Upload
song-nguyet
View
21
Download
0
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Phan Thi Thu Hien - Hon Nhan Viet-dai - 7-2013 (1)
Citation preview
HÔN NHÂN VIỆT - ĐÀI Ở MIỀN TÂY NAM BỘ
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC
PHAN THỊ THU HIỀN1
DẪN NHẬP
Hôn nhân xuyên quốc gia là một hiện tượng bình thường trong thời đại
hội nhập toàn cầu. Tuy nhiên, điều này có thể đã trở nên bất bình thường đối với
hôn nhân Việt-Đài trong những thời kỳ khá dài khi số lượng các cuộc hôn nhân
đột ngột tăng mạnh đến mức tạo thành những “làn sóng” lớn, kéo theo các hệ
quả xã hội, tiêu cực hơn là tích cực, về nhiều mặt, cho cả hai phía. Mặc dù từ
năm 2005 đến nay “cơn sốt lấy chồng Đài Loan” dịu xuống (số lượng các cuộc
hôn nhân chỉ còn khoảng ¼ so với giai đoạn đỉnh cao), nhường chỗ cho “cơn sốt
lấy chồng Hàn Quốc” nhưng tính tổng cộng thì hôn nhân Việt-Đài vẫn dẫn đầu
các hôn nhân xuyên quốc gia cả ở Việt Nam lẫn Đài Loan và các hệ quả xã hội
thì sẽ còn lâu dài.
Nghiên cứu hôn nhân Việt-Đài, vì thế, vẫn tiếp tục là vấn đề thời sự cấp
thiết, giúp định hướng quản lý, phát triển nhiều lĩnh vực chính trị, xã hội, văn
hóa của mỗi bên, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai bên.
Báo cáo này của chúng tôi, trên cơ sở kế thừa những học giả đi trước, xin
góp thêm hướng tiếp cận văn hóa học, tập trung vào hôn nhân Việt-Đài ở miền
Tây Nam Bộ như một trường hợp điển hình.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Miền Tây Nam Bộ là vùng đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 12 tỉnh
(An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang,
Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long) và 1 thành phố (Cần
Thơ). Đến 89% trong số phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan là từ miền Tây
Nam Bộ.
Xem hôn nhân Việt - Đài ở miền Tây Nam Bộ như một tiểu văn hóa (sub-
culture), chúng tôi phân tích, lý giải các thành tố văn hóa của hiện tượng và quan
hệ giữa chúng.
Trường hợp nghiên cứu được đặt trong phối cảnh so sánh. So sánh nội
văn hóa (giữa Nam Bộ và Bắc Bộ, giữa miền Tây Nam Bộ và miền Đông Nam
Bộ) và so sánh xuyên văn hóa (giữa Việt Nam và Đài Loan).
2. Hôn nhân Việt-Đài ở miền Tây Nam Bộ nhìn từ văn hóa nhận thức
Nhận thức về hôn nhân xuyên quốc gia của người Việt và người Đài Loan
trong truyền thống được thể hiện qua tục ngữ, thành ngữ, ca dao, văn học nghệ
thuật, phong tục tập quán liên quan đến quan niệm về giới, hôn nhân và gia đình,
ý thức về sự phân biệt bản địa và ngoại lai (in-group và out-group). Nhận thức
1 PGS.TS, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh, Việt Nam
về hôn nhân xuyên quốc gia của người Việt và người Đài Loan hiện nay có thể
thấy qua kết quả điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu các đối tượng liên quan cũng
như phân tích dư luận xã hội và truyền thông.
2.1. Cái nhìn của người trong cuộc về hôn nhân xa xứ, hôn nhân ngoại
tộc
a, Việt Nam
Ở nông thôn Bắc Bộ, với đặc điểm tĩnh của nền văn hóa nông nghiệp lúa
nước, suốt truyền thống lâu dài, cư dân mong muốn gả cưới gần nhà (Có con mà
gả chồng xa / Một là mất giỗ, hai là mất con). Thêm nữa, định kiến với dân ngụ
cư, sự phân biệt đối với những cặp kết hôn khác làng (phải nộp cheo cao hơn)
khiến cho cư dân hướng tới hôn nhân với người cùng làng (Trâu ta ăn cỏ đồng
ta…). Đến tận gần đây ở nhiều nơi vẫn “cấm vận” gái làng.
Nam Bộ khác hẳn, làng xã không có đất công để ban cấp, ai có sức khai
phá thì biến đất hoang thành của riêng, không phân biệt dân chính cư và dân ngụ
cư. Tất cả đều gốc lưu dân, ly hương. Dù xem gả cưới gần vẫn là lựa chọn tốt
hơn nhưng người ta không quá ngại ngần di chuyển, sẵn sàng tùy cơ chấp nhận
khả năng thay đổi (Ra đi gặp vịt cũng lùa / Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng
tu – Em yêu anh nên đành xa xứ, xuôi ghe chèo về miệt thứ Cà Mau...).
Trong khi ở Bắc Bộ đại đa số là cư dân người Việt thì Nam Bộ lại là nơi
chung sống đa tộc người: Việt-Hoa-Chăm-Khmer. Hòa nhập văn hóa giữa các
dân tộc ở Nam Bộ đã có một quá trình lâu dài, gần như ngay từ đầu lịch sử khẩn
hoang. Hôn nhân xuyên chủng tộc chủ yếu là giữa người Việt và người Hoa, còn
hôn nhân Việt-Khmer, Việt-Chăm khá ít, hiếm, khá ngoại lệ. Nguyên nhân của
điều này không chỉ do Việt, Hoa cùng nền tảng tôn giáo (Nho giáo – Phật giáo
Đại thừa – Đạo giáo) khác biệt với Khmer (Phật giáo Tiểu thừa) và Chăm (Hồi
giáo / Bà La Môn giáo) mà còn do Việt, Hoa cùng truyền thống văn hóa gia đình
phụ hệ, khác biệt với Chăm (mẫu hệ), Khmer (có phần mang đặc điểm song hệ).
