khiến xuất khẩu tôm sang Nhật bị ảnh hưởng,
euro giảm và khủng hoảng nợ công Hy Lạp ảnh hưởng đến sự hồi phục kinh tế
EU, khiến sức mua của EU giảm.
Các vụ kiện quốc tế (chống bán phá giá, kiện chống trợ cấp...) nhắm vào nước
xuất khẩu:
- Thuế chống bán phá giá tôm trong đợt xem xét hành chính POR8 ở mức cao
nhất từ trước đến nay, ảnh hưởng mạnh đến doanh nghiệp xuất khẩu tôm và giá
tôm nguyên liệu trong nước. Theo POR 8 thì 30/32 doanh nghiệp tôm Việt Nam
sang Mỹ chịu thuế CBPG là 6,37%. Hai doanh nghiệp còn lại là Tập đoàn Thủy
sản Minh Phú chịu mức thuế 4,98% và Công ty CP Thủy sản Sóc Trăng
(STAPIMEX) 9,75%. Cách tính thuế bất hợp lý của Mỹ dẫn đến mức thuế cao
như vậy sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh mặt hàng tôm của Việt Nam tại
Mỹ, ảnh hưởng về việc cân bằng tài chính của các doanh nghiệp.
- Thuế chống bán phá giá cá tra POR10: Trong đợt xem xét hành chính này, mức
thuế đối với các doanh nghiệp cá tra của Việt Nam sang Mỹ nói chung vẫn
thiếu hợp lý khi Bộ Thương mại Mỹ (DOC) tiếp tục sử dụng Indonesia làm
quốc gia thay thế trong quá trình tính toán biên độ phá giá, vì Indonesia có tổng
thu nhập cao gấp đôi, GDP cao gấp 4 lần Việt Nam.
Chi phí cho hoạt động xuất khẩu gia tăng, tạo gánh nặng và áp lực lớn cho
doanh nghiệp: Theo phản ánh của các doanh nghiệp, có hàng chục phụ phí các loại
SVTH: Trần Thị Nhung 63
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
đang đổ lên vai nhà xuất khẩu như: Phí dịch vụ container (THC), phí mất cân đối
container (CIC), phí vệ sinh container, phí sửa chữa vỏ container, phí đặt cược
container (đối với hàng đông lạnh), phí tắc nghẽn cảng (PCS)... Ngoài ra, chủ hàng
còn phải đóng thêm các loại phí khác như phí thủ tục, phí hóa đơn, phí lưu kho
bãi, phí cầu đường, phí giao hàng lẻ theo container.... một số loại phí là do các
cảng thu nhưng thực tế các chủ tàu thu trực tiếp từ doanh nghiệp rồi nộp cho cảng
nhưng với mức thu cao hơn nhiều so với mức nộp để hưởng chênh lệch.
Theo tính toán của các doanh nghiệp, so với 2013, năm 2015 các loại phí này
tăng 20-30% khiến lợi nhuận của doanh nghiệp giảm mạnh. Chưa kể, trong những
năm gần đây, giá cước vận tải biển tại Việt Nam vẫn cao hơn so với các nước
trong khu vực như Thái Lan, Philippines... từ 10–15%/cont 20”, đang làm mất đi
khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam xuất khẩu.
Hoạt động xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng do tắc nghẽn tại các cảng bốc dỡ. Cơ
sở hạ tầng cảng biển, hạ tầng giao thông chưa đáp ứng được tình hình thực tế và
chỉ xảy ra tại thời điểm này do ảnh hưởng của việc siết chặt trọng tải và việc sự cố
khi triển khai áp dụng khai hải quan điện tử VNACCS (lỗi do hệ thống, doanh
nghiệp không mở được tờ khai phải chờ Tổng cục Hải quan giải quyết, khâu kiểm
hóa chậm...), khiến cho tiến độ xuất- nhập hàng của doanh nghiệp bị chậm đi.