Riêng về người Hoa, họ đã đến Nam Bộ từ thế kỷ XVII, với nhiều đợt
sóng di cư số lượng lớn. Trong khi người Hoa ở Đông Nam Bộ phần lớn đến từ
Quảng Đông, thì người Hoa ở Tây Nam Bộ lại chủ yếu từ Triều Châu (Bạc Liêu
nước chảy lờ đờ / Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu), Phúc Kiến, Khách
gia (Hakka), nghĩa là, chung nguồn cội với đa số người Đài Loan. Điều này chắc
hẳn cũng tạo nên một trong những “lực hút” khiến phụ nữ Tây Nam Bộ, đặc biệt
là phụ nữ người Hoa / gốc Hoa ở khu vực này, kết hôn với người Đài Loan
(hơn 40% số phụ nữ Tây Nam Bộ lấy chồng Đài Loan là người Hoa / gốc Hoa).
So với Bắc Bộ, Nam Bộ cũng là nơi tiếp xúc trực tiếp sớm hơn và mật
thiết hơn suốt lịch sử lâu dài với Pháp và Mỹ. Hôn nhân có yếu tố nước ngoài
nơi đây từ lâu là một thực tế.
b, Đài Loan
Tương phản với tính tương đối đa văn hóa, đa chủng tộc của Nam Bộ Việt
Nam, Đài Loan lại có tính thuần nhất, thuần chủng cao.
Dù giữa thế kỷ XVII bị Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha nhòm ngó rồi trở
thành thuộc địa của Hà Lan, dù cuối thế kỷ XIX bị Nhật chiếm đóng 50 năm,
Đài Loan về cơ bản vẫn là một hòn đảo tương đối biệt lập. Dân cư tuyệt đại bộ
phận là người Hán, với số đông từ Khách gia, Phúc Kiến… Nhìn chung, văn hóa
Đài Loan ít độ thoáng mở, ít sự chấp nhận, sự dung hợp với tha nhân, tha tính
hơn Nam Bộ Việt Nam. Hôn nhân xuyên quốc gia ở Đài Loan chỉ mới có một
thời gian lịch sử ngắn ngủi (từ khoảng giữa thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại
đây), do đó, chưa quen thuộc, không tránh khỏi sự nhìn nhận tiêu cực gắn với
thành kiến phân biệt chủng tộc.
2.2. Cái nhìn của người trong cuộc về động cơ kinh tế gắn với chữ Hiếu
a, Việt Nam
Phân tích kết quả phỏng vấn sâu của nhóm Trần Thị Kim Xuyến đối với
51 người phụ nữ Tây Nam Bộ về sự hài lòng trong hôn nhân của họ với người
Đài Loan2, có thể thấy 3 trong 4 tiêu chí, ở những mức độ khác nhau, đều liên
quan đến kinh tế (A, B, D), chiếm tới 71%. Đa số xem trọng động cơ kinh tế
gắn với chữ Hiếu.
Sự thẳng thắn, bộc trực, tính cách thực tế, thực dụng của người Việt miền
Tây Nam Bộ phần nào thể hiện ở đây. Khác với ca dao, tục ngữ Bắc Bộ thường
diễn đạt tâm lý coi nhẹ nghề buôn, khinh thường những người xem trọng đồng
tiền, Tây Nam Bộ chấp nhận, khuyến khích buôn bán, có cái nhìn tích cực chứ
không tiêu cực đối với đồng tiền (Theo anh, thời cũng muốn theo / Tôi sợ anh
nghèo, anh bán tôi đi – Khôn như tiên, không tiền cũng dại…).
Chữ Hiếu là truyền thống đạo lý của dân tộc Việt nói chung. Song chữ
Hiếu ở Nam Bộ cũng có sắc thái riêng. Với ảnh hưởng của Nho giáo thoáng mở
hơn, tư tưởng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” vào đến Nam Bộ không còn
cứng nhắc (Mười mà chi một mà chi / Sinh ra có ngãi có nghì là hơn). Trách
nhiệm nuôi dưỡng mẹ cha, phụ đỡ gia đình không chỉ của trưởng nam mà người
con gái cũng đau đáu lo toan. Nhiều người con gái tạm gác tình duyên riêng
mình để báo đền cha mẹ, nuôi dưỡng bầy em (Ân cha nghĩa mẹ chưa đền / Bậu
mong ôm gối cuốn mền theo ai?).
Miền Tây Nam Bộ xưa vốn là nơi được thiên nhiên ưu đãi, làm ăn dễ
dàng không mấy nhọc công, đời sống thuận lợi, sung túc hơn khá nhiều vùng
khác ở Việt Nam. Nhưng gần đây, khi nguồn lợi thiên nhiên ngày càng không đủ
đáp ứng dân số đông đảo và tăng nhanh, khi sản xuất nông nghiệp lối tiểu nông
tạo ra thu nhập thấp, công nghiệp ít phát triển, miền Tây Nam Bộ lại trở thành
nơi nghèo hơn cả, so với Đông Nam Bộ và Bắc Bộ. Trong hoàn cảnh đó, một bộ
phận những cô gái ở đây đã đặt hy vọng vào hôn nhân với những người đàn ông
ở các xứ sở giàu có, mong được đổi đời mà lại có cơ hội giúp đỡ gia đình.
b, Đài Loan
2 [(A) Có tiền giúp đỡ gia đình ở Việt Nam: 50%; (B) Chồng người Đài Loan giàu có, rộng rãi: 7,1%; (C) Chồng
người Đài Loan thương và tôn trọng vợ: 21,4%; (D) Cuộc sống tốt và thoải mái hơn: 14,3%; (E) Không trả lời:
7,1%]
Đến khai hoang Đài Loan thời kỳ đầu (sớm nhất từ thế kỷ III, giai đoạn
tăng cao là khoảng 600 năm từ nhà Đường đến nhà Tống), về cơ bản, là những
lực lượng di dân lẻ tẻ, tự phát. Năm 1335, nhà Nguyên mới chính thức đặt
“Tuân Kiêm Tư” đê quan ly dân chinh cua Banh Hô va đao Đai Loan . Nho giáo
ảnh hưởng tới Đài Loan, như vậy, về cơ bản là Tống Nho với tôn ti xã hội nặng
nề trọng nam khinh nữ.