Hàng về cảng chậm, bến bãi không đủ mà phí lưu kho tăng cao.
Khó khăn liên quan đến thuế - phí và hải quan: Từ 2013 tới nay, trong quá
trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thủy sản gặp phải nhiều vướng mắc,
khó khăn trong các vấn đề liên quan đến Thuế - Phí và Hải quan: khó khăn, vướng
mắc trong thực hiện Thông tư 128/2013/TT-BTC (thủ tục nộp, tiếp nhận và xử lý
hồ sơ xét hoàn thuế, không thu thuế; sửa chữa tờ khai, khai bổ sung hồ sơ hải
quan; về Chứng từ thanh toán qua ngân hàng trong Hồ sơ xét hoàn thuế, không thu
thuế; thuế GTGT & nhập khập đối với hàng xuất khẩu trả về; quy định “60 ngày”
cho việc nộp hồ sơ thanh khoản cho tờ khai xuất khẩu cuối cùng....); trong thực
SVTH: Trần Thị Nhung 64
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
hiện Thông tư 219/2013/TT-BTC về hướng dẫn thuế GTGT (về đối tượng không
chịu thuế GTGT, nộp thuế đối với hàng xuất khẩu bị trả về; việc định nghĩa và xác
định hàng thủy sản sơ chế/tinh chế; các trường hợp không phải kê khai, tính nộp
thuế GTGT; về thủ tục hoàn thuế GTGT phải kèm báo cáo tồn kho....)
Thuế nhập khẩu áp dụng cho 1 số nhóm thủy sản có giá trị thương mại cao
(tôm, cá ngừ, mực-bạch tuộc...), đang được các doanh nghiệp nhập khẩu chủ yếu
cho sản xuất- xuất khẩu.
3.2 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM
Theo mục tiêu chiến lược, đến năm 2020 ngành thủy sản sẽ phát triển thành một
ngành sản xuất hàng hóa, có thương hiệu uy tín, có khả năng cạnh tranh cao trong
hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở phát huy lợi thế của một ngành sản xuất - khai
thác tài nguyên tái tạo, lợi thế của nghề cá nhiệt đới, chuyển nghề cá nhân dân
thành nghề cá hiện đại, tạo sự phát triển đồng bộ, đóng góp ngày càng lớn vào sự
phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Đồng thời, phát triển thủy sản theo hướng chất
lượng và bền vững, trên cơ sở giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nâng cao giá trị
gia tăng với đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường,
bảo vệ và phát triển nguồn lợi và an sinh xã hội; Chủ động thích ứng với tác động
của biến đổi khí hậu; Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển thủy sản với góp phần bảo
vệ chủ quyền quốc gia và an ninh quốc phòng trên các vùng biển.
Tập trung sản xuất thâm canh các đối tượng nuôi chủ lực (tôm sú, tôm thẻ chân
trắng, cá tra, rô phi, nhuyễn thể); tiếp tục đa dạng hóa đối tượng và phương pháp
nuôi để khai thác cơ hội thị trường; khuyến khích nuôi công nghiệp, áp dụng công
nghệ cao, quy trình thực hành nuôi tốt (GAP) phù hợp quy chuẩn quốc tế; ưu tiên
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng vùng nuôi thâm canh ở Đồng bằng sông Cửu Long,
các khu vực ven biển Trung Bộ. Giảm dần, tiến tới ổn định sản lượng khai thác
thủy sản gần bờ; quản lý khai thác theo kích cỡ; khuyến khích phát triển mô hình
đồng quản lý nguồn lợi ven bờ nhằm nâng cao khả năng tự phục hồi và tính bền
SVTH: Trần Thị Nhung 65
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
vững của nguồn lợi thủy sản; chuyển khai thác bằng tàu công suất nhỏ hoạt động
gần bờ sang khai thác bằng tàu công suất lớn hoạt động xa bờ, viễn dương; chuyển
đối tượng, mùa vụ, ngư trường khai thác theo hướng khai thác các đối tượng có
giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ tốt; phát triển lực lượng kiểm ngư trên biển.
Đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại trong chế biến nâng cao giá trị sản phẩm; cơ
cấu lại sản phẩm chế biến đông lạnh theo hướng giảm tỷ trọng các sản phẩm sơ
chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm ăn liền, giá trị gia tăng cao; mở rộng áp dụng hệ
thống quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm (theo ISO, HACCP, GMP, SSOP);
nghiên cứu và đầu tư ứng dụng công nghệ bảo quản trong và sau thu hoạch để
giảm tỷ lệ thất thoát và xuất khẩu thủy sản sống có giá trị cao. Có cơ chế hỗ trợ
người nghèo tham gia chuỗi giá trị và chương trình bảo hiểm nông nghiệp; khuyến
khích áp dụng các tiêu chuẩn kiểm soát xã hội vào nuôi trồng và chế biến thủy
sản; phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt vùng cao góp phần xóa đói giảm
nghèo và tạo sinh kế bền vững. Thiết lập khu bảo tồn biển và bảo tồn nội địa; cải
thiện hệ thống dữ liệu thủy sản, phân tích nguồn, trữ lượng thủy sản và giám sát
mức độ đánh bắt; tăng cường các biện pháp quản lý hành chính đối với các hoạt
động khai thác và nuôi trồng gây tác động xấu đến môi trường; tăng cường bảo vệ
nguồn lợi và môi trường.
Tại các Trung tâm nghề cá lớn, bố trí các cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu khai
thác xa bờ; Đầu tư xây dựng, nâng cấp các cơ sở sản xuất nước đá, hệ thống kho
lạnh, chợ đầu mối thủy sản, các cơ sở sản xuất ngư cụ, thiết bị nghề cá phục vụ
hoạt động nghề cá xa bờ; Xây dựng và tổ chức thực hiện mô hình hợp tác công -
tư (PPP) trong đầu tư, tạo sức hút, tạo động lực cho ngành thủy sản phát triển theo
hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiệu quả và bền vững.
3.3 GIẢI PHÁP
Sức cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam hiện còn yếu: xuất khẩu chủ yếu
dưới dạng thô, giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp. Vì vậy cần có những giải
SVTH: Trần Thị Nhung 66
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
pháp cụ thể để nâng cao sức cạnh tranh chất lượng hàng thủy sản và thúc đẩy
ngành thủy sản ngày càng phát triển.
3.3.1 Từ phía nhà nước
Hoàn thiện hệ thống pháp lý: Rà soát và thay đổi những quy định lỗi thời, bất
cập không còn phù hợp để làm thông thoáng hơn các điều kiện xuất khẩu thủy sản.
Tiếp tục hoàn thiện Luật thương mại 2005 theo hướng ngày càng mở rộng và
hoàn thiện quy chế chính sách lý luận xuất nhập khẩu rõ ràng, phù hợp với định
hướng chiến lược phát triển xuất khẩu của Đảng và Nhà nước đã đề ra cũng như
trong các cam kết.
Hoàn thiện Luật cạnh tranh và chống độc quyền nhằm tạo sự cạnh tranh lành
mạnh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả khu vực quốc doanh và
ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước hay nước ngoài nhằm
tăng cạnh tranh cho các doanh nghiệp nước ta trong việc xuất khẩu.
Về cơ chế chính sách: Tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách của Nhà nước
đã ban hành về đầu tư, tín dụng khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư
phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến…
Đề xuất cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển xuất khẩu thủy sản theo
thẩm quyền như:
- Hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá, xúc tiến thương mại, Quỹ phát triển thị trường
xuất khẩu thủy sản trên cơ sở tự nguyện tham gia của các tổ chức, cá nhân và
doanh nghiệp chế biến xuất khẩu trên địa bàn tỉnh, với sự hướng dẫn, giám sát
của cơ quan quản lý Nhà nước.