Đài Loan có phong tục người cha cô dâu hắt chén nước theo xe hoa trong
ngày cưới với ý nghĩa chén nước đã hắt đi rồi không còn lấy lại được nữa, con
gái đã thành con người ta, từ đấy cô con dâu chỉ toàn tâm toàn ý phục vụ gia
đình nhà chồng. Chữ Hiếu của người con dâu Việt Nam với cha mẹ đẻ ở quê
nhà, do vậy, không những không được nhiều cảm thông ở Đài Loan mà còn bị
xem là một gánh nặng vô lý, một sự lợi dụng nhà chồng. Những người con dâu
họ đã phải tốn tiền cưới về bị xem thường, đặc biệt khi đó lại là những nữ ngoại
nhân từ một nước nghèo.
2.3. Cái nhìn của dư luận xã hội và truyền thông
a, Việt Nam
Làng Bắc Bộ có tính cộng đồng và tính tự trị cao (Phép vua thua lệ làng).
Nhiều làng có hương ước chặt chẽ, ở nhiều làng sống tập trung những dòng họ
lớn nên lại thêm những tập tục của dòng họ. Áp lực xã hội rất lớn (Trong họ
ngoài làng – Ba bề bốn bên hàng xóm láng giềng – Sống vì danh vì tiếng, không
ai sống về cả miếng ăn...). Trường hợp chấp nhận rể ngoại quốc để hỗ trợ kinh
tế cho gia đình, cha mẹ cô dâu sẽ bị dư luận cũng như bị chính các cô dâu phê
phán, trách móc là “gả bán con” (Mẹ em tham khúc cá thu / Gả em về biển mịt
mù tăm tăm ). Chính các cô dâu cũng chịu áp lực dư luận, đúng như Neil
L.Jamieson, một người Mỹ từng nghiên cứu nhiều năm ở Việt Nam viết trong
cuốn sách Understanding Vietnam rất nổi tiếng của ông: “Khi một cô gái Việt
lấy một người nước ngoài, cô gái ấy cảm thấy xấu hổ cho dù vị thế xã hội của
cô ta ra sao. Hành động lấy chồng “Tây” bị xem như một hành động mất gốc,
hành động lầm lạc của một người đã hủy hoại nguồn cội của mình”. Có thể
thấy điều ấy được thể hiện rất rõ qua giọng điệu châm biếm trong phóng sự Kỹ
nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng nói về những phụ nữ lấy chồng người
Phương Tây những năm 30-40 của thế kỷ XX (“Những cuộc phối hợp của một
số đông phụ nữ nước nhà với những người Tây phương liệu có đáng là những
cuộc hôn nhân hẳn hoi không? Hay đó chỉ là…, chỉ như…, chỉ hao hao
giống…, chỉ phảng phất… đáng gọi là một thứ “kỹ nghệ”?).
Ở vùng “đất mới”, “đất trẻ” Nam Bộ, phần nhiều thôn ấp quy mô nhỏ rải
rác theo những triền sông, ven bờ kinh rạch, tổ chức cộng đồng thoáng mở hơn
Bắc Bộ. “Rất nhiều làng không có hương ước, cũng không có thần tích, thần
phả. (…) Dân làng nói chung không bị những quy ước, những lệ làng ràng
buộc, câu thúc chặt chẽ như ở Bắc và Trung” [Thạch Phương 1992: 55]. “Ở đây
quan hệ cá nhân là mạnh mẽ”. “những người tới đất Nam Bộ thường là đi riêng
lẻ từng cá nhân, ra đi là rứt bỏ những lề tục xưa cũ..” [Ngô Đức Thịnh 2004:
267]. Áp lực xã hội ở Nam Bộ nhìn chung không căng thẳng như ở Bắc Bộ.
Xử lý kết quả điều tra xã hội học từ đề tài nghiên cứu “Thực trạng phụ nữ
kết hôn với người Đài Loan tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long” (do Vụ Gia
đình – Viện Dân số Gia đình Trẻ em và Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn phối hợp thực hiện tại 6 tỉnh Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền
Giang, Hậu Giang, An Giang, Vĩnh Long – Tháng 3/2004), Phạm Thị Thùy
Trang ghi nhận: “Nếu như cách đây 10 năm, việc lấy chồng Đài Loan bị phê
phán thì hiện nay cộng đồng đã không còn coi đó là điều bất thường. Dư luận ở
đồng bằng sông Cửu Long hiện đang chuyển từ chỗ phản đối sang thái độ cảm
thông và dần dần đồng tình” 3[Phạm Thị Thùy Trang 2004].
Góp phần làm nên sức hấp dẫn Đài Loan còn phải kể đến ảnh hưởng
truyền thông. Những phim truyện Đài Loan chinh phục cư dân Nam Bộ nhiều
hơn Bắc Bộ (số giờ phát sóng trên truyền hình nhiều hơn, nhiều “đất” hơn trên
các tạp chí sân khấu điện ảnh, mốt, thời trang của các địa phương). Thập niên 90
của thế kỷ XX, dòng phim tình cảm lãng mạn đã “lấy nước mắt” của không biết
bao nhiêu khán giả nữ. Từ năm 2001, dòng phim thần tượng kết hợp sức mạnh
những kịch bản chuyển thể từ truyện tranh manga ăn khách của Nhật Bản lại đặc
biệt thu hút các khán giả tuổi teen. Hình tượng Đài Loan, qua sự thể hiện của
văn hóa đại chúng, như một “con Rồng châu Á” kinh tế phát triển thịnh vượng
đồng thời như một xứ sở tình yêu lãng mạn, đã trở thành giấc mộng của nhiều cô
gái Tây Nam Bộ.