- Tăng cường độ tin cậy và phủ sóng của các phương tiện truyền thông, thông
tin. Đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ để cải thiện chất lượng dự báo thời tiết.
Cũng như có chính sách nhập khẩu công nghệ và khuyến khích các doanh
nghiệp trong nước áp dụng công nghệ mới. Điều này giúp cải thiện được tình
SVTH: Trần Thị Nhung 67
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
hình dịch bệnh và thiên tai làm giảm nguồn nguyên liệu đầu vào đã nêu trong
khó khăn thứ nhất.
- Nâng cấp cơ sở hạ tầng chung cho ngành thủy sản, đổi mới trang thiết bị, chủ
động nhập khẩu công nghệ mới về nước, đặc biệt là các công nghệ chế biến
thức ăn nhập khẩu, để giảm bớt áp lực về chi phí đầu vào làm tăng giá bán, mất
tính cạnh tranh của ngành.
- Phát triển các trung tâm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, giải quyết vấn đề
thiếu nhân lực tay nghề cao hiện nay. Đặc biệt là nguồn cán bộ, kĩ sư có tay
nghề, kĩ thuật chuyên môn cao chưa kể đến đội ngũ luật gia chuyên về pháp lý
giúp thủy sản tránh khỏi nhiều vụ kiện tụng bị bán phá giá hay chưa đạt tiêu
chuẩn như mong muốn.
Để ngành thủy sản hoạt động có hiệu quả thì Nhà nước đóng vai trò rất quan
trọng. Nhà nước không chỉ điều tiết cho ngành thủy sản phát triển đúng hướng, mà
còn tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Doanh nghiệp rất cần sự trợ giúp của
Nhà nước trong việc tăng cường khả năng hiểu biết thị trường, khả năng tiếp thị,
mở văn phòng đại diện… Bên cạnh đó, Nhà nước cần có đủ các biện pháp hỗ trợ
về tài chính tín dụng để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thủy sản như miễn giảm
thuế xuất khẩu thủy sản và nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để chế biến thủy sản xuất
khẩu, tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất và
xuất khẩu thủy sản. Do thủy sản thuộc nhóm hàng mà nguồn cung cấp phụ thuộc
rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, có tính thời vụ, rủi ro lớn và giá cả biến động thất
thường. Vì vậy, cần có sự tài trợ xuất khẩu của nhà nước, bao gồm tài trợ trước khi
giao hàng, tài trợ trong khi giao hàng và tín dụng sau giao hàng. Tài trợ xuất khẩu
ngoài việc cung cấp vốn cho giao dịch xuất khẩu như trên còn có tác dụng hạn chế
những rủi ro phát sinh trong giao dịch xuất khẩu do đó khuyến khích được các
ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng xuất khẩu ở mức lãi suất hợp lý. Nhà nước
cần đưa ra và thực thi các chính sách quản lý, đầu tư thỏa đáng để đảm bảo khai
thác tốt nguồn lợi xa bờ cũng như cải tiến kỹ thuật nuôi trồng thủy sản để đảm bảo
SVTH: Trần Thị Nhung 68
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
nguồn nguyên liệu chất lượng cao cung cấp cho hoạt động chế biến thủy sản xuất
khẩu.
3.3.2 Từ phía các Hiệp hội
Tập trung đầu tư phát triển chế biến, xuất khẩu theo chiều sâu: Khuyến khích
các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, cải tạo nâng cấp và mở rộng quy mô
sản xuất, xây dựng thêm các kho chứa hàng để đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia và đáp ứng yêu cầu của thị trường nhập khẩu về đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường. Phát triển các sản phẩm mới, đặc biệt là
các sản phẩm có giá trị gia tăng, giảm tỷ trọng hàng sơ chế, hàng có giá trị gia tăng
thấp, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu của từng thị trường nhập khẩu.