Phim truyện Đài Loan không chỉ được chiếu trên truyền hình mà còn phát
hành rộng rãi qua băng đĩa DVD, do đó, đến được với đông đảo cư dân Tây
Nam Bộ. Trong khi đó, ở Tây Nam Bộ, báo chí và phim truyện cũng như phim
tài liệu Việt Nam lại là những phương tiện truyền thông hạn chế hơn. Những
khía cạnh tiêu cực, những câu chuyện bi kịch trong hôn nhân Việt-Đài được
phân tích qua hàng trăm bài báo (trong đó đặc biệt nổi bật có tiểu thuyết-phóng
sự nhiều kỳ Chuyện kể dưới đèn đường của phóng viên Trang Hạ báo Thanh
Niên) hoặc được dựng thành phim (điển hình như phim truyện Những cuộc tình
trắng đen) hầu như có rất ít ảnh hưởng.
b, Đài Loan
Dư luận xã hội Đài Loan có cái nhìn tiêu cực đối với những cô dâu đến từ
Việt Nam cũng như đến từ các nước châu Á khác.
Gần đây, truyền thông Đài Loan đã có những nỗ lực để cải thiện tình thế.
Năm 2007, cuộc thi viết Tiếng lòng của cô dâu di dân do Đảng Dân tiến và Hội
phụ nữ Tân Cảnh Giới của Đài Loan tổ chức, tạo cơ hội cho các cô dâu ngoại
được nói lên tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ. Cũng năm này, bán nguyệt
san Bốn phương (song ngữ Việt-Hoa) ra mắt, như một diễn đàn giúp các cô dâu
Việt hòa nhập văn hóa Đài Loan hiệu quả hơn. Năm 2008, chương trình truyền
hình mang tên Cô dâu Việt ở Đài Loan chính thức được phát sóng vào tối thứ
bảy hằng tuần. Nói về ý nghĩa của chương trình, Steve Wu, giám đốc cơ quan
3 Trong 635 bậc cha mẹ có con lấy chồng Đài Loan được hỏi, 632 người cho rằng được họ hàng, hàng xóm đồng
tình, 630 người cho rằng được chính quyền đồng tình. 73,7% trong số 460 thanh niên từ 15 đến 25 tuổi cho rằng
hiện tượng lấy chồng Đài Loan là bình thường.
Dịch vụ truyền hình Đài Loan nhấn mạnh: "Chúng ta đã đạt sự thần kỳ về kinh
tế, (…) giờ đây chúng ta bước vào thời kỳ mới, trở thành một xứ sở của những
người nhập cư. Chúng ta chào đón những người nhập cư vào các gia đình, sự
hiện diện của họ sẽ khiến Đài Loan thêm phong phú. Chương trình truyền hình
này là nhằm thể hiện lòng yêu mến của chúng ta với các cô dâu nhập cư".
3. Hôn nhân Việt-Đài ở miền Tây Nam Bộ nhìn từ văn hóa tổ chức
Các khía cạnh quan trọng nhất trong tổ chức hôn nhân xuyên quốc gia
Việt-Đài ở miền Tây Nam Bộ, bao gồm cách thức tổ chức môi giới, quy chế
xuất nhập cảnh cô dâu, những biện pháp hỗ trợ quá trình hòa nhập của cô dâu
trong xã hội Đài Loan. Hệ thống tổ chức này ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô, liên quan
đến cơ chế lập pháp, hành pháp, tư pháp, hoạt động của các cơ quan nhà nước,
các lực lưỡng xã hội cũng như từng cá nhân, gia đình trong cuộc.
3.1. Vấn đề môi giới và thị trường hôn nhân
Một số nhà nghiên cứu giải thích hôn nhân Việt-Đài ít khả năng hạnh
phúc vì phần nhiều là những hôn nhân qua môi giới. Thật ra, bản thân môi giới
không có lỗi.
Mai mối hôn nhân vốn có truyền thống lâu dài ở cả Việt Nam lẫn Đài
Loan. So với Bắc Bộ, trong ca dao tục ngữ Nam Bộ, những câu về mai mối và
vai trò của nó, nhiều hơn, đa dạng hơn. Quà cáp, lễ vật biếu ông mai bà mối ở
Nam Bộ, do ảnh hưởng của người Hoa, cũng mang tính quy chuẩn hơn với
phong tục biếu đầu heo. Khi chịu ảnh hưởng văn hóa Phương Tây, hướng tới tự
do yêu đương, những người tuổi trẻ, đặc biệt ở các thành phố, dần dà xem mai
mối như một hình thức cổ hủ, lạc hậu, thậm chí định kiến rằng những người kém
cỏi mới cần đến người mai mối – định kiến này ở Nam Bộ, tuy nhiên, cũng
không sâu đậm bằng ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, khi trong thời hiện
đại mở ra những hình thức mới của mai mối, từ các mục Làm quen trên báo chí,
các câu lạc bộ Kết bạn, các tour du lịch Kết bạn, các sự kiện giao lưu… cho đến
gặp gỡ trên mạng online và offline… thì những hình thức như vậy cũng xuất
hiện ở Nam Bộ sớm hơn, nhiều hơn, thoải mái, tự nhiên hơn ở Bắc Bộ.
Bản thân môi giới không gây phản ứng tiêu cực ở Tây Nam Bộ. Vấn đề ở
chỗ, khác với mai mối truyền thống vốn là hình thức giúp cho cô dâu, chú rể và
hai bên thông gia tương lai có điều kiện hiểu biết nhau thì môi giới hôn nhân
Việt-Đài giờ đây, trong nhiều trường hợp, mang rõ tính chất buôn người, xúc
phạm nhân phẩm phụ nữ Việt Nam và tạo những tiền đề tệ hại, không thể cứu
chữa cho cuộc hôn nhân về sau. Đó là khi ở Đài Loan, trước thời điểm hoạt
động môi giới trái phép bị nghiêm cấm (tháng 1 năm 2008), các quảng cáo về cô
dâu Việt Nam tràn ngập nơi đường phố, bến tàu xe, chợ búa: “Không tốn nhiều
tiền để có, không mất trinh, không bỏ trốn”, “Không đủ 300 cô gái cho bạn chọn
làm vợ, chúng tôi sẽ hoàn lại tiền!”. [Lại Văn Long 2008]. Đó là khi ở Việt
Nam, tục “xem mắt” biến tướng thành việc nhiều cô gái bị mang ra cho một vài
người đàn ông Đài Loan chọn lựa, nhiều trường hợp bị buộc thoát y, bị sờ nắn
như một con vật người ta lựa mua ngoài chợ. Những cách thức hành xử theo
kiểu chủ nô - nô lệ tình dục rất man dã như vậy không có đường nào để khởi đầu
cho một quan hệ “vợ chồng tương kính như tân” mà gia đạo cả Việt Nam lẫn
Đài Loan đều tôn trọng.
Cả Việt Nam lẫn Đài Loan đã có những cố gắng để ngăn chặn, giảm thiểu
tình trạng này, nhưng có thể nói, đều không đủ hiệu quả. Phía Đài Loan tuyên
phạt 1 triệu Đài tệ đối với những công ty môi giới trái phép. Còn phía Việt Nam
thì chiểu theo Nghị định 150/2005/NĐ- CP, người tổ chức môi giới hôn nhân
trái phép bị xử phạt từ 1.000.000 - 2.000.000 đồng4. Số tiền xử phạt như vậy
hoàn toàn không thấm tháp gì so với lợi nhuận kếch xù từ hoạt động môi giới
mà mỗi một cuộc, người đàn ông Đài Loan phải trả từ 250.000 đến 400.000 Đài
tệ (tương đương 7.400 – 11.840 USD), trong đó, gia đình cô gái chỉ được nhận
500 đến 1.000 USD, số còn lại thuộc về môi giới.
Thành ra, ở đây, cơ bản không phải chuyện “shock” văn hóa hôn nhân gia
đình Việt Nam và Đài Loan, mà thực sự, chúng ta đang đối mặt với vấn đề thị
trường hôn nhân xuyên quốc gia trong bối cảnh hội nhập, với những đòi hỏi
cung-cầu, những quy luật kinh doanh, những nguyên tắc trao đổi trong tương tác
xã hội.
Theo giải thích của một số nhà nghiên cứu, sự mất cân bằng giới tính ở
Đài Loan dẫn đến hiện tượng một số lượng lớn những người đàn ông nông thôn
khó kết hôn được với phụ nữ trong nước phải kiếm tìm ra nước ngoài, trong đó,
nhiều nhất từ Việt Nam. Luận điểm này đúng, song cần được hiểu sâu sắc hơn.
Về tỷ số giới tính5 khi sinh, nhìn chung, bé gái luôn nhiều hơn bé trai. Tuy
nhiên, theo UNDP, châu Á là khu vực có sự mất cân bằng tỷ lệ giới khi sinh cao
nhất thế giới do chuộng sinh con trai dẫn đến tình trạng nạo phá thai nhi nữ, giết
hài nhi nữ. Ở Đài Loan hiện nay, đúng là có sự thiếu cân bằng về nhân khẩu, với
106 người nam trên 100 người nữ, song, tỷ số 106 này vẫn trong phạm vi chuẩn
chấp nhận được của thế giới. Chính ở Việt Nam, sự mất cân bằng đang ngày
càng vượt chuẩn. Theo điều tra dân số năm 2006, tỷ số này chạm mức cao là
110, năm 2008 tới mức đáng báo động là 112. Tỷ số này ở miền Tây Nam Bộ
cao nhất nước (113), tiếp đến là Đông Nam Bộ (109). Chín trong số 12 tỉnh Tây
Nam Bộ có tỷ số giới tính khi sinh từ 110 đến 128.
“Làn sóng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan” (hay Hàn Quốc cũng
vậy) không phải xu hướng di chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu, mà lại là từ nơi
thiếu nhiều đến nơi thiếu ít, khiến sự mất cân bằng giới tính ở Việt Nam, đặc
biệt ở Tây Nam Bộ, ngày càng trầm trọng. Cốt lõi của tình thế không phải quá
trình cơ học của tỷ số giới tính mà do những vấn đề văn hóa giới gắn chặt không
tách rời bối cảnh và tương quan kinh tế-xã hội của hai bên.
Quá trình phát triển kinh tế thịnh vượng, quá trình hiện đại hóa, đô thị hóa
nhanh chóng ở Đài Loan đã tác động mạnh mẽ dẫn đến những thay đổi đảo lộn,
trong đó có quan hệ nữ giới và nam giới. Ngày càng nhiều những người phụ nữ
được nâng cao học vấn, tham gia vào môi trường nghề nghiệp cũng như hoạt
4 [vietnamnet.vn/xahoi/2009/07/858302/].
5 Những con số thống kê trong phần Tỉ lệ giới tính dựa theo http://giadinh.net.vn
động xã hội, thức nhận sự tự chủ, quyền bình đẳng của mình. Họ mạnh mẽ phá
bỏ hình tượng người phụ nữ “tam tòng, tứ đức” trong gia đình Tống Nho cổ xưa.