Tăng cường hợp tác nghiên cứu với các nước có trình độ công nghệ cao, nhất là
công nghệ di chuyển, công nghệ chọn giống, công nghệ sinh học, công nghệ xử lý
môi trường và phòng ngừa dịch bệnh... Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và năng lực
nghiên cứu cho cục quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và thú y thủy sản Nafiqad
để cơ quan này có thể hoàn thành nhiệm vụ quản lý chất lượng an toàn vệ sinh
thủy sản, kiểm soát chất lượng... Hỗ trợ các doanh nghiệp toàn ngành, triển khai
hệ thống HACCP thông qua các biện pháp hỗ trợ tài chính, thông tin, kỹ thuật...
khuyến khích các hộ nuôi, doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn SQP 1000 và 2000...
Làm cầu nối giữa doanh nghiệp hội viên với các cơ quan quản lý Nhà nước. Xử
lý kịp thời các kiến nghị của hội viên, phổ biến và hướng dẫn hội viên thực hiện
tốt các chủ trương, chính sách của Nhà nước.
Làm tốt công tác kết nối các DN để chia sẻ thông tin, khai thác tiềm năng thị
trường. Đồng thời, Hiệp hội cũng phải làm đầu mối hỗ trợ kết nối giữa các nhóm
DN, tư vấn cho DN trong quá trình thuê gia công sản xuất; xây dựng cổng thông
tin điện tử và sàn giao dịch trực tuyến hỗ trợ DN trong việc cung cấp thông tin và
hình thành kênh bán hàng mới…
SVTH: Trần Thị Nhung 69
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Xây dựng và phát triển các mối quan hệ quốc tế thông qua việc tham gia các hội
nghị, hội thảo và diễn đàn quốc tế. Xây dựng cơ sở dữ liệu: xây dựng và thường
xuyên nâng cấp cổng thông tin điện tử của Hiệp hội nhằm hỗ trợ hội viên và các
đối tác tra cứu thông tin nhanh nhất, cập nhật nhất và dễ dàng nhất, cổng thông tin
điện tử của Hiệp hội là diễn đàn của doanh nghiệp.
Phối hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan và đối tác, tổ chức các hội nghị,
hội thảo trong nước bàn các biện pháp hữu hiệu để kiểm soát chất lượng, tạo
nguồn nguyên liệu, tăng cường sản xuất và xuất khẩu. Phối hợp với đối tác, tổ
chức các Hội thảo, diễn đàn tại các hội chợ nước ngoài nhằm giới thiệu, quảng bá
hình ảnh sản phẩm thủy sản Việt Nam.
3.3.3 Từ phía doanh nghiệp
Về thị trường xuất khẩu thủy sản: Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
xúc tiến thương mại và các hoạt động đối ngoại; giữ vững thị trường truyền thống
và phát triển mạnh xuất khẩu thủy sản sang các khu vực thị trường có mức tăng
trưởng tiêu dùng ngày càng cao và ưa thích thủy sản Việt Nam như: Thụy Điển,
Bungaria, Romania, Hungaria, Bỉ, Anh, thị trường Bắc Mỹ, Nam Mỹ và các thị
trường tiềm năng khác như: Hồng Kông (Trung Quốc), ASEAN, Châu Phi. Thị
trường các nước Hồi giáo cũng đang được xem là một kênh tiêu thụ tốt, giúp các
doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa thị trường tiêu thụ. Dân số Hồi giáo chiếm
gần 25% dân số toàn thế giới. Trung bình hàng năm thế giới chi khoảng 442 tỉ
USD để mua thực phẩm, riêng các nước Hồi giáo chi 150 tỉ USD. Vì vậy, xuất
khẩu thủy sản sang các thị trường Hồi giáo thông qua các nước có đông người Hồi
giáo (Malaysia, Inđônêxia…) cũng đang được chú ý. Bên cạnh đó, Bắc Phi và
Trung Đông cũng là những thị trường đầy tiềm năng. Tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp tham gia thực hiện các phương án hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế, giữ
vững mối quan hệ với các đối tác đã được thiết lập, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
thủy sản.