Họ phần đông quyết định kết hôn muộn, sinh ít con, đòi hỏi cao ở vị hôn phu về
cả trình độ học vấn, khả năng kinh tế, địa vị xã hội lẫn quan niệm hiện đại về
hôn nhân và gia đình. Kết quả là số lượng đông đảo những người đàn ông làm
lao động chân tay, thu nhập nghèo nàn ở các vùng nông thôn Đài Loan trở nên
không có cơ hội kết hôn. Những người đàn ông Đài Loan ế ẩm ấy bỏ tiền ra để
mua từ các nước đang phát triển, các nước chậm phát triển những người vợ - tôi
bộc, những người vợ như cái máy sinh sản, những người vợ với thân phận thấp
hèn mà phụ nữ Đài Loan hiện đại từ chối đảm nhận. Hành trình trong không
gian sang nước ngoài kiếm vợ của họ, trong bản chất, chính là hành trình ngược
thời gian, ngược tiến hóa, tìm lại chủ nghĩa sô vanh nam giới thời trung đại. Môi
giới phía Đài Loan tăng cường quảng cáo sự nhẫn nhục, thuần phục của các cô
gái Việt Nam. Trong khi đó, thực sự, ngay cả từ thời trung đại, so với Nho giáo
Trung Hoa, Nho giáo Đài Loan thì Nho giáo Việt Nam trên cơ tầng văn hóa
truyền thống Đông Nam Á, đặc biệt nơi thôn ấp Tây Nam Bộ, đã luôn luôn dân
chủ hơn, nghĩa là tiến bộ hơn, trong quan hệ giới. Gia đình miền Tây Nam Bộ,
nhìn chung không cứng rắn kiểu “chồng chúa vợ tôi”, và vì vậy, cô gái miền Tây
Nam Bộ không thể hình dung thân phận được chờ đợi của mình nơi xứ người.
Trong khi đó, đối với nhiều cô gái miền Tây Nam Bộ chọn lấy chồng
ngoại, bên cạnh hy vọng có tiền để giúp đỡ gia đình, thâm tâm họ cũng mong
muốn cuộc đổi đời cho bản thân. Họ hình dung người chồng từ xứ sở giàu sang
hẳn phải văn hóa, văn minh hơn so với nhiều thanh niên đồng hương nghèo khó,
thô kệch, không hiếm người còn rượu chè, cờ bạc, thượng cẳng chân hạ cẳng tay
với vợ con… Hành trình trong không gian - sang nước ngoài lấy chồng (hay lấy
chồng để được sang nước ngoài) của họ, trong bản chất, chính là hành trình hy
vọng vượt thời gian, tới trình độ phát triển cao hơn mà Việt Nam trong tương lai
mới đạt được. Nắm được tâm lý này, môi giới phía Việt Nam “đánh bóng” các
chú rể Đài Loan thành những nhân viên công ty, những cư dân đô thị giàu có
trong khi họ chỉ là những nông dân nghèo khổ, ít học. Theo công trình nghiên
cứu mới nhất về các gia đình Đài Loan có cô dâu Đông Nam Á của giáo sư Hứa
Nhã Huệ (Đại học Quốc tế Tế Nam), 85% các gia đình này có mức thu một
tháng dưới 2 vạn Đài tệ, tức là thu nhập thấp và rất thấp. Đến 86% chú rể Đài
Loan tuy có công việc, song chủ yếu chỉ là công việc tay chân… 14% thất
nghiệp hoàn toàn và hơn 50% là công việc không ổn định [Dẫn lại theo Trang
Hạ 2005].
Thành ra, nói như một số nhà nghiên cứu rằng những trục trặc trong hôn
nhân Việt-Đài do “rất ít cặp kết hôn do hoàn toàn tự nguyện”, theo chúng tôi là
không chính xác. Thật sự thì cả hai phía đều tự nguyện quyết định tham gia hôn
nhân như một trao đổi xã hội, trao một giá trị A để nhận được giá trị B, giá trị
này có thể là vật chất hay tinh thần, và điều này chẳng có gì bất bình thường, phi
tự nhiên. Lý thuyết tương tác trong nhân loại học văn hóa xem hôn nhân cũng
như mọi quan hệ giữa người và người, về một phương diện nào đó, thậm chí, về
bản chất, đều mang ý nghĩa trao đổi xã hội.
Điều khiến hôn nhân Việt-Đài không ít trường hợp đem thất vọng cho cả
hai phía là do trong trao đổi này, giữa giá trị B mà mỗi bên muốn nhận với giá
trị B’ mà đối tác thực có để trao là một khoảng cách quá lớn. Khoảng cách đó lại
bị lực lượng môi giới chạy theo lợi nhuận trên thị trường hôn nhân làm cho lớn
rộng nhiều hơn nữa. Quản lý lực lượng môi giới là biện pháp cần thiết song
không đủ để giải quyết triệt để tận gốc vấn đề.
Điều khiến hôn nhân Việt-Đài không ít trường hợp đem thất vọng cho cả
hai phía, nói cho cùng, là do trong trao đổi này, những giá trị khác đã thay thế
giá trị của tình yêu. Vũ Trọng Phụng từng viết trong Kỹ nghệ lấy Tây: “Đã
không cùng nói một thứ tiếng, người vợ lại chỉ coi ông chồng là cái tủ bạc thì
người chồng dễ mỗi lúc đã đem tấm thân ái tình ra tặng vợ hay sao?”. Ca dao tục
ngữ Việt Nam cũng từng đề cập cách thức tệ hại mà cả người chồng lẫn gia đình
nhà chồng có thể xử sự đối với cô dâu mà người ta phải mất nhiều tiền của mua
về: Mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng / Mất tiền mua thúng thì đụng cho
tan…
3.2. Vấn đề xuất nhập cảnh cô dâu
a, Đài Loan
Chính sách của phía Đài Loan với các cô dâu nước ngoài, có thể tóm tắt
trong một quan hệ thể hiện nghịch lý, đó là hết sức nới lỏng, dễ dàng, nhanh
chóng trong thủ tục nhập cảnh nhưng cực kỳ siết chặt, khó khăn, chậm chạp
trong thủ tục nhập tịch.
Cùng cô dâu Việt lấy chồng nước ngoài nhưng thủ tục nhập cảnh Hoa Kỳ
nghiêm ngặt hơn rất nhiều, đặc biệt với những cuộc phỏng vấn được tổ chức
khoa học, cặn kẽ để xác minh sự thật về cuộc hôn nhân cũng như mức độ hiểu
biết giữa hai người phối ngẫu. Trong khi đó, dễ dàng hơn nhiều để cuộc hôn
nhân được cơ quan đại diện Đài Loan ở Việt Nam đăng bộ hợp pháp và cô dâu
được thị thực cư trú tại Đài Loan.
Nhưng sang đến Đài Loan thì pháp luật “hạn chế di dân mới” lại có “tầng
tầng lớp lớp những nguyên tắc quy định” ràng buộc: trước khi lấy được chứng
minh thư, quyền lưu trú của các cô dâu nước ngoài không được đảm bảo, chỉ cần
một mảnh giấy cũng có thể buộc họ quay về nước. Pháp luật như một thế lực a
tòng khiến nhiều người chồng Đài Loan càng o ép, và những áp bức bất công
của chế độ phụ quyền vốn cổ hủ lạc hậu lại thêm một ách nặng trên vai các cô
dâu nước ngoài. Tất cả những điều này tăng trở ngại cho quá trình hòa nhập văn
hóa, càng khó khăn cho việc xây dựng tình nghĩa vợ chồng vốn thiếu nền tảng
của yêu đương. Họ có thể phải cố gắng chịu đựng để đến được thời điểm lấy
chứng minh thư nhưng không hiếm trong số họ sẽ xem đó cũng là thời điểm
thanh lý hợp đồng đối với cuộc hôn nhân mà họ không tìm thấy hạnh phúc, để
làm lại cuộc đời mình.
Quan hệ nghịch lý này khiến trong suốt một thời gian dài kết hôn Việt-
Đài tăng số lượng ào ạt, nhưng mang sẵn những tiềm năng tiêu cực, kể cả tạo kẽ
hở cho những cuộc hôn nhân giả.
Quan hệ nghịch lý này, ở chiều sâu chính là sự phân biệt, sự kỳ thị đối với
cô dâu nước ngoài, một sự kỳ thị không đáng có nếu người ta thức nhận được
hôn nhân xuyên quốc gia không phải là một vấn đề xã hội tiêu cực mà là một
hiện tượng tự nhiên của Đài Loan và hơn thế, một hiện tượng tích cực cho Đài
Loan, vì Đài Loan. Theo thống kê của Chính phủ Đài Loan, năm 2002 có đến
40.000 lễ cưới (chiếm 25% lễ cưới) là với các cô dâu nước ngoài; 30.000 đứa trẻ
(chiếm 12% trong số những đứa trẻ được sinh ra) là con lai. 40.000 trong số
280.000 cô dâu nước ngoài nhập quốc tịch Đài Loan là người Việt Nam. [Dẫn
lại theo Hoàng Quý 2003]. Như đã phân tích ở trên, những cô dâu nước ngoài là
giải pháp hôn nhân cho số lượng lớn nam giới nhiều tuổi, nghèo khó ở nông
thôn Đài Loan. Những cô dâu nước ngoài đồng thời là “cứu tinh” cho xã hội Đài
Loan ngày càng có nguy cơ thiếu hụt nguồn bổ sung nhân lực do phụ nữ Đài
Loan không muốn sinh con sớm và không muốn sinh nhiều con (Theo thống kê
tháng 8 năm 2003, tỷ lệ sinh sản tính theo số con trên một cặp vợ chồng ở Đài
Loan chỉ còn 1,3). Hôn nhân xuyên quốc gia kéo theo hệ quả những đứa con hai
dòng máu trở thành một bộ phận của tương lai Đài Loan. Những cô dâu nước
ngoài nhập cư và những trẻ em lai cần được Đài Loan hành xử trên lập trường
“chúng ta” thay vì đối lập “chúng ta” và “họ”.
b, Việt Nam
Chính sách đối với những cuộc hôn nhân xuyên quốc gia, về phía Việt
Nam, có thể cảm thấy dường như còn thiếu những quy định thật sự chặt chẽ.
Hãy nhớ trường hợp ông Liao Pen-yen, một nghị sĩ Đài Loan, từng đưa
ra yêu cầu các cô dâu Việt Nam phải được kiểm tra sức khỏe kỹ lưỡng đề phòng
trường hợp bị di chứng chất độc da cam thời chiến tranh có thể sinh con dị
dạng6. Có thể miễn bình luận ý kiến ông Liao mà chỉ liên hệ để thấy rằng phía
Việt Nam lẽ ra cũng phải siết chặt kiểm soát cấp phép để ngăn chặn hôn nhân
với những người đàn ông nước ngoài quá già nua hoặc bệnh tật nghiêm trọng chỉ
là gánh nặng trong cuộc sống gia đình và có thể sinh đứa con suy thoái. Đó chỉ
là ví dụ về một trong những khía cạnh của vấn đề.
Nếu kiểm soát cấp phép được siết chặt hiệu quả hơn trên tinh thần trách
nhiệm cao đối với quyền lợi của những người con gái Việt Nam và tương lai của
những đứa trẻ lai mang dòng máu Việt, chắc chắn đã giảm được nhiều trường
hợp bi kịch, giảm được số những cuộc ly hôn, số những người vợ thất bại mang
con về quê mẹ khiến Việt Nam trở thành “thùng rác” của hôn nhân xuyên quốc
gia.
KẾT LUẬN
Đặc điểm tương đồng về cơ bản giữa văn hóa Đài Loan và Việt Nam (di
sản Nho giáo với sự coi trọng gia đình, đức hạnh của người phụ nữ) là những
“lực hút” khiến cho hôn nhân Việt-Đài trở thành hôn nhân xuyên quốc gia quan
trọng nhất đối với cả hai nước.