SVTH: Trần Thị Nhung 70
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Về chất lượng sản phẩm: Người tiêu dùng ở các thị trường xuất khẩu chính
của Việt Nam như Mỹ, EU.. thường đánh giá cao chất lượng và sẵn sàng mua thủy
sản với giá cao. Chính vì vậy, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm là chìa khóa
thành công ở các thị trường này. Giải pháp cần thiết là cần thực hiện kiểm tra gay
gắt nguyên liệu thu mua, đa dạng hóa các loại sản phẩm chế biến nhằm đáp ứng
các loại nhu cầu khác nhau của các tầng lớp dân cư, đồng thời gia tăng giá trị hàng
xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần tìm hiểu thị trường thông qua các công tác
nghiên cứu, điều tra một mặt trang bị thêm công nghệ tiên tiến, hiện đại. Đồng
thời cần có chiến lược kêu gọi các nhà đầu tư từ các thị trường hợp tác liên doanh
vào khâu chế biến những sản phẩm phù hợp với thị hiếu khẩu vị của nguời tiêu
dùng.
Về chế biến và an toàn vệ sinh thực phẩm: tăng cường năng lực chế biến theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiếp tục đổi mới công nghệ chế biến theo
chiều sâu để gia tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm: Áp dụng hệ thống tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật bắt buộc đối với cơ sở sản xuất kinh doanh, chế biến thủy sản;
khuyến khích việc áp dụng các quy chuẩn quốc tế có liên quan. Thường xuyên tổ
chức triển khai kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các quy định đảm bảo an toàn
thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, chế biến xuất khẩu; xử lý
nghiêm và thực hiện việc công bố các hành vi vi phạm các quy định về chất lượng,
an toàn thực phẩm, cạnh tranh không lành mạnh, phá giá thị trường,…, nhất là đối
với các tổ chức, cá nhân kinh doanh chế biến, xuất khẩu thủy sản, ảnh hưởng đến
uy tín sản phẩm thủy sản của tỉnh và làm thiệt hại lợi ích chung của cộng đồng.
Phấn đấu đến năm 2020 trình độ công nghệ chế biến thủy sản Việt Nam sánh
ngang với các nước phát triển. Thực hiện 100% doanh nghiệp chế biến thủy sản
đáp ứng tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Về xúc tiến thương mại: Xây dựng hệ thống thông tin một các có hiệu quả từ
nhiều hình thức khác nhau như: thu thập thông tin tại địa bàn, từ internet, từ các
SVTH: Trần Thị Nhung 71
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
thương vụ, cử đại diện ra nước ngoài,... làm tốt các công tác dự báo về cung, cầu,
giá cả phục cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế. Đa dạng
hóa thị trường, tránh việc lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường, phòng ngừa rủi ro
có thể xảy ra. Từng bước phát triển hình thức xuất khẩu trực tiếp cho các hệ thống
phân phối, trung tâm thương mại lớn, siêu thị, thay thế việc xuất khẩu qua trung
gian (nhà nhập khẩu) nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu thủy sản. Tăng cường
quảng bá, thông tin chính xác, đầy đủ về sản phẩm thủy sản của tỉnh đến thị
trường xuất khẩu và người tiêu dùng; đồng thời cung cấp kịp thời các thông tin về
thị trường, chính sách, pháp luật của nước nhập khẩu cho các cơ quan quản lý và
doanh nghiệp. Xây dựng mô hình khép kín từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến và
xuất khẩu thủy sản giữa các doanh nghiệp với nông, ngư dân nuôi trồng, khai thác
thủy sản; đồng thời thực hiện tốt các quy định về ghi nhãn hàng hóa và bảo vệ bản
quyền; tăng cường phổ biến kiến thức về sở hữu trí tuệ, nhất là đối với các doanh
nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản. Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác quảng cáo,
tiếp thị hướng dẫn tiêu dùng. Các doanh nghiệp cũng cần tích cực tham gia các hội
chợ quốc tế nhằm quảng bá sản phẩm và ký kết được nhiều hợp đồng kinh doanh.