6 [http://tintuc.xalo.vn/00-997564642/nghien_cuu_suc_khoe_cua_co_dau_viet_o_dai_loan.html].
Mặt khác, những đặc trưng khác biệt về mức độ, cách thế cụ thể trong văn
hóa truyền thống cũng như quá trình hiện đại hóa Việt Nam và Đài Loan cũng
tạo ra những trở ngại cho hôn nhân Việt - Đài. Việt Nam, mà nhất là Nam Bộ,
đa dạng chủng tộc (heterogeneity) hơn, do đó, ý thức đa văn hóa cởi mở hơn
trong khi Đài Loan trên nền tảng thuần chủng (homogeneity) lâu dài, phân biệt
cứng rắn hơn giữa trong nhóm và ngoài nhóm, giữa văn hóa chủ lưu và các yếu
tố ngoại biên. Một cách tương đối, ở Đài Loan, xã hội mang tính chất trục tung
hơn (vertical society) với tôn ti nghiêm ngặt hơn, khoảng cách quyền lực rộng
hơn, nam tính hơn, trong khi ở Việt Nam nói chung, Tây Nam Bộ nói riêng, xã
hội mang tính chất trục hoành hơn (horizontal society) với tính dân chủ mềm
mại hơn, khoảng cách quyền lực hẹp hơn, nữ tính hơn.
Mặc dù đã cố gắng vận dụng văn hóa so sánh như cách tiếp cận có ý
nghĩa quan trọng, chúng tôi ý thức rằng những so sánh Việt-Đài trong báo cáo
này có thể thuyết phục, hiệu quả hơn nếu được tăng cường những hiểu biết
phong phú, cặn kẽ, thấu đáo hơn về lịch sử, văn hóa, xã hội Đài Loan. Hợp tác
nghiên cứu giữa các học giả Việt Nam và Đài Loan, theo chúng tôi, sẽ là giải
pháp tốt nhất để nâng cao chất lượng những công trình nghiên cứu như thế này
trong tương lai./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Bá Thịnh: “Dư luận xã hội về hôn nhân có yếu tố nước ngoài”
http://www.hcmussh.edu.vn/ussh/ImportFile/Magazine/Journal231006044
029.doc
2. Hoàng Quý 2003: “Những cô dâu nhập cảng ở Đài Loan”.
http://lenduong.net/spip.php?article5251
3. Lại Văn Long 2008: “Sang Đài Loan gặp các cô dâu Việt”.
http://cao.congan.com.vn/phong_su_dieu_tra/2008/04/mlnews.2008-04-
21.9683992648
4. Mai Trang (theo Taipei Times) 2007: “Series truyền hình cho cô dâu Việt
ở Đài Loan”. http://vietbao.vn/Nguoi-Viet-bon-phuong/Series-truyen-
hinh-cho-co-dau-Viet-o-Dai-Loan/11018447/283/
5. Ngô Đức Thịnh 2004: Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam.
NXB Trẻ. Tp. HCM.
6. Phạm Thị Thùy Trang 2004: “Định hướng dư luận xã hội tại đồng bằng
sông Cửu Long về việc lấy chồng Đài Loan”. Tập san Khoa học Xã hội và
Nhân văn số 9. Trường ĐHKHXHVNV Tp. HCM.
7. Phan An, Phan Quang Thịnh, Nguyễn Quới 2005: Hiện tượng phụ nữ Việt
Nam lấy chồng Đài Loan. NXB. Trẻ.
8. Phan An: “Trở lại chuyện phụ nữ Việt Nam lấy chồng người Đài Loan”.
Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn số 39. Trường ĐHKHXHVNV Tp.
HCM.
9. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh 1992: Văn hoá
dân gian người Việt ở Nam Bộ. NXB. Khoa học Xã hội.
10. Trang Hạ 2005: “Lấy chồng Đài Loan – Con đường chẳng có hoa hồng”.
http://vietbao.vn/Xa-hoi/Lay-chong-Dai-Loan-Con-duong-chang-co-hoa-
hong/70020745/157/
11. Trang Hạ 2010: “Chuyện kể dưới ngọn đèn đường”.
http://www.tienphong.vn/Phong-Su/188371/Chuyen-ke-duoi-ngon-den-
duong.html
12. Trần Hồng Vân 2008: “Hiện trạng và đặc trưng hôn nhân xuyên biên giới
vùng Đông và Đông Nam Á”. TC Khoa học Xã hội số 10 (122). Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ.
13. Trần Ngọc Thêm 2006: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. NXB. Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Trần Ngọc Thêm 2008: “Tính cách văn hóa người Việt Nam Bộ như một
hệ thống”. http://www.vanhoahoc.edu.vn/content/view/408/74/
15. Trần Thị Kim Xuyến 2005: “Nguyên nhân của phụ nữ đồng bằng sông
Cửu Long kết hôn với người Đài Loan”, Tạp chí Xã hội học số 1(89) .
16. Trần Thò Kim Xuyeán, thaùng 8/2004, Tìm hieåu thöïc traïng phuï nöõ keát hoân
vôùi ngöôøi Ñaøi Loan taïi khu vöïc ñoàn baèng soâng Cöûu Long, Ñeà taøi khoa
hoïc, Tröôøng Ñaïi hoïc KHXH&NV TP.HCM
17. Trần Văn Giàu (chủ biên) 1987: Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh.
NXB TpHCM.
18. “Từ tập quán văn hóa hôn nhân gia đình Nam Bộ Việt Nam suy nghĩ về
hôn nhân xuyên biên giới”.
http://www.romelaw.com.vn/index.php?option=com_content&view=artic
le&id=386
19. “Tỷ số giới tính của Việt Nam và một số địa phương những năm gần đây:
Hiện trạng và bàn luận”. http://giadinh.net.vn/50263p1054c1060/ty-so-
gioi-tinh-cua-viet-nam-va-mot-so-dia-phuong-nhung-nam-gan-day-hien-
trang-va-ban-luan.htm