Xây dựng, quảng bá thương hiệu: Đây là một biện pháp cần thiết để các
doanh nghiệp phát triển xuất khẩu sản phẩm. Một doanh nghiệp muốn tạo dựng
thương hiệu phải đầu tư đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển sản phẩm,...
nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng với mức giá hợp lý, đồng thời doanh
nghiệp phải đầu tư cho hoạt động quảng bá sản phẩm, tiếp thị sản phảm đến người
tiêu dùng. Tạo dựng thương hiệu cho doanh nghiệp đã khó, nhưng bảo vệ, giữ gìn
và phát triển thương hiệu một các lâu dài còn khó khăn hơn nhiều. Để làm được
điều đó, doanh nghiệp cần đề cao chữ tín trong kinh doanh trên cơ sở không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển mạng lưới bán hàng.
Phát triển nguồn nguyên liệu ổn định và đảm bảo chất lượng: Tiếp tục phát
triển mạnh nuôi trồng thủy sản, nhất là các đối tượng chủ lực (tôm sú, tôm thẻ
chân trắng, cua biển, nhuyễn thể) trên địa bàn tỉnh; tăng cường công tác quản lý,
SVTH: Trần Thị Nhung 72
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
giám sát và quy hoạch vùng nuôi sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên và đặc
điểm phát triển thủy sản của từng khu vực, từng tiểu vùng sinh thái trên địa bàn
tỉnh; có chương trình giám sát vùng nuôi và môi trường nuôi chặt chẽ; tăng cường
công tác thông tin dự báo để ngăn chặn và khắc phục kịp thời những sự cố gây bất
lợi cho các vùng nuôi. Xây dựng và hình thành cho được đội tàu đánh bắt xa bờ có
công suất lớn, được đầu tư trang thiết bị hiện đại, để có thể khai thác dài ngày trên
biển và nâng cao hiệu quả khai thác, đánh bắt hải sản trên các vùng biển xa, góp
phần bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Tổng sản lượng thủy hải sản năm 2015
phấn đấu đạt 290.000 tấn (trong đó sản lượng tôm 118.500 tấn, cá và thủy sản
khác 171.500 tấn).
Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu
thủy sản trong nước với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung còn nhỏ bé về quy mô, vốn và kinh nghiệm kinh
doanh còn thiếu trong khi lại phải cạnh tranh gay gắt với các đối thủ lớn có nhiều
kinh nghiệm. Môi trường cạnh tranh khốc liệt, yêu cầu cao về chất lượng hàng
hóa... Tất cả những điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường hợp tác với
nhau tránh tình trạng mạnh ai nấy làm, tranh mua tranh bán. Liên kết là hướng để
phát triển bền vững ngành thủy sản. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, nếu chưa liên kết được 4 nhà (nhà nông, nhà khoa học, nhà nước, nhà doanh
nghiệp) thì tập trung cho mối liên kết “hai nhà” (nhà nông và nhà doanh nghiệp).
Thực tế, nhà nước và nhà khoa học luôn sẵn sàng hỗ trợ để ngành thủy sản phát
triển nhưng vấn đề cốt yếu là liên kết nhà nông và nhà doanh nghiệp. Doanh
nghiệp đóng vai trò nòng cốt, hỗ trợ kỹ thuật, vốn, giống, thức ăn, thu mua nguyên
liệu… Liên kết nhằm giải quyết đầu vào-đầu ra về nguyên liệu, đáp ứng đòi hỏi
quốc tế chính là vấn đề cấp bách hiện nay để ngành thủy sản tồn tại và phát triển
bền vững. Ngoài ra, các doanh nghiệp nên tiến hành liên doanh, liên kết với các
đối tác nước ngoài từ đó hình thành nên các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu
tư nước ngoài, tạo cho các doanh nghiệp này có thế mạnh về vốn đầu tư, công
SVTH: Trần Thị Nhung 73
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
nghệ cho phép các doanh nghiệp có thể đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu có chất
lượng cao, đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường cũng như góp phần nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản.
SVTH: Trần Thị Nhung 74
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
KẾT LUẬN
Qua phân tích có thể thấy được ngành thuỷ sản Việt Nam đã có nhiều phát triển
to lớn, là ngành có khả năng cạnh tranh, do có lợi thế về nguồn tài nguyên thiên
nhiên, nguồn nhân công rẻ. Tuy nhiên, các yếu tố như cơ sở hạ tầng, nguồn
nguyên liệu, trình độ năng lực sản xuất và quản lý kém đã làm giảm sức cạnh
tranh của các sản phẩm thuỷ sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
Thị trường thuỷ sản thế giới đang phát triển và mở rộng, cơ hội phát triển cho
ngành thuỷ sản Việt Nam là rất lớn nhưng bên cạnh đó thách thức cũng rất nhiều.
Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi Nhà nước, ngành và các doanh nghiệp
cần có sự kết hợp để nâng cao chất lượng sản phẩm, tận dụng tối đa lợi thế so sánh
của Việt Nam, mở rộng thị trường thế giới.
Để đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản, nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của
Việt Nam, tạo vị thế ngày càng vững chắc của hàng thủy sản trên thị trường thế
giới, Việt Nam cần chủ động mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tiếp
cận, cập nhật thông tin một cách đầy đủ và chính xác, đánh giá đúng khả năng sản
xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng hàng thủy sản
xuất khẩu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tận dụng tối đa các lợi thế vẫn được coi
là thế mạnh của Việt Nam như: điều kiện tự nhiên, chi phí lao động rẻ…., hạn chế
thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra thì chắc chắn Việt Nam sẽ hoàn thành chỉ tiêu
xuất khẩu thủy sản năm 2020.
SVTH: Trần Thị Nhung 75
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Đặng Đình Đào, GS.TS. Hoàng Đức Thân, Giáo trình Kinh tế
thương mại, NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, 2012.
2. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam: vasep.com.vn
http://vasep.com.vn/Tin-Tuc/1218_42925/Nam-2015-Nhung-thanh-tuu-noi-bat-
Thuy-san-vuot-kho-tang-truong.htm
http://vasep.com.vn/Tin-Tuc/778_42867/10-SU-KIEN-NOI-BAT-NGANH-
THUY-SAN-NAM-2015.htm
3. Tổng cục Thủy sản: http://tongcucthuysan.gov.vn/
http://www.fistenet.gov.vn/f-thuong-mai-thuy-san/a-xuat-nhap-khau/tong-ket-
xuat-khau-thuy-san-viet-nam-2015/
http://www.fistenet.gov.vn/f-thuong-mai-thuy-san/a-xuat-nhap-khau/mo-rong-thi-
truong-thuc-111ay-xuat-khau-thuy-san-cac-thang-cuoi-nam
4. Thủy sản Việt Nam: thuysanvietnam.com.vn
http://thuysanvietnam.com.vn/2016-xuat-khau-thuy-san-lieu-co-khoi-sac-article-
14321.tsvn
http://thuysanvietnam.com.vn/xuat-khau-ca-tra-sang-trung-quoc-tang-truong-
duong-article-14029.tsvn
5. Các trang thông tin kinh tế Việt Nam, báo chí:
http://cafef.vn/xuat-khau-thuy-san.html
http://vietstock.vn/2016/02/xuat-khau-thuy-san-du-bao-se-tang-toc-tu-hiep-dinh-
tpp-768-458066.htm
SVTH: Trần Thị Nhung 